Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Lịch sử cuộc đời nhà khoa học nguyễn văn nhân dưới góc độ văn hóa...

Tài liệu Lịch sử cuộc đời nhà khoa học nguyễn văn nhân dưới góc độ văn hóa

.PDF
91
440
128

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ LIÊM LỊCH SỬ CUỘC ĐỜI NHÀ KHOA HỌC NGUYỄN VĂN NHÂN DƢỚI GÓC ĐỘ VĂN HÓA Chuyên ngành: Văn hóa học Mã số: 60 31 06 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Nguyễn Văn Huy HÀ NỘI – 2017 LỜI CẢM ƠN Trước tiên, tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể Quý thầy cô đã và đang giảng dạy, công tác tại Học viện Khoa học xã hội, đặc biệt là Quý thầy cô của khoa Văn hóa học, những người tận tình chỉ bảo, giúp đỡ và định hướng cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn này. Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Văn Huy, người đã quan tâm, định hướng và có nhiều những góp ý hữu ích giúp tôi trong quá trình thực hiện luận văn của mình. Cảm ơn thầy vì đã cho tôi có được một góc nhìn mới trong lĩnh vực nghiên cứu Văn hóa. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến lãnh đạo Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam đoàn thể, các tổ chức, cá nhân đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập thông tin và các tài liệu liên quan. Xin trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 26 tháng 2 năm 2017 Tác giả luận văn Hoàng Thị Liêm LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài luận văn thạc sĩ “Lịch sử cuộc đời nhà khoa học Nguyễn Văn Nhân dưới góc độ văn hóa” là công trình tổng hợp tư liệu và nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những ý kiến, nhận định, tư liệu khoa học của các tác giả được ghi chú xuất xứ đầy đủ. Hà Nội, ngày 26 tháng 2 năm 2017 Tác giả luận văn Hoàng Thị Liêm MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 Chƣơng 1: KHÁI LƢỢC VỀ CON NGƢỜI VÀ LỰA CHỌN NGÀNH Y CỦA NGUYỄN VĂN NHÂN ....................................................................... 6 1.1. Bối cảnh Việt Nam những năm thế kỷ XX .............................................. 6 1.2. Dòng họ, gia đình Nguyễn Văn Nhân .................................................... 12 1.3. Đến với ngành Y và những yếu tố ảnh hưởng đến nhân cách của Nguyễn Văn Nhân ............................................................................................................ 14 Chƣơng 2: NHỮNG ĐÓNG GÓP TRONG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC, KHÁM CHỮA BỆNH VÀ ĐÀO TẠO CỦA NGUYỄN VĂN NHÂN ..... 30 2.1. Các công trình nghiên cứu khoa học của Nguyễn Văn Nhân ................. 30 2.2 Nguyễn Văn Nhân trong công tác khám chữa bệnh, giảng dạy và đào tạo. 45 Chƣơng 3: BÀN LUẬN VỀ GIÁ TRỊ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ CUỘC ĐỜI NHÀ KHOA HỌC ........................................................... 54 3.1 Giá trị lịch sử-văn hóa ............................................................................ 54 3.2 Giá trị bảo tồn di sản của nhà khoa học .................................................. 58 3.3 Giá trị giáo dục ....................................................................................... 64 KẾT LUẬN ................................................................................................. 68 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 70 PHỤC LỤC ................................................................................................. 74 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài “Lịch sử luôn bắt đầu từ mỗi cá nhân, mỗi gia đình. Lịch sử đất nước sẽ được nhìn phong phú hơn, đa dạng hơn nếu bắt đầu từ mỗi cá nhân, mỗi gia đình… Mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi dòng tộc nếu có điều kiện và biết cách kể câu chuyện của mình thì sẽ góp phần làm cho lịch sử của đất nước phong phú hơn, đa dạng hơn”[2, tr.33]. Nghiên cứu lịch sử cuộc đời là một trong những phương pháp tiếp cận nhân học trên thế giới được sử dụng phổ biến. Ở Việt Nam cũng có rất nhiều nhà nghiên cứu về những nhân vật khác nhau về các nhân vật lịch sử như: Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Phan Bội Châu… Trung tâm lưu trữ Quốc gia cũng đang lưu trữ các tài liệu về cuộc đời của một số nhân vật. Đây là công việc hết sức quý giá trong việc gìn giữ, bảo tồn di sản của đất nước. Năm 2008, Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam được thành lập với chức năng nghiên cứu, bảo tồn và lưu giữ những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể thông qua tiểu sử, ký ức, tư liệu và hiện vật cá nhân của các nhà khoa học Việt Nam. Trong việc nghiên cứu lịch sử cuộc đời của nhà khoa học, Trung tâm đã sử dụng cách tiếp cận - phương pháp nghiên cứu lịch sử cuộc đời để kể các câu chuyện của nhà khoa học. Ngay từ những ngày đầu thành lập, các nhà khoa học chuyên ngành y học đã được lựa chọn làm đối tượng nghiên cứu trước, sau đó lan rộng ra các chuyên ngành khác. Trong quá trình nghiên cứu về các nhà khoa học thuộc ngành y, tôi vô cùng ấn tượng với GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân (1924-2013). Mặc dù ông không phải là một vị giáo sư nổi tiếng như GS Tôn Thất Tùng hay GS Hồ Đắc Di nhưng ông lại là hiện tượng hiếm thấy ở Việt Nam khi bảo vệ luận án tiến sĩ (nay gọi là tiến sĩ khoa học) ở tuổi 67. Sinh tại Hội Vũ, Hoàn Kiếm, Hà Nội, ông là nhà khoa học thuộc chuyên ngành phẫu thuật chỉnh hình, nguyên 1 là Chủ nhiệm Khoa Chấn thương chỉnh hình, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, được đào tạo ở Liên Xô cũ. Khi nghiên cứu, chúng tôi mới biết ông là một trong những chuyên gia hàng đầu về Chấn thương chỉnh hình quân đội, người lập ngân hàng xương đầu tiên ở Việt Nam, có nhiều sáng kiến, đóng góp trong việc áp dụng các kỹ thuật mới trong phẫu thuật xương. Cũng như với nhiều nhà khoa học khác, việc đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử cuộc đời của GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân là một công việc hết sức cần thiết để thông qua đó có thể hiểu được bối cảnh lịch sử; những đóng góp của GS Nhân đối với ngành Chấn thương chỉnh hình nói riêng và ngành Y học nói chung; bên cạnh đó cũng thấy được phẩm chất của một thầy thuốc với trái tim nhân hậu, luôn hết lòng vì người bệnh và say mê nghiên cứu khoa học. Đây chính là lý do tôi quyết định lựa chọn đề tài “Lịch sử cuộc đời nhà khoa học Nguyễn Văn Nhân dưới góc độ văn hóa” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Văn hóa học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam đã có nhiều ấn phẩm xuất bản nói về câu chuyện cuộc đời của các nhà khoa học. Các ấn phẩm đó có thể là từ các hồi ký như: Nhớ nghĩ chiều hôm của GS Đào Duy Anh, Hồi ký thời kỳ thanh thiếu niên của GS Đặng Thai Mai, Đường vào khoa học của tôi của GS Tôn Thất Tùng; các cuốn sách giới thiệu chân dung, hoạt động, những đóng góp của nhà khoa học như Giáo sư Nguyễn Xiển - Cuộc đời và sự nghiệp, Đặng Văn Ngữ - Một trí tuệ Việt Nam, Tạ Quang Bửu - Nhà khoa học tài năng, uyên bác... Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam xuất bản sách tập hợp các bài viết của các nghiên cứu viên trong quá trình nghiên cứu lịch sử cuộc đời của các nhà khoa học: Di sản ký ức của nhà khoa học(tập 1,2,3,4,5,6,7), Những câu chuyện hiện vật (tập 1,2,3). 2 Tuy nhiên, chưa có một công trình hay một ấn phẩm nào thể hiện một cách sâu sắc và toàn diện về lịch sử cuộc đời của GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân. Câu chuyện về cuộc đời ông được một số tác giả đề cập trong các sách, tạp chí, trang báo điện tử. Trong cuốn Những tấm gương thầy thuốc Việt Nam, NXB Y học, 2009 trang 560 giới thiệu những thông tin cơ bản của GS Nhân, đồng thời có hai bài viết: Vị giáo sư già và sứ mệnh “Nâng niu bàn chân Việt” ở trang 561-564 và Thầy thuốc nhân dân Nguyễn Văn Nhân ở trang 564-568 giới thiệu ứng dụng bộ dụng cụ kết xương bên ngoài của GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân trên những bệnh nhân mổ bàn chân khoèo, kéo dài chi... do ông trực tiếp mổ. “Đôi bàn tay vàng cùng với những dụng cụ chỉnh hình sáng chế của ông đã giúp nhiều bệnh nhân thoát khỏi cảnh tật nguyền với chi phí không quá cao”. Tác giả Hương Giang có bài viết Lặng lẽ giúp cho con người đứng thẳng... đưa ra nhận xét: Đề tài “bàn chân khoèo” của ông không những có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội mà còn có ý nghĩa về mặt kinh tế, đó là cơ hội cho những người tật nguyền nghèo khó”. Các tài liệu nói về GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân như: Tạp chí Chỉnh hình, Maitrise Orthopédique, Pháp, 1996 đăng bài phỏng vấn Nguyễn Văn Nhân. Ngay ở lời tựa của bài phỏng vấn có giới thiệu “Giáo sư Nguyễn Văn Nhân là một trong những người tiên phong và là trưởng kíp trong ngành phẫu thuật chỉnh hình và chấn thương ở Việt Nam. Từng chứng kiến những cuộc chiến tranh trải dài trên đất nước mình, ông đã cống hiến chuyên ngành của mình để điều trị những nạn nhân và những người bị tai nạn”. Trong bài phỏng vấn, GS Nhân kể về quá trình học tập, công tác, nghiên cứu của mình. Cuốn sách Di sản ký ức của nhà khoa học (tập 2, 3, 4); Câu chuyện hiện vật (tập 1, 2) của Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam, đăng các bài viết liên quan đến quá trình học tập, công tác, nghiên cứu, cũng như các tài liệu của GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân như: Tình đồng đội và niềm tin son sắt (Hoàng 3 Thị Liêm), Hơn 40 năm theo dõi một bệnh nhân (Hoàng Thị Liêm, Lê Thị Hoài Thu), Món quà kỷ niệm của một bênh nhân (Nguyễn Thị Thành)... Báo Quảng Bình - Cơ quan của Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Bình, số 127, ngày 22-10-1998 có bài phỏng vấn GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân "Một giờ và một đời" của tác giả Tâm Phùng. Cuốn Giáo sư Việt Nam cũng có một trang viết khái quát thông tin cá nhân,quá trình công tác, hướng nghiên cứu, quá trình giảng dạy và đào tạo cũng như khen thưởng của GS Nhân. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu thông tin về lịch sử cuộc đời của GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân gắn liền bối cảnh lịch sử, kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế, thông qua việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu lịch sử cuộc đời. - Bước đầu đưa ra những nhận định về giá trị của việc nghiên cứu lịch sử cuộc đời nhà khoa học trong việc bảo tồn di sản của nhà khoa học. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nhà khoa học Nguyễn Văn Nhân. - Phạm vi nghiên cứu: Lịch sử cuộc đời nhà khoa học Nguyễn Văn Nhân từ năm 1924 đến năm 2013. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn thực hiện dựa trên phương pháp nghiên cứu nhân học về lịch sử cuộc đời một con người. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng: Phương pháp sử học: Đặt lịch sử cuộc đời của GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân gắn liền với bối cảnh lịch sử trong nước và quốc tế. Phương pháp quan sát tham gia, phỏng vấn trực tiếp GS.TSKH Nhân khi ông còn sống và các đối tượng liên quan như đồng nghiệp, học trò, bệnh nhân. Nguồn tư liệu này có được là do sử dụng tư liệu lưu trữ tại Trung tâm Di sản các 4 nhà khoa học Việt Nam và tác giả luận văn cũng thực hiện phỏng vấn khi công tác tại Trung tâm. Phương pháp phân tích, tổng hợp các thông tin thu được từ việc phỏng vấn; phân tích tổng hợp các văn bản tài liệu bản thảo, thư từ, sách, tạp chí, luận văn... của GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân hiện đang được lưu trữ tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Qua các câu chuyện về lịch sử cuộc đời của GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân, phần nào thấy được bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam và quốc tế giai đoạn ông sinh sống, học tập, công tác; những câu chuyện về nỗ lực học tập, sáng tạo của nhà khoa học trong thời kỳ khoa học kỹ thuật còn chưa phát triển; góp phần tìm hiểu lịch sử của chuyên khoa Chấn thương chình hình nói chung và ngành Y nói riêng. Qua đó thấy được giá trị của việc nghiên cứu lịch sử cuộc đời trong việc bảo tồn di sản của các nhà khoa học. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận văn được bố cục thành 3 chương: Chương 1: Khái lược về con người và lựa chọn ngành Y của Nguyễn Văn Nhân Chương 2: Hoạt động và những đóng góp của Nguyễn Văn Nhân Chương 3: Bàn luận về giá trị của việc nghiên cứu lịch sử cuộc đời nhà khoa học 5 Chƣơng 1: KHÁI LƢỢC VỀ CON NGƢỜI VÀ LỰA CHỌN NGÀNH Y CỦA NGUYỄN VĂN NHÂN 1.1. Bối cảnh Việt Nam những năm thế kỷ XX 1.1.1. Về chính trị Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-1930 là dấu mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Ngay sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo cuộc chiến của nhân dân ta giành được nhiều thắng lợi, để chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám sau này, điển hình là phong trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao là Xô Viết - Nghệ Tĩnh, phong trào đấu tranh dân chủ 1936-1939, và cuộc vận động chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám. Tháng 8-1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà người đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã khởi nghĩa giành chính quyền thành công, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2-9-1945. Đầu năm 1946, nhân dân ta lần đầu tiên được thực hiện quyền làm chủ của mình, cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam mới được tổ chức thành công, với hơn 98% cử tri trong cả nước đi bỏ phiếu. Tuy nhiên, vì chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng thực dân Pháp đã phá bỏ trắng trợn hiệp định mà chúng đã ký với ta. Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp ngày càng lên cao, từ đó Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh đã vang đi khắp cả nước, động viên toàn thể dân tộc vào một cuộc chiến lâu dài để tự giải phóng cho ta: "Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng thì thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta thêm một lần nữa. Không, chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ".1 Sau khi Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến ra đời, toàn thể dân tộc ta đã bước vào một cuộc chiến trường kỳ đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược. 1 Hồ Chí Minh toàn tập, tập IV, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2011, tr. 480. 6 Cuộc kháng chiến 9 năm (1945-1954) chống lại sự xâm lược trở lại của Pháp của Việt Nam, kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Geneve về Việt Nam năm 1954. Theo Hiệp định này, đất nước tạm thời bị chia làm hai vùng lãnh thổ miền Bắc và miền Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến và sẽ được thống nhất hai năm sau đó (1956) thông qua một cuộc tổng tuyển cử. Miền Bắc Việt Nam vào thời kỳ nay mang tên Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động với Thủ đô là Hà Nội. Miền Nam mang tên Việt Nam Cộng hoà với sự quản lý của chính quyền thân Pháp, rồi thân Mỹ đặt tại Sài Gòn. Chính quyền Sài Gòn đã bằng mọi cách ngăn chặn cuộc tổng tuyển cử, đàn áp và loại bỏ những người kháng chiến cũ. Tuy nhiên, Chính quyền Sài Gòn đã không thể ngăn cản được nguyện vọng thống nhất đất nước của quần chúng, phong trào đấu tranh vì hòa bình, thống nhất đất nước đã bùng nổ mạnh mẽ và ngày Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, ngày 20-12-1960. Để duy trì Chế độ Sài Gòn, Mỹ đã tăng cường viện trợ quân sự. Đặc biệt kể từ giữa thập kỷ 60 Mỹ đã gửi nửa triệu quân Mỹ và đồng minh đến miền Nam Việt Nam trực tiếp tham chiến, và từ ngày 5-8-1964 bắt đầu ném bom miền Bắc Việt Nam. Nhưng nhân dân Việt Nam, theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Không có gì quý hơn độc lập tự do", đã đứng vững và giành nhiều thắng lợi ở cả hai miền Nam và Bắc. Năm 1973, Washington buộc phải ký hiệp định Paris về lập lại hoà bình ở Việt Nam và rút toàn bộ quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam. Mùa xuân năm 1975, trên tinh thần đại đoàn kết dân tộc và được sự đồng tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý và tiến bộ trên thế giới, các lực lượng vũ trang yêu nước Việt Nam đã thực hiện cuộc tổng tiến công đập tan Chính quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 25-4-1976, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được đổi tên thành nước Cộng hoà Xã hội 7 chủ nghĩa Việt Nam với lãnh thổ bao gồm cả hai miền Nam và Bắc. Năm 1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên hợp quốc1. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đã đề ra đường lối Đổi mới với trọng tâm là đổi mới kinh tế. Đây là một mốc quan trọng trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam thời kỳ mới. Đường lối Đổi mới đã tiếp tục được Đảng khẳng định và hoàn thiện qua các kỳ Đại hội sau đó. Trong hơn 20 năm qua, Việt Nam từ một nước nhập khẩu lương thực đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới, nhiều chủng loại hàng hóa được xuất khẩu và nhiều thương hiệu hàng hóa được thế giới biết đến; kinh tế đạt tăng trưởng cao vào những năm cuối cùng của thế kỷ XX và những năm đầu tiên của thế kỷ XXI, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao, chính sách xã hội được chú trọng hơn hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện, quản lý xã hội trên cơ sở luật pháp dần đi vào nề nếp, an ninh quốc phòng được giữ vững, quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. 1.1.2. Về kinh tế Trong hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, trong đó có 45 năm đầu thế kỷ XX, kinh tế Việt Nam chìm đắm trong nghèo nàn và lạc hậu, nhân dân ta phải sống trong cảnh nô lệ và đói nghèo cả về vật chất và tinh thần, 90% dân số mù chữ. Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính quyền Cách mạng ra đời chưa có thời gian củng cố, đã phải đương đầu với hàng loạt khó khăn thách thức của “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại xâm”. Đảng và Nhà nước ta đã bắt tay ngay vào giải quyết những khó khăn cấp bách của đời sống nhân dân, tăng cường thực lực cách mạng trên tất cả các phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội... 1 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.167. 8 Với âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa, thực dân Pháp bội ước nổ súng đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và đổ bộ hàng nghìn quân lên Đà Nẵng (20-11-1946). Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Đảng và Chính phủ, nhân dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến đầy gian khổ nhưng rất anh hùng. Cùng với nhiệm vụ thực hiện cuộc kháng chiến chống chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, chúng ta đã thực hiện chuyển nền kinh tế tàn tích thực dân, phong kiến và thấp kém thành nền kinh tế dân chủ, độc lập phục vụ nhu cầu kháng chiến kiến quốc1. Trong thời kỳ này (1946-1954) kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng nên cùng với việc động viên nông dân tích cực tăng gia sản xuất, Chính phủ đã từng bước thực hiện các chính sách về ruộng đất, giảm tô, giảm tức. Năm 1949, sắc lệnh giảm tô, giảm tức được ban hành, đồng thời tạm cấp ruộng đất thu được của thực dân Pháp và địa chủ bỏ chạy vào vùng địch tạm chiếm chia cho nông dân nghèo. Nhờ đó, trong các vùng giải phóng, sản xuất nông nghiệp phát triển, sản lượng lương thực năm 1954 đạt gần 3 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946, tốc độ tăng giá trị sản lượng nông nghiệp ở miền Bắc trong 9 năm kháng chiến đạt 10%/năm. Nhiều cơ sở công nghiệp quan trọng phục vụ quốc phòng và sản xuất hàng hóa tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân được khôi phục và mở rộng.Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kiệt quệ vì sự bóc lột lâu dài của đế quốc và phong kiến, dân tộc ta đã đứng lên kháng chiến 9 năm gian khổ chống thực dân Pháp, kết thúc bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nước ta đứng trước một tình hình mới, cách mạng Việt Nam thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp 1 Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (cb), Đại cương Lịch sử Việt Nam từ thời nguyên thủy đến năm 2000, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2011. 9 tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành cuộc cách mạng độc lập dân tộc trong cả nước1. Sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc (1954), sản xuất công nghiệp từng bước được khôi phục và phát triển. Trong 3 năm khôi phục kinh tế (1955-1957) và tiếp theo là kế hoạch 5 năm 1961-1965 với đường lối công nghiệp hóa, nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp được phục hồi và xây dựng. Từ năm 1965 đến 1975, tuy miền Bắc phải đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ nhưng sản xuất công nghiệp vẫn được duy trì và phát triển. Công nghiệp miền Bắc thời kỳ này đã có bước phát triển khá. Từ những cơ sở sản xuất công nghiệp nhỏ bé, chủ yếu là khai thác nguyên liệu và sửa chữa nhỏ nay đã bắt đầu sản xuất một phần tư liệu sản xuất và phần lớn những vật phẩm tiêu dùng của nhân dân. Có thể nói, miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội xuất phát từ một nền kinh tế hết sức nghèo nàn lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Song, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, được sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân miền Bắc không những làm tròn sứ mệnh là hậu phương lớn đối với miền Nam ruột thịt, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, mà còn giành được những thắng lợi to lớn trong công cuộc cải tạo và xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa và nâng cao đời sống nhân dân. Trải qua 21 năm chiến đấu gian khổ và anh hùng, cách mạng miền Nam từng bước lớn mạnh và giành được nhiều thắng lợi to lớn. Với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975, quân và dân ta đã đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc. Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. 1 Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (cb), Đại cương Lịch sử Việt Nam từ thời nguyên thủy đến năm 2000, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2011. 10 Tuy nhiên, kết quả sản xuất trong 5 năm 1976-1980 chưa tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra; những mất cân đối của nền kinh tế quốc dân còn trầm trọng; thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng của xã hội; thị trường, vật giá, tài chính, tiền tệ không ổn định; đời sống của nhân dân lao động còn khó khăn. Lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước giảm sút. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 10 khoá V (6-1986) đã đánh giá tình hình sau cuộc điều chỉnh giá-lương-tiền (9-1985) và khẳng định chính thức đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Đại hội VI của Đảng tháng 12-1986 đã quyết định thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, nhất là đổi mới về mặt tư duy kinh tế. Đường lối đổi mới của Đảng đã tác động tích cực đến sự phát triển của các ngành sản xuất và dịch vụ. Cùng với thành tựu trong tăng trưởng kinh tế, Việt Nam đã đạt được những kết quả xuất sắc trong xóa đói giảm nghèo. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ưu tiên phát triển nông nghiệp và nông thôn, vùng sâu, vùng xa đã thành công trong việc giải phóng sức sản xuất của dân cư nông thôn và khuyến khích họ tự mình phấn đấu cải thiện cuộc sống. 1.1.3. Văn hóa, xã hội Trước cách mạng tháng Tám nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến, nên di sản mà thực dân Pháp để lại cho chúng ta là vô cùng to lớn. Thực dân Pháp đã thực hiện một nền giáo dục nô dịch, trên 90% dân số mù chữ. Trung bình 1 vạn dân chỉ có 115 học sinh vỡ lòng, 210 học sinh tiểu học, 2 học sinh chuyên nghiệp và đại học. Cơ sở y tế thiếu thốn và chủ yếu phục vụ cho quân đội viễn chinh Pháp và bọn tay sai phản động. Cả nước chỉ có 213 bác sĩ, 335 y sĩ, 264 nữ hộ sinh, bình quân 1 vạn dân mới có 0,23 bác sĩ và y sĩ. 11 Cùng với nỗ lực đẩy mạnh sản xuất, sự nghiệp giáo dục-chống giặc dốt được coi là một trong những nhiệm vụ hàng đầu, đi đôi với chống giặc ngoại xâm, giặc đói. Từ 1946 đến 1954 có 10,5 triệu người thoát nạn mù chữ. Cùng với phát triển kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân cũng nâng lên. Lấy năm 1957 làm gốc so sánh, Quỹ tiêu dùng của nhân dân tính bình quân đầu người tăng 82,8%; thu nhập bình quân đầu người của gia đình công nhân viên chức tăng 48,5%; của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng 73,8%. Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, Đảng và Nhà nước ta đã tiếp tục lãnh đạo nhân dân xây dựng nền kinh tế, văn hóa giáo dục, và đã đạt được nhiều thành tựu. Sự nghiệp giáo dục đạt nhiều thành tựu. Tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở lên biết đọc, biết viết đã tăng từ 88% năm 1989 lên 91% năm 1999. Năm 2000 nước ta đã hoàn thành chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quan tâm. Hệ thống y tế đã được phát triển từ tuyến cơ sở tới trung ương với nhiều loại hình dịch vụ y tế đã tạo điều kiện cho người dân được lựa chọn các dịch vụ y tế phù hợp. Năm 1990, tính bình quân 1 vạn dân có 3,5 bác sĩ; đến năm 2004 là 6,1. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi năm 1990 từ 51,5%; đến năm 2004 còn 26,7%. Chỉ số về sức khoẻ bà mẹ và trẻ em có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ tử vong của trẻ em đã giảm xuống bằng với mức phổ biến ở những nước có thu nhập đầu người cao gấp 2-3 lần Việt Nam. 1.2. Dòng họ, gia đình Nguyễn Văn Nhân GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân sinh ngày 12-8-1924 tại Hội Vũ, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Thân phụ ông là cụ Nguyễn Văn Hạnh sinh năm 1899 tại đường Nam Bộ, Hà Nội. Năm 1915, cụ Hạnh học lớp y tá nhà binh 7 tháng tại Nhà thương đồn thuỷ (nay là Bệnh viện Trung ương Quân đội 108), ra trường 12 bị điều sang Pháp rồi Tân Đảo, đến năm 1922 mới về nước và làm việc ở nhà thương Chũ - Phú Thọ - Việt Trì - Hưng Hoá - Đồn Vàng, cho đến 1937 mới trở lại Bệnh viện Phủ Doãn làm việc cho đến kháng chiến toàn quốc. Tháng 12-1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, cụ Hạnh theo đoàn giải phẫu lưu động của GS Tôn Thất Tùng ra Vân Đình (Hà Đông) cho đến cuối năm 1947 về Ban Y tế Phú Thọ phụ trách Trạm y tế nông cụ kháng chiến rồi sang trường Trung học quốc dân miền núi đến 1951 nghỉ mất sức. Tháng 7-1955, cụ lại ra làm việc phụ trách y tế ở Ty Giao thông Lạng Sơn đến ngày mất (20-6-1968). Thân mẫu của GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân là cụ Hoàng Thị Chín, quê ở Thượng Thuỵ, Ước Lễ, Thanh Oai, Hà Tây. Cụ Chín có con trai là Nguyễn Đình Quế, sau một thời gian chồng cũ mất, cụ Chín lấy cụ Nguyễn Văn Hạnh. Cuộc đời cụ cũng giống như bao phụ nữ thành thị ngày trước: Lấy chồng-sinh con-nuôi dạy con cái-quản lý nhà cửa, nghĩa là cuộc đời của một bà nội trợ. Do công việc của cụ Hạnh đi đây đó khắp nơi nên cụ Chín phải theo chồng đến những vùng cụ Hạnh phải chuyển đến. Sau khi cụ Hạnh mất, cụ Chín về Hà Nội sống cùng với con trai Nguyễn Văn Nhân, nhưng chỉ một thời gian ngắn thì đổ bệnh, phải vào nằm tại Viện Quân y 108. Lúc này, Hà Nội hết sức căng thẳng vì Mỹ đe doạ ném bom nên BS Nguyễn Văn Nhân phải vào hẳn trong Viện để “trực chiến”. Tháng 11-1968, tình hình bệnh của cụ càng xấu đi, lúc tỉnh lúc mê, BS Nguyễn Văn Nhân lại nhận được lệnh chuẩn bị đi B. BS Nhân vào chiến trường được 10 ngày thì cụ bà mất. Có thể thấy truyền thống gia đình cũng có người theo ngành y, đây là một trong những yếu tố quyết định đến việc lựa chọn ngành Y của Nguyễn Văn Nhân. GS Nhân kể: “Sơ học tiểu học tôi học ở trường Tiểu học Đồn Vàng, châu Thanh Sơn, Phú Thọ do khi đó thân phụ ông bị cử biệt phái lên Phú Thọ làm Bệnh xá trưởng ở khu Đồn Vàng. Tôi đi theo bố nên học ở những chỗ khỉ ho cò gáy ấy. Và cũng vì bố tôi đi làm ở các nơi như thế và 13 mình học ở những nơi không nổi tiếng, không giỏi cho nên trình độ của mình là xoàng. Đến lúc tôi về Hà Nội, tôi học tiểu học ở trường Sinh Từ. Tự biết trình độ của mình nên tôi chỉ dám thi vào trường trung học Đỗ Hữu Vị, không dám thi vào trường Bưởi, nhưng cũng không đỗ, thành ra tôi phải đi học trường tư thôi, chứ không được học trường công. Trường tư thục tôi học là trường Thăng Long, Hà Nội. Tú tài tôi học trường tư thục Louis Parteur, Hà Nội. Từ nhỏ, tôi quen đi nhiều, quen được xem bố làm các công việc chuyên môn, tôi thấy thích và tôi tự thấy mình khéo tay, rất thích làm thủ công, làm các phẫu thuật về xương là phù hợp nên sau khi thi đỗ tú tài triết học (năm 1944, kỳ 2), tôi thi vào trường Y ngay khoá đầu tiên sau cách mạng tháng Tám, năm 1945”2. 1.3. Đến với ngành Y và những yếu tố ảnh hƣởng đến nhân cách của Nguyễn Văn Nhân Năm 1945, Nguyễn Văn Nhân thi đỗ trường Đại học Y Dược khoa, khóa đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám. Học được một năm thì kháng chiến bùng nổ, Nguyễn Văn Nhân tham gia phục vụ tại Cục Giao thông - Công Binh, lúc đó Cục trưởng là thầy Hoàng Đạo Thuý, trụ sở ở một ngôi đình cách Vân Đình khoảng 15-17 cây số. Trước đó, Nguyễn Văn Nhân đã tham gia sinh hoạt trong tổ chức Hướng đạo sinh Việt Nam của nhà giáo Hoàng Đạo Thuý từ Thiếu sinh lên Tráng đoàn Nhị Khê. Nhiệm vụ lúc đó là đi chuyển giao các công văn, mệnh lệnh, có lúc đi hộ tống bàn giao đạn dược vũ khí, có chuyến đi nhận đạn pháo từ Pháo đài Láng chuyển ô tô, đi đêm lên cho pháo đài Phùng. Về lịch sử của phong trào hướng đạo có thể thấy, ông tổ của hướng đạo thế giới là Baden Powell (1857-1941). Trong trận chiến Boers ở Nam Phi Tướng Baden Powell là vị chỉ huy quân Anh ít ỏi bị quân Boers đông gấp bội vây hãm trong bẩy tháng trời và đã chiến thắng oanh liệt ở thị trấn 2 Phạm Kim Ngân, Trần Ngọc Ánh, Phỏng vấn GS Nguyễn Văn Nhân ngày 10-12-2009. 14 Mafeking. Ông đã viết tập chỉ dẫn huấn luyện binh sỹ các điều căn bản về mưu sinh, tìm dấu vết đi rừng, liên lạc thám báo, quan sát địa hình và thoát hiểm. Hai thập kỷ sau (1929-1930) phong trào Hướng đạo mới chớm vào Việt Nam. Nhóm thanh niên dân tộc đang trăn trở với vận mệnh đất nước sau việc thực dân Pháp đàn áp tàn khốc các cuộc nổi dậy của phong trào Văn Thân, Đông kinh nghĩa thục và các cuộc khởi nghĩa Xô Viết - Nghệ Tĩnh - Yên Bái - Nam Kỳ - Đô Lương... đã thấy ở Hướng đạo một công cụ thần diệu giúp thực hiện lý tưởng, tạo ra những con người nhiệt tình với đất nước, với dân tộc. Hội hướng đạo Việt Nam được ông Hoàng Đạo Thúy (1900-1994) sáng lập vào năm 1930, trong thời thuộc Pháp. Về sau ông Hoàng Đạo Thúy, một nhà mô phạm, lập Tráng Đoàn Lam Sơn quy tụ được những trí thức danh tiếng như BS Tôn Thất Tùng, BS Phạm Biểu Tâm. Trang phục hướng đạo sinh ngày đó là áo sơ mi cộc tay nâu, quần sooc xanh, đầu đội mũ rộng vành, đeo khăn quàng. Nguyễn Văn Nhân là một trong 4 người anh lớn tuổi của Đoàn Tây Hồ: Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Văn Nhân, Ngô Văn Chính, Phạm Hướng. Có thể nói chính trong thời gian hoạt động trong ở tổ chức hướng đạo sinh là một trong ba yếu tố làm nên thành công của Nguyễn Văn Nhân, bởi từ nhỏ đã được rèn luyện tính tự lập, bản lĩnh. Sau ngày Hà Nội nổ súng, Nguyễn Văn Nhân được biết Bệnh viện Phủ Doãn có một bộ phận chuyển về Vân Đình lập một trạm phẫu thuật cấp cứu ở đó. Đây là bộ phận của GS Tôn Thất Tùng, Hồ Đắc Di, Hoàng Đình Cầu cùng một số sinh viên và nhân viên Ngoại khoa. Lúc này, Nguyễn Văn Nhân vẫn phục vụ ở Cục Giao thông liên lạc, chỉ qua lại những trạm giải phẫu và bệnh xá này vì trường chưa gọi sinh viên về. Sau khi GS Hồ Đắc Di, GS Tôn Thất Tùng lên Việt Bắc thành lập trường Đại học Y khoa ở Chiêm Hóa (Tuyên Quang), Nguyễn Văn Nhân được tin, xin thôi công tác ở Cục Giao thông liên lạc để về truờng tập trung 15 học tiếp ở Chiêm Hoá vào giữa năm 1947. Nguyễn Văn Nhân tự đi lên tìm trường, qua Tuyên Quang đi lên đường Hà Giang đến cây số 31 rẽ đi chợ Bợ, qua Đèo Gà, lên Chiêm Hoá, vào Ngòi Quẵng. Nguyễn Văn Nhân thuộc khoá 1945, sau khi thi lên năm thứ 4 thì trường gửi sinh viên đi thực tập ở các nơi. Nguyễn Văn Nhân xin về khu III, nơi có trạm Giải phẫu lưu động A do BS Hoàng Đình Cầu phụ trách, ở thôn Chuôn (Ứng Hoà, Hà Đông). Trạm giải phẫu A lúc đó (1948) xây dựng trên cơ sở của nhà hộ sinh thôn Chuôn (Chuôn-Tre) nằm ngay trên bờ con sông Đào từ Đồng Quan đi Cống Thần-Chợ Đại. Nhà mổ triển khai ở buồng đỡ đẻ cũ của nhà hộ sinh, một nhà gạch nhỏ một tầng. Phụ trách nhà mổ này là ông Khang “già”. Số nhân viên này ở ngay trong khu nhà hộ sinh và nhóm sinh viên cũng ở nhờ ngay tại đây. Hồi đó bộ đội, du kích dân quân và nhân dân bị thương ở một phần Hà Nội đều được đưa về xử trí ngoại khoa ở trạm giải phẫu A. Cũng nhờ có trạm giải phẫu A, nhà hộ sinh Chuôn cũng tập trung những ca đẻ thường, đẻ khó của cả vùng. Giường bệnh là những chõng tre hoặc phản gỗ… nhưng hầu như lúc nào cũng đầy bệnh nhân. Các vết thương chiến tranh đủ các loại rất phong phú: từ sọ - não đến bụng, lồng ngực, gãy xương, dập nát chi… Nhóm sinh viên “nội trú” vì ăn ở ngay trạm nên bao giờ cũng tiếp xúc với thương binh đầu tiên: khám xét, sơ cứu, làm chẩn đoán, dự kiến chỉ định xử trí, ra mệnh lệnh cho nhân viên chuẩn bị rồi mới vào làng báo cáo với các sinh viên khóa trên và BS Hoàng Đình Cầu. Các ca điều trị đầu tiên phần lớn là BS Cầu và các sinh viên khóa trên trực tiếp mổ, sinh viên được phụ hoặc đứng xem học tập, ghi chép. BS Cầu và các anh lớp trên ngày ấy thường rất ít giảng giải: ra xem lại chẩn đoán rồi ra lệnh rửa tay và vào mổ. Sinh viên Nguyễn Văn Nhân và Đinh Văn Lạc bàn nhau: ai không phải phụ mổ, sẽ đứng ngoài ghi chép, vẽ lại các thì mổ và kỹ thuật mổ. …Cứ thế, sau vài ba ca mổ mỗi loại, hai người lại 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan