Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Liên kết bốn nhà trong sản xuất nông nghiệp tại huyện bình giang, tỉnh hải dương...

Tài liệu Liên kết bốn nhà trong sản xuất nông nghiệp tại huyện bình giang, tỉnh hải dương

.PDF
103
282
109

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ --------------------- VŨ TIẾN DŨNG “LIÊN KẾT BỐN NHÀ” TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN BÌNH GIANG, TỈNH HẢI DƢƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH Hà Nội – 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ --------------------- VŨ TIẾN DŨNG “LIÊN KẾT BỐN NHÀ” TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN BÌNH GIANG, TỈNH HẢI DƢƠNG Chuyên ngành: Quản lý kinh tế Mã số: 60 34 04 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:TS. NGUYỄN ANH TUẤN XÁC NHẬN CỦA CÁN BỘ HƢỚNG DẪN XÁC NHẬN CỦA CHỦ TỊCH HĐ CHẤM LUẬN VĂN Hà Nội - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn đều đƣợc trích dẫn nguồn trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chƣa đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... i DANH MỤC BIỂU ĐỒ ............................................................................................. ii DANH MỤC BẢNG .................................................................................................. ii PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................................1 CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MỐI “LIÊN KẾT BỐN NHÀ” TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP..........................................................................................................5 1.1. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu ....................................................................5 1.2. Cơ sởlý luận về mối liên kết bốn nhà trong phát triển nông nghiệp ................8 1.2.1. Khái niệm vềmối“liên kết bốn nhà” ...........................................................8 1.2.2. Các chủ thể tham gia trong “liên kết bốn nhà”:........................................9 1.2.3. Vai trò và lợi ích của “liên kết bốn nhà”: ...............................................14 1.3.Nội dung xây dựng mô hình và tiêu chí đánh giá “Liên kết bốn nhà” ............19 1.3.1. Quy trình xây dựng mô hình “liên kết bốn nhà”......................................19 1.3.2. Các tiêu chí đánh giá mô hình“liên kiên nhu ch”....................................22 CHƢƠNG 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................................23 2.1. Phƣơng pháp tổng hợp số liệu ........................................................................23 2.1.1. Tổng hợp kết quả điều tra khảo sát trong một xã; ...................................23 2.1.2. Tổng hợp kết quả điều tra, khảo sát trong một xã: ..................................23 2.2. Thu thập dữ liệu ..............................................................................................23 2.3. Phƣơng pháp tổng hợp xử lý thông tin ...........................................................24 2.4. Phƣơng pháp phân tíchvà đánh giá .................................................................25 CHƢƠNG 3. PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG MỐI “LIÊN KẾT BỐN NHÀ” TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP HUYỆN BÌNH GIANG TỈNH HẢI DƢƠNG ............................................................................................................27 3.1. Khái quát chung về sản xuất nông nghiệp huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dƣơng. ..27 3.2. Thực trạng liên kết trong sản xuất nông nghiệp huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dƣơng ....................................................................................................................30 3.2.1. Sự cần thiết của “liên kết bốn nhà” ở huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương ...30 3.2.2. Những thách thức trong “Liên kết bốn nhà” ở huyện Bình Giang: ........31 3.2.3. Thực trạng xây dựng Liên kết bốn nhà ở huyện Bình Giang ...................33 3.3. Đánh giá kết quả của liên kết bốn nhà ............................................................60 3.3.1. Những kết quả đạt được ...........................................................................60 3.3.2. Một số hạn chế trong liên kết bốn nhà: ....................................................67 3.3.3. Nguyên nhân: ...........................................................................................70 CHƢƠNG 4. ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG MỐI “LIÊN KẾT BỐN NHÀ” TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP HUYỆN BÌNH GIANG TỈNH HẢI DƢƠNG ..........................................................75 4.1. Mô hình “liên kết bốn nhà” trong sản xuất nông nghiệp theo xu hƣớng phát triển bền vững ........................................................................................................75 4.1.1. Mô hình liên kết thông qua hợp đồng kinh tế ...........................................75 4.1.2. Mô hình liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản theo hướng bền vững ....................................................................................................................76 4.1.3. Tạo lập, phát triển hoạt động “liên kết bốn nhà” trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn ...............................................................................................79 4.2. Các giải pháp thực hiện các mô hình “liên kết bốn nhà” trong sản xuất nông nghiệp huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dƣơng ...........................................................80 4.2.1. Phát huy vai trò nhà nước trong quản lý quan hệ “liên kết bốn nhà” nhằm phát triển kinh tế nông nghiệp ..................................................................80 4.2.2. Phát huy vai trò Doanh nghiệp trong liên kết ..........................................83 4.2.3. Tăng cường năng lực cho Nhà nông, Nhà khoa học và Doanh nghiệp. ..88 4.2.4. Đổi mới phương thức hợp đồng và tăng cường hiệu lực thực hiện hợp đồng tiêu thụ nông sản theo đúng các quy định của pháp luật ..........................89 KẾT LUẬN ...............................................................................................................93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................95 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Ký hiệu Nguyên nghĩa 1 HTX Hợp tác xã 2 KHKT Khoa học kỹ thuật 3 TACN Thức ăn chăn nuôi 4 CNH Công nghiệp hóa 5 HĐH Hiện đại hóa i DANH MỤC BIỂU ĐỒ STT Biểu đồ 1 Biểu đồ 3.1 2 Biểu đồ 3.2 3 Biểu đồ 3.3 Nội dung Cơ cấu kinh tế huyện Bình Giang năm 2015 Biểu đồ nhận thức quan hệ liên kết trong sản xuất nông nghiệp Biểu đồ nhu cầu liên kết trong sản xuất Trang 27 41 43 DANH MỤC BẢNG STT Bảng 1 Bảng 3.1 Nội dung Giá trị sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Bình Giang 2011-2015 Trang 28 Hiệu quả tài chính của hộ sản xuất lúa trong mô 2 Bảng 3.2. hình liên kết và ngoài mô hình liên kết tại thôn Bùi 60 Xá năm 2014 Hiệu quả tài chính của mô hình liên kết vụ Đông 3 Bảng 3.3. XuânThôn Bùi Xá, trong năm 2014, năm 2015 và 2016 ii 60 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Liên kết là hoạt động cần thiết, nhằm phát huy vai trò, đảm bảo khả năng phát triển và tính hiệu quả của các đơn vị sản xuất, quản lý sản xuất trong kinh tế thị trƣờng. Quan hệ liên kết đƣợc tổ chức với các cấp độ khác nhau, song phƣơng, đa phƣơng, nhằm nâng cao tính cạnh tranh của nông sản.Từ khi triển khai Quyết định 62/2013/QĐ-TTg của Chính phủ “Về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn”, nghị định 55/2015/NĐ-CP “Về chính sách tín dụng phục vụ nông nghiệp, nông thôn”, Nghị quyết 14/NQ-CP “Về thí điểm cho vay theo chuỗi liên kết”, nhiều mô hình liên kết đã hoạt động rất có hiệu quả nhƣ các mô hình liên kết nuôi cá tra ở An Giang; trồng hoa, cây cảnh ở Văn Giang, Hƣng Yên. Gần đây đã có những mô hình liên kết khá thành công nhƣ hợp tác xã Hàm Minh- Hàm Thuận Nam ở tỉnh Bình Thuận chuyên sản xuất thanh long xuất khẩu. Chuỗi liên kết nâng cao hiệu quả sản xuất lúa gạo ở xã Khánh Trung, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Khi đến vụ thu hoạch, mỗi đợt hợp tác xã đã xuất khẩu đƣợc hàng trăm tấn đến các khách hàng khó tính. Đó là hiệu quả của liên kết thành công. Nguyên nhân thành công trên là do sự kết hợp chặt chẽ thành một mối giữa ngƣời sản xuất và nhà doanh nghiệp, vừa sản xuất vừa xuất khẩu. Để bán đƣợc sản phẩm có giá cao, họ phải cố gắng sản xuất ra đƣợc sản phẩm có chất lƣợng cao tƣơng ứng. Đồng hành với họ, các nhà khoa học đã hỗ trợ đắc lực cho hợp tác xã thông qua công tác chọn giống, kỹ thuật bón phân, phòng trừ sâu bệnh, phƣơng pháp sản xuất nông sản theo tiêu chuẩn VietGap, rồi GlobalGAP. Phía Nhà nƣớc đã có chính sách phù hợp nên khuyến khích đƣợc hợp tác xã, nông dân làm việc hết mình, tận dụng có hiệu quả đất đai và lao động cho sản xuất sản phẩm sạch, có chính sách ƣu đãi về lãi suất đối với Doanh nghiệp trong chuỗi liên kết và hỗ trợ phần lãi suất đối với các Ngân hàng thƣơng mại tham gia cho vay chuỗi liên kết. Bằng những chính sách đó đã khuyến khích đƣợc các thành phần tham gia chuỗi liên kết. Nhƣ Nông dân sản xuất theo quy trình này vừa tiết kiệm chi 1 phí, vừa bán đƣợc giá nông sản cao hơn trƣớc nên thu lợi nhiều hơn. Thành công trên cũng do hợp tác xã đóng vai cả “hai nhà”: nhà nông và nhà doanh nghiệp. Hợp tác xã, nông dân đƣợc sự hỗ trợ của Nhà nƣớc thông qua Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, Trung tâm khuyến nông tỉnh và các nhà khoa học về nghành nông nghiệp, bảo vệ thực vật tham gia tích cực. Hợp tác xã, những hộ nông dân tham gia chuỗi liên kết đứng ra ký hợp đồng với các Doanh nghiệp bao tiêu đầu ra cho sản phẩm. Do đó chuỗi liên kết khá chặt và chứng tỏ rằng trong mối “liên kết bốn nhà” thì nông dân và doanh nghiệp phải là lực lƣợng cốt yếu. Yêu cầu thực tiễn đặt ra phải có sự liên kết để chuyển sang sản xuất hàng hóa quy mô lớn, chất lƣợng cao để phát huy tiềm năng, lợi thế. Nhất thiết phải thực hiện mô hình “liên kết bốn nhà”, nhƣng không thể máy móc cho tất cả các ngành, các lĩnh vực. Vấn đề này đòi hỏi phải nghiên cứu các cơ chế, chính sách hiện nay có phù hợp với tình hình mới. Các chính sách cần phải linh hoạt cho các mô hình sản xuất vận dụng để phát huy hiệu quả. Cần tổ chức lại sản xuất trên nguyên tắc gắn chặt với thị trƣờng, quy hoạch vùng sản xuất, cơ cấu lại sản phẩm theo hƣớng phát huy vai trò, thế mạnh của từng địa phƣơng, từng vùng”. Huyện Bình Giang tỉnh Hải Dƣơng là một huyện phát triển chủ yếu nhờ các sản phẩm từ cây nông nghiệp, nhƣng các liên kết giữa các nhà trong quá trình sản xuất còn rất yếu đòi hỏi phải có những mối liên kết mới đƣợc hình thành theo yêu cầu khách quan với vai trò của liên kết tạo môi trƣờng, điều kiện thuận lợi, hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trong thực tế, quá trình hình thành quan hệ liên kết đã làm xuất hiện liên kết giữa các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực tài chính, công nghiệp, nông nghiệp. Phát triển nông nghiệp của huyện Bình Giang chỉ dừng lại ở sản xuất với quy mô nhỏ, chƣa có sự liên kết hỗ trợ của các chủ thể, hoặc là sự liên kết trong sản xuất nông nghiệp rất lỏng lẻo. Mô hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh nhƣ: tổ hợp tác, hợp tác xã chƣa đủ khả năng tự chủ sản xuất kinh doanh, khả năng tự tích lũy, mở rộng đầu tƣ nhằm đảm bảo tồn tại, phát triển theo yêu cầu. Ở huyện Bình Giang, tình trạng vi phạm trong liên kết là vấn đề thƣờng xuyên xẩy ra làm 2 cho các mối quan hệ càng thêm lỏng lẻo. Một số nông dân chƣa gạt bỏ đƣợc tƣ tƣởng hám lợi trƣớc mắt; còn doanh nghiệp chƣa tôn trọng các hợp đồng đã ký hay chƣa thực hiện đầy đủ các cam kết, việc thiếu cơ chế rõ ràng khiến vai trò của nhà khoa học chƣa đƣợc đề cao. Những hạn chế và yếu kém của sự liên kết trong nông nghiệp có thể làm giảm năng lực sản xuất, cạnh tranh, khả năng thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do đó, việc tìm mô hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp là rất cần thiết đối với huyện Bình Giang hiện nay nói riêng và trong phát triển toàn ngành nông nghiệp nói chung. Hình thức “liên kết bốn nhà” không chỉ làm tăng năng lực, vai trò hiệu quả sản xuất của các nhà, điều kiện, môi trƣờng sản xuất kinh doanh thuận lợi, mà sâu xa hơn, sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Trên đây là những vấn đề nghiên cứu mang tính bức thiết, chiến lƣợc cho quá trình phát triển mô hình liên kết trong nông nghiệp và vấn đề này cần phải thực hiện nhanh, trƣớc yêu cầu đổi mới và sâu rộng nhƣ hiện nay ngành nông nghiệp huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dƣơng chƣa đáp ứng đƣợc. Bên cạnh đó, mô hình “liên kết bốn nhà” là một mô hình cần phải có và đƣợc nhân rộng trong sản xuất nông nghiệp của huyện Bình Giang, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ cho sự phát triển chung, tôi lựa chọn đề tài: “Liên kết bốn nhà” trong sản xuất nông nghiệp tại huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương để làm luận văn nghiên cứu. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu: Đề xuất mô hình và các giải pháp nhằm tăng cƣờng “Liên kết bốn nhà” trong sản xuất nông nghiệp tại huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dƣơng 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về liên kết và vai trò của “bốn nhà” trong phát triển kinh tế - xã hội nông nghiệp nông thôn. - Thực trạng mối “liên kết bốn nhà” trong phát triển kinh tế nông nghiệp huyện Bình Giang tỉnh Hải Dƣơng. - Đề xuất mô hìnhvà các giải pháp nhằm tăng cƣờng liên kết “giữa các nhà” để phát triển sản xuất nông nghiệp huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dƣơng. 3 - Đặc thù của liên kết bốn nhà trong sản xuất nông nghiệp là các nhà đều phải tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật sở tại, đều phải có trách nhiệm giàng buộc nhau, đều đƣợc bình đẳng trong môi trƣờng sản xuất và kinh doanh. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1.Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề “liên kết bốn nhà” trong phát triển nông nghiệp 3.2. Phạm vi nghiên cứu: - Không gian: huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dƣơng - Thời gian: 2013 - 2015 (đây là giai đoạn toàn huyện thực hiện dồn ô, đổi thửa để đảm bảo có các cánh đồng lớn để thực hiện liên kết). - Nội dung: mối liên kết giữa nhà nông - nhà nƣớc - nhà doanh nghiệp - nhà khoa học (bốn nhà) theo các nội dung lợi ích, vai trò và các hình thức liên kết giữa các nhà. 4. Kết cấu của luận văn Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, luận văn có kết cấu gồm 4 chƣơng nhƣ sau : Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và một số vấn đề lý luận cơ bản về mối “liên kết bốn nhà” trong phát triển kinh tế nông nghiệp Chƣơng 2: Phƣơng pháp nghiên cứu Chƣơng 3: Phân tích và đánh giá thực trạng mối “liên kết bốn nhà” trong phát triển kinh tế nông nghiệp huyện Bình Giang tỉnh Hải Dƣơng. Chƣơng 4: Đề xuất mô hình và các giải pháp nhằmtăng cƣờng mối “liên kết bốn nhà” trong phát triển kinh tế nông nghiệp huyện Bình Giang tỉnh Hải Dƣơng 4 CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MỐI “LIÊN KẾT BỐN NHÀ” TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP 1.1. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu cơ bản để nông sản có sức cạnh tranh không chỉ thị trƣờng quốc tế mà ngay ở thị trƣờng trong nƣớc là sản phẩm phải đảm bảo đƣợc các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, số lƣợng lớn, giá cả hợp lý và có chiến lƣợc thị trƣờng tốt. Để đạt đƣợc điều này, ngƣời nông dân cần phải liên kết với không chỉ doanh nghiệp mà cả nhà khoa học với sự hỗ trợ của nhà nƣớc. Chính vì vậy, việc liên kết bốn nhà là xu hƣớng tất yếu của ngành nông nghiệp Việt Nam và đã đƣợc Nhà nƣớc đặt ra từ Quyết định 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 về chính sách khuyến khích tiêu thu nông sản thông qua hợp đồng. Tuy nhiên, nghiên cứu về vấn đề liên kết này mặc dù đã có nhƣng không nhiều, có thể liệt kê một số công trình sau: Nghiên cứu của Nguyễn Phú Son (2013) về Mô hình liên kết “bốn nhà” trong sản xuất và tiêu thu lúa gạo tại xã Định Hòa, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang đã nghiên cứu các bƣớc xây dựng mô hình liên kết và đánh giá thực trạng liên kết “bốn nhà” đƣợc xây dựng tại xã Định Hòa, huyện Gò Quao. Nghiên cứu đã đề xuất một qui trình gồm 6 bƣớc và dựa trên sở lý thuyết liên kết dọc trong chuỗi giá trị giữa Hợp tá xã HòaTiến và Công ty Gentraco, với sự hỗ trợ, thúc đẩy của Ủy ban nhân dân xã Định Hòa và nhóm tƣ vấn củatrƣờng Đại học Cần Thơ. Kết quả của mô hình đã mang lại những lợi íchcho cả “bốn nhà”. Đối với nông dân, lợi ích lớn nhất mang lạicho họ là việc làm thay đổi hành vi sản xuất theo hƣớng “Bán cái thị trƣờng cần, chứ không phải bán cái mình có”. Đối với Công ty, việc tham gia mô hình liên kết này đã góp phần làm gia tăng thƣơng hiệu, cũng nhƣ tạo tiền đề cho việc xây dựng vùng nguyên liệu. Đối với địa phƣơng, thông qua việc tham gia liên kết đã giúp cho cán bộ địa phƣơng nâng cao đƣợc năng lực quản lý, cũng nhƣ góp phần vào nhiệm vụ xây dựng Nông thôn mới. Nghiên cứu đi đến kết luận thông qua 5 liên kết này đã giúp cho những nhà khoa học bổ sung thêm cơ sở lý thuyết cho chuỗi giá trị cũng nhƣ làm gia tăng sự trải nghiệm về vấn đề liên kết “bốn nhà”. Nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Duy Cần, Võ Hồng Tú và Nguyễn Văn Sánh (2011) về Liên kết “bốn nhà” trong sản xuất và tiêu thu lúa gạo: Trường hợp nghiên cứu ở tỉnh An Giang cũng đã nghiên cứu đánh giá mối liên kết “bốn nhà”. Nghiên cứu lựa chọn An Giang là một trong những tỉnh đứng đầu của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)trong sản xuất lúa gạo hàng hóa. Tuy nhiên, trong quá trình này ngƣời nông dân vẫn còngặp không ít khó khăn nhƣ cạnh tranh gay gắt, lúa gạo đôi khi không tiêu thụ đƣợc,... Môhình liên kết “bốn nhà” đƣợc xem là một cứu cánh giúp tháo gỡ đầu ra của sản xuấtnhƣng nó cũng gặp không ít khó khăn. Nghiên cứu có mục tiêu phân tích,đánh giá các trở ngại, cơ hội của nông dân trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo; phântích, đánh giá các mối quan hệ của mô hình “bốn nhà” và đề xuất đƣợc giải pháp đểlàm tăng cƣờng mối quan hệ “bốn nhà” cho sản xuất và tiêu thụ lúa gạo. Kết quả nghiêncứu cho thấy những trở ngại chính trong quá trình sản xuất và tiêu thụ lúa gạo của nôngdân là thiếu nguồn cung ứng giống tốt, nguồn vốn đầu tƣ hạn chế, giá cả vật tƣ nôngnghiệp biến động và tình hình đƣợc mùa mất giá. Về mối quan hệ “bốn nhà” thì nhìn chungcòn lỏng lẻo, mức độ tham gia liên kết của các tác nhân có vai trò quyết định còn hạnchế. Tuy nhiên, trong quá trình liên kết này lại nhận đƣợc sự hỗ trợ nhiệt tình từ phíachính quyền địa phƣơng một tác nhân có tầm quan trọng nhất quyết định đến hiệu quảcủa mô hình liên kết “bốn nhà”. Luận án tiến sĩ của tác giả Võ Hữu Phƣớc (2014) về Nghiên cứu, ứng dụng mô hình liên kết “bốn nhà” vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp nông thôn tỉnh Trà Vinh cũng đã nghiên cứu mô hình và đề xuất giải pháp đối với “liên kết bốn nhà” trong nông nghiệp ở Trà Vĩnh. Nghiên cứu đã đi đến kết luận phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam, vai trò của nông nghiệp, nông thôn và giai cấp nông dân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tăng cƣờng mối quan hệ “bốn nhà”vừa là đòi hỏi khách quan vừa là một trong những nhân tố quyết định sự thành công của tăng trƣởng kinh tế và tiến bộ , công bằng xã hội, thực hiện mục tiêu 6 dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong sản xuất nông nghiệp liên kết “bốn nhà” để phát huy sức mạnh và hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, để mối liên kết này bền chặt cần phải làm rõ vai trò của từng nhà và chú trọng đến “lợi ích” kinh tế cùa từng nhà.Liên kết “bốn nhà” trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn tỉnh Trà Vinh là xu hƣớng tất yếu và phù hợp với lộ trình phát triển tổng thể của Tỉnh. Tác giả đề xuất các mô hình sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Trà Vinh gồm: mô hình tập trung hóa, mô hình đa thành phần và mô hình trung gian… Trong các mô hình này phải đặt “nhà nông” vào vị trí trung tâm, “Nhà khoa học” phải khách quan và công tâm, “Nhà nƣớc” và “nhà doanh nghiệp: quyết định sự thành bại trong mối liên kết. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Trang Thanh (2015) về Thực trạng liên kết giữa sản xuất và chế biên chè ở tỉnh Nghệ An trong đó đã đề cập đến mô hình liên kết bốn bên. Nghiên cứu chỉ ra Nghệ An đã hình thành vùng chuyên canh chè gắn với công nghiệp chế biến đạthiệu quả kinh tế cao. Năng suất và sản lƣợng tăng nhanh. Hàng năm, tỉnh Nghệ An đã xuất khẩukhoảng 5.000 tấn chè sang các nƣớc trên thế giới. Tuy nhiên, mối liên kết giữa sản xuấtvà chế biến chè chƣa bền vững: số lƣợng cơ sở chế biến mini tăng nhanh, nguyên liệu mớichỉ đáp ứng đƣợc khoảng 45% công suất chế biến; hiện tƣợng tranh mua nguyên liệu vẫnxảy ra,... Vì vậy, để phát triển vùng chè bền vững, cần phải quy hoạch vùng và phân vùngnguyên liệu theo từng cơ sở chế biến; giám sát chất lƣợng sản phẩm từ sản xuất đến chếbiến; mở rộng quy mô trồng chè của hộ nông dân; Ngoài liên kết bốn nhà, cần phải liên kếtvới ngân hàng để hỗ trợ vốn cho cả doanh nghiệp và ngƣời nông dân. Kế thừa những kết quả nghiên cứu trƣớc đây về cơ sở lý luậnliên kết, mối liên kết bốn nhà, các mô hình liên kết, luận văn tập trung thu thập, tổng hợp, xử lý số liệu, phân tích, đánh giá thực trạng mối “liên kết bốn nhà” trong phát triển kinh tế nông nghiệp huyện Bình Giang tỉnh Hải Dƣơng để đƣa ra những giải pháp, kiến nghị phù hợp. Do đó, đề tài nghiên cứu của tác giả vẫn có ý nghĩa thực tiễn, khoa học và không trùng lặp với các công trình đã có. 7 1.2. Cơ sởlý luận về mối liên kết bốn nhà trong phát triển nông nghiệp 1.2.1. Khái niệm vềmối“liên kết bốn nhà” Trong hoạt động kinh tế, “liên kết” đƣợc hiểu là hình thức hợp tác và phối hợp thƣờng xuyên các hoạt động do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành để cùng đề ra và thực hiện các chủ trƣơng, biện pháp có liên quan đến công việc sản xuất, kinh doanh của các bên tham gia nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển theo hƣớng có lợi nhất. Liên kết kinh tế đƣợc thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi thông qua hợp đồng kinh tế ký kết giữa các bên tham gia và trong khuôn khổ pháp luật của nhà nƣớc nhằm mục tiêu tạo ra mối quan hệ kinh tế ổn định thông qua các hợp đồng kinh tế hoặc các quy chế hoạt động để tiến hành phân công sản xuất chuyên môn hóa và hợp tác hóa, khai thác tốt tiềm năng và bù đắp sự thiếu hụt của từng thành viên tham gia liên kết, hoặc để cùng nhau tạo thị trƣờng chung, phân định hạn mức sản lƣợng cho từng đơn vị thành viên, giá cả cho từng loại sản phẩm để bảo vệ lợi ích của nhau. Liên kết “bốn nhà” thể hiện sự liên kết của các tác nhân có liên quan trong một quá trình nào đó.Xét trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, cách đây hơn 10 năm, Chính phủ đã yêu cầu chính quyền, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp phải gắn kết với nông dân trong quá trình sản xuất; đặc biệt là khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế kí kết hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hóa với ngƣời nông dân (hợp tác xã, hộ nông dân, trang trại, đại diện hộ nông dân) thông qua Quyết định 80/2002/QĐ – TTg ngày 24/6/2002 của Thủ tƣớng chính phủ. Đây là chủ trƣơng “liên kết bốn nhà” trong phát triển nông nghiệp Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Chính vì vậy theo từ điển bách khoa mở định nghĩa: liên kết bốn nhà trong nông nghiệp là sự liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp và nhà khoa học dưới sự hỗ trợ của nhà nước nhằm gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định, bền vững; tiến tới sản xuất hàng hóa quy mô lớn, hiện đại. Xét về bản chất “Liên kết bốn nhà”cũng là một kiểu hợp tác sản xuất kinh doanh.“Liên kết bốn nhà” nếu chặt chẽ thì thành một tổ chức, còn nếu chỉ bằng hợp 8 đồng thì là một cơ chế, một mối quan hệ kinh tế đƣợc quy định mang tính pháp lý.Mục tiêu của liên kết là phân bổ lợi ích lẫn rủi ro giữa các bên tham gia để cùng phát triển. Có hai hình thức liên kết đặc trƣng, đó là liên kết theo đƣờng đi của sản phẩm từ ngƣời sản xuất đến ngƣời tiêu dùng (gọi là liên kết dọc), và liên kết các đối tƣợng cùng tham gia trong quá trình sản xuất kinh doanh (gọi là liên kết ngang). Trong mô hình liên kết dọc, doanh nghiệp đóng vai trò nhà đầu tƣ, ngƣời tổ chức sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đảm bảo thị trƣờng tiêu thụ. Còn ngƣời nông dân nhận khoán theo định mức chi phí và đƣợc hỗ trợ một phần chi phí xây dựng cơ bản ban đầu, chi phí lao động và sản xuất trên đất đai của họ.Liên kết bốn nhà đƣợc hoạt động theo các nguyên tắc các bên trong “liên kết bốn nhà”: tự chủ đi đôi với tự chịu trách nhiệm, tuân thủ pháp luật; thích nghi với thị trƣờng; tự nguyện, bình đẳng, dân chủ; coi trọng hiệu quả kinh doanh; cùng có lợi. 1.2.2. Các chủ thể tham gia trong “liên kết bốn nhà”: Trong khái niệm đã nêu ở mục 1.2.1, “bốn nhà” đƣợc nêu bao gồm: nhà nƣớc, nhà khoa học, nhà nông, nhà doanh nghiệp, trong đó: 1.2.2.1.Nhà nước: Bao gồm các cơ quan quản lý các cấp (chính quyền địa phƣơng, Sở, ngành), Nhà nƣớc trong “liên kết bốn nhà” là các cơ quan quản lý sản xuất nông nghiệp từ Trung ƣơng đến địa phƣơng, là chính quyền các cấp, các ngành nghề liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Nhà nƣớc ban hành các chính sách có liên quan đến sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản, dồn điền đổi thửa, phát triển hợp tác xã, tổ hợp tác; hỗ trợ xây dựng hạ tầng, vốn, nhân lực, phát triển các vùng sản xuất hàng hóa lớn, vùng nguyên liệu tập trung. Ngoài ra, nhà nƣớc còn giữ vai trò bảo trợ thông qua hệ thống pháp luật, với vai trò quan trọng trong việc quản lý, nhà nƣớc ban hành các chính sách nhằm tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp phát triển, vừa giám sát, điều hòa mối liên kết “bốn nhà”. Khi tham gia vào mối liên kết bốn nhà, nhà nƣớc đóng vai trò nhƣ một “nhạc trƣởng” nhằm hỗ trợ, điều phối thông qua các chủ trƣơng, chính sách nhƣ: khuyến 9 khích và đầu tƣ hạ tầng cơ sở, quy hoạch vùng nguyên liệu, xúc tiến thƣơng mại, hỗ trợ vốn; cung cấp thông tin thị trƣờng để ngƣời nông dân chủ động những loại cây, con giống phù hợp với nhu cầu của thị trƣờng và giúp cho doanh nghiệp biết rõ mình đang có cơ hội hay thách thức gì để từ đó xây dựng những chiến lƣợc phát triển phù hợp, lâu dài và ổn định; đẩy mạnh các hoạt động khuyến nông, đƣa khoa học - công nghệ mới vào lĩnh vực sản xuất một cách phù hợp với tình hình sản xuất nhằm làm tăng thu nhập và ổn định cuộc sống cho ngƣời nông dân; xây dựng hành lang pháp lý nhằm giúp các bên thực hiện liên kết có hiệu quả trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản; hƣớng dẫn và giám sát các bên tham gia thực hiện có hiệu quả các mối liên kết; hỗ trợ trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng đã đƣợc ký kết, đặc biệt là hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp và nhà nông. Tóm lại, vai trò của nhà nƣớc là tạo ra một “cơ chế” để vừa khuyến khích, tạo cơ sở và động lực cho các “nhà” (nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học) có thể phát huy tốt nhất vai trò và khả năng của mình, vừa tạo ra hành lang pháp lý buộc các “nhà” còn lại tuân thủ theo đúng pháp luật, tạo sợi dây liên kết giữa các nhà mang tính bền vững, lâu dài và hiệu quả. 1.2.2.2.Nhà doanh nghiệp: Nhà doanh nghiệp có thể bao gồm các doanh nghiệp chế biến, bảo quản và tiêu thụ hàng hóa nông sản, các ngân hàng thƣơng mại, thƣơng lái, công ty lƣơng thực, công ty bảo vệ thực vật…Doanh nghiệp có vai trò hƣớng dẫn, giúp đỡ nhà nông trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật tiến bộ, hỗ trợ vay vốn và vật tƣ nông nghiệp, thực hiện bao tiêu sản phẩm với giá thỏa thuận nhằm đảm bảo lợi ích của cả hai phía đồng thời tìm kiếm và mở rộng thị trƣờng tiêu thụ, sản xuất ra sản phẩm và xây dựng thƣơng hiệu nhằm tạo ra các sản phẩm cạnh tranh độc đáo, đáp ứng tốt nhu cầu khắt khe của thị trƣờng. Trong mối quan hệ với nhà nông, doanh nghiệp có thể quan sát đƣợc chất lƣợng nông sản từ nguyên liệu ban đầu, chi phí và rủi ro bằng cách đƣa cán bộ kỹ thuật xuống phổ biến, hƣớng dẫn nông dân và xã viên kỹ thuật canh tác, bón phân, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật… nhằm làm cho việc sản xuất có chất lƣợng, nông 10 sản đồng nhất về chất lƣợng và số lƣợng cho doanh nghiệp thu mua trên cơ sở bền vững để cạnh tranh trên thị trƣờng nông sản thông qua hợp đồng giữa hai phía. Trong mối quan hệ “liên kết bốn nhà”, doanh nghiệp quyết định đầu vào và đầu ra của nông sản phẩm. Doanh nghiệp quyết định loại sản phẩm, chất lƣợng, sản lƣợng cần đƣợc sản xuất cũng nhƣ quy trình kỹ thuật, đầu tƣ phục vụ yêu cầu của thị trƣờng. Nhƣ vậy, trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp là liên kết, phối hợp với nhà nƣớc, nhà khoa học để hỗ trợ nhà nông về: nguồn vốn, giống cây trồng, vật nuôi, kỹ thuật chăm sóc và bao tiêu nông sản phẩm theo thỏa thuận. 1.2.2.3.Nhà khoa học: Nhà khoa học bao gồm các nhà khoa học từ các Viện, Trƣờng và các trạm, trại nghiên cứu địa phƣơng, trung tâm kiểm định chất lƣợng sản phẩm; các cán bộ khuyến nông của hệ thống khuyến nông nhà nƣớc và tự nguyện. Nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao trong nghiên cứu khoa học công nghệ và khoa học xã hội. Họ không trực tiếp sản xuất vật chất và đa phần làm việc trong các cơ quan nghiên cứu và đào tạo của Nhà nƣớc, chủ yếu ở các đô thị. Nhà khoa học phải phối hợp với Nhà nƣớc ứng dụng những mô hình sản xuất kinh doanh hiệu quả, tham mƣu cho chính quyền địa phƣơng các cấp trong việc quy hoạch các vùng canh tác phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phƣơng. Nếu xét về quan hệ lợi ích thì nhà khoa học ở Việt Nam vẫn làm theo nhiệm vụ nhà nƣớc giao, đó là nghiên cứu và chuyển giao kết quả nghiên cứu tới ngƣời sản xuất, những hoạt động này chủ yếu mang tính hỗ trợ. Vai trò của nhà khoa học còn thể hiện qua việc nghiên cứu tạo ra các giống mới, những tiến bộ khoa học kỹ thuật; cung cấp kỹ năng, hƣớng dẫn chuyển giao cho nông dân các tiến bộ khoa học kỹ thuật và chịu trách nhiệm về các kỹ thuật tiến bộ đƣợc áp dụng vào sản xuất, giúp nhà nông nâng cao năng suất, chất lƣợng sản phẩm, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản; gắn sản xuất với thị trƣờng, giúp tổ chức sản xuất đạt hiệu quả cao nhất. Nhà khoa học còn nghiên cứu nhằm giúp các doanh nghiệp giải quyết các vấn đề từ công nghệ chế biến, bảo quản nông sản đến tiêu thụ sản phẩm nhằm không ngừng nâng cao chất lƣợng và hiệu 11 quả sản xuất trong cả chuỗi giá trị từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Đồng thời, thông qua mối liên kết với nhà nông và doanh nghiệp thì nhà khoa học có thị trƣờng để bán các sản phẩm khoa học – công nghệ và có nơi để áp dụng các kết quả nghiên cứu của họ, vì thế những sản phẩm của các nhà khoa học trong lĩnh vực này mới nhanh chóng đƣợc hiện thực hóa, mới phát huy đƣợc vai trò thực sự của nó chứ không phải dừng lại ở những nghiên cứu lý thuyết. Do vậy, hoạt động khuyến nông vì lợi ích chung do các doanh nghiệp thực hiện ngày càng phát triển, làm cầu nối giữa nhà khoa học với nhà nông; đóng vai trò quan trọng trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất và góp phần đƣa sản xuất nông nghiệp phát triển theo hƣớng tập trung quy mô lớn và bền vững. 1.2.2.3.Nhà nông: Nhà nông hay nông dân là những ngƣời trực tiếp làm ra sản phẩm nông nghiệp (bao gồm hợp tác xã nông nghiệp, tổ, nhóm hợp tác, hộ nông dân, trang trại, đại diện hộ nông dân) liên kết với ba nhà còn lại. Là những ngƣời lao động cƣ trú ở nông thôn, tham gia sản xuất nông nghiệp. Nông dân sống chủ yếu bằng ruộngvƣờn, sau đó đến các ngành nghề mà tƣ liệu sản xuất chính là đất đai. Tùy từng quốc gia, từng thời kì lịch sử, ngƣời nông dân có quyền sở hữu khác nhau về ruộng đất. Họ hình thành nên giai cấp nông dân, có vị trí, vai trò nhất định trong xã hội là tất cả các hộ gia đình tham gia liên kết sản xuất nông nghiệp. Nhà nông giữ vai trò quan trọng trong mối “liên kết bốn nhà” và trung tâm của sự phát triển nông nghiệp. Nhà nông liên kết với các nhà còn lại trong sản xuất. Khi "liên kết bốn nhà” phát huy hiệu quả nhà nông phải là ngƣời hƣởng lợi trƣớc tiên. Liên kết giữa nhà nông với nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nƣớc thể hiện ở chỗ: cùng với nhà khoa học xác định các ƣu tiên nghiên cứu, thẩm định các kết quả, tiếp nhận và chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật đã đƣợc khẳng định và chi trả cho các sản phẩm khoa học đã đƣợc ứng dụng; thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng đã ký kết với các doanh nghiệp về giao nộp nông sản phẩm; thực hiện các cam kết với ngân hàng trong thanh toán tín dụng; thực hiện tốt các quy định pháp lý về sản xuất, 12 chế biến và tiêu thụ sản phẩm do nhà nƣớc quy định.Trong cấu trúc của liên kết bốn nhà trƣớc hết phải đề cập đến nhà nông, cấu trúc này có chức năng, mục tiêu phục vụ cho nông thôn,nông nghiệp, nông dân. Nhà nông cũng có chức năng cụ thể cho việc phục vụ mục tiêu đó, có lợi ích cục bộ nhƣng vấn đề còn lại là cơ chế liên kết, hợp đồng và lợi ích. Trong nền kinh tế thị trƣờng, bất kỳ một sản phẩm hàng hóa nào cũng đều qua bốn công đoạn: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Đó là quy trình công nghệ thuần túy kỹ thuật. Xét về quan hệ xã hội thì bốn công đoạn đó lại là một sự phân công và hợp tác lao động xã hội, xảy ra một cách khách quan, tự nhiên và hoàn toàn tự giác. Đó là xét trên bình diện chung nhất. Tuy nhiên, ngay trong kinh tế thị trƣờng, không ít ngƣời nông dân làm ăn theo kiểu tự cung, tự cấp khép kín, hoặc tự mình sản xuất và tự tiêu thụ sản phẩm của mình trên thị trƣờng; hoặc cũng có doanh nghiệp tự khép kín quá trình tái sản xuất hàng hóa từ tự sản xuất và tự tiêu thụ trên thị trƣờng. Nếu tồn tại cách làm ăn nhƣ vậy thì nhà nông sẽ bị bỏ lại phía sau với xu hƣớng phát triển của nền kinh tế. Khi xét trong một quy trình sản xuất trong cơ chế thị trƣờng thì vai trò của nhà nông là rất quan trọng, nhà nông đem lại lợi ích cho các nhà khác, nhà khoa học nghiên cứu ra sản phẩm thì ứng dụng vào đâu, đó là sản xuất nông nghiệp và nông dân là một chủ thể sử dụng sản phẩm của các nhà khoa học, tƣơng tự các nhà khác cũng có nhu cầu liên kết rất lớn với nông dân, đƣơng nhiên các mối liên kết sẽ đem đến lợi ích cho các nhà. Trái lại, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, hạn chế quan hệ thị trƣờng thì cả bốn công đoạn: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng đều do một chủ thể quyết định, đó là Nhà nƣớc. Để phân phối nông sản cho ngƣời tiêu dùng hoặc để xuất khẩu, Nhà nƣớc thành lập một hệ thống doanh nghiệp từ trung ƣơng là Tổng Công ty nhƣ Tổng Công ty lƣơng thực, Tổng Công ty thực phẩm, Tổng Công ty xuất nhập khẩu thủy sản v.v..với một hệ thống mạng lƣới tới tận ngƣời nông dân, còn nông dân thì sản xuất theo lệnh thông qua hợp tác xã và thực hiện giao nộp theo chỉ tiêu pháp lệnh. Cũng đã từng xuất hiện một loại hình thức liên kết khép kín nhƣ các Liên hiệp nông-công nghiệp mà thực chất là trói buộc ngƣời nông dân vào một 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan