Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn cảm thức sinh mệnh trong thơ lý hạ và chế lan viên...

Tài liệu Luận văn cảm thức sinh mệnh trong thơ lý hạ và chế lan viên

.PDF
113
684
119

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN LAN PHƯƠNG CẢM THỨC SINH MỆNH TRONG THƠ LÝ HẠ VÀ CHẾ LAN VIÊN Chuyên ngành : Văn học nước ngoài Mã số : 60.22.02.45 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI Người hướng dẫn khoa học: TS Trần Thị Thu Hương HÀ NỘI – 2017 LỜI CẢM ƠN Hoàn thành công trình nghiên cứu với đề tài: “Cảm thức sinh mệnh trong thơ Lý Hạ và Chế Lan Viên”, chúng tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến: Lãnh đạo trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi thực hiện luận văn này. Quý thầy cô giáo trong cũng như ngoài trường đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình chúng tôi học tập và thực hiện luận văn tại cơ sở đào tạo Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Đặc biệt là TS Trần Thị Thu Hương - người thầy đã hết lòng giúp đỡ chúng tôi, hướng dẫn tận tình, động viên, khích lệ chúng tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài. Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp những người đã luôn bên cạnh, khuyến khích và ủng hộ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này. Hà Nội, tháng 6 năm 2017 Tác giả Nguyễn Lan Phương LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn đều có cơ sở khoa học, đảm bảo tính trung thực và độ chính xác cao nhất có thể. Các trích dẫn đều có xuất xứ rõ ràng. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1 2. Phạm vi đề tài ............................................................................................... 5 3. Lịch sử vấn đề............................................................................................... 5 4. Cơ sở lý thuyết .............................................................................................. 9 5. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ...................................................... 14 6. Đóng góp của luận văn ............................................................................... 15 7. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 15 Chương 1: CẢM THỨC “ĐIÊU TÀN” TRONG THƠ LÝ HẠ VÀ CHẾ LAN VIÊN ..................................................................................... 15 1. Khái lược về cảm thức điêu tàn ............................................................... 16 1.1. Khái niệm “điêu tàn” .............................................................................. 16 1.2. Khái niệm “Cảm thức điêu tàn” ............................................................. 16 2. Cảm thức điêu tàn trong thơ Lý Hạ và Chế Lan Viên .......................... 19 2.1. Nguồn gốc về cảm thức điêu tàn trong thơ Lý Hạ và Chế Lan Viên ........... 19 2.1.1. Điêu tàn trong thơ Lý Hạ đến từ những sóng gió cuộc đời quan trường ............................................................................................................ 20 2.1.2. Điêu tàn trong thơ Chế Lan Viên lại xuất phát từ những trăn trở về thời cuộc và quan niệm nghệ thuật......................................................................... 21 2.2. Cảm thức “Điêu tàn” trong thơ Lý Hạ và Chế Lan Viên ..................... 21 2.2.1. Điêu tàn từ thiên nhiên – vũ trụ ............................................................ 22 2.2.2. Điêu tàn trong cõi mộng ....................................................................... 32 2.2.3. Điêu tàn về con người ........................................................................... 36 Chương 2: CẢM THỨC CÔ ĐƠN TRONG THƠ LÝ HẠ VÀ CHẾ LAN VIÊN ..................................................................................... 44 1. Cảm thức cô đơn ....................................................................................... 44 1.1. Khái lược về “cô đơn”............................................................................. 44 1.2. Cảm thức cô đơn ..................................................................................... 47 2. Cảm thức cô đơn trong thơ Lý Hạ và Chế Lan Viên ............................ 49 2.1. Nguồn gốc về cảm thức cô đơn trong thơ Lý Hạ và Chế Lan Viên ........... 49 2.1.1. Lý Hạ là một con người lạc lõng, cô đơn về mọi mặt ........................... 49 2.1.2. Chế Lan Viên cô đơn bởi số phận chung của cộng đồng xã hội và bởi chính mình ....................................................................................................... 51 2.2. Cảm thức cô đơn trong thơ Lý Hạ và Chế Lan Viên ............................ 54 2.2.1. Con người cô đơn, lạc lõng trước thời cuộc ......................................... 54 2.2.2. Con người cô đơn trước lý tưởng cá nhân ............................................ 62 Chương 3: CẢM THỨC CUỒNG HOAN TRONG THƠ LÝ HẠ VÀ CHẾ LAN VIÊN ..................................................................................... 72 1. Cảm thức “cuồng hoan” ........................................................................... 72 1.1. Khái niệm “cuồng hoan” ........................................................................ 72 1.2. Khái niệm “cảm thức cuồng hoan” ....................................................... 75 2. Cảm thức cuồng hoan trong thơ Lý Hạ và Chế Lan Viên .................... 76 2.1. Nguồn gốc của cảm thức cuồng hoan trong thơ Lý Hạ và Chế Lan Viên ................................................................................................................ 76 2.2. Biểu hiện của cảm thức cuồng hoan trong thơ Lý Hạ và Chế Lan Viên ......79 2.2.1. Cuồng hoan trước thiên nhiên .............................................................. 80 2.2.2. Cuồng hoan trước cái chết .................................................................... 89 2.2.3. Cuồng hoan trước quá khứ ................................................................... 95 KẾT LUẬN…………………………………………………… …………104 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 106 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Lý Hạ là một trong tứ trụ Đường thi có sức ảnh hưởng rộng lớn và lan tỏa, trong đó phải kể đến “Thi tiên” Lý Bạch, “Thi Phật” Vương Duy, “Thi thánh” Đỗ Phủ, và Lý Hạ được mệnh danh là “Thi quỷ”. Đương thời, thơ ca Lý Hạ đã được người đời hết lời ca tụng và hoan nghênh. Sở hữu tài năng thiên bẩm cùng với sự ảnh hưởng mạnh mẽ của lịch sử xã hội đã khiến cho tâm hồn thơ của ông trở nên thăng hoa tột bậc, tạo được tiếng vang lớn trên văn đàn văn học Trung Hoa cổ đại, để lại cho lịch sử văn học nước láng giềng một kho tàng trí tuệ và thẩm mỹ đặc sắc. Với một vị trí đặc biệt và vai trò quan trọng trong nền văn học Trung Quốc nói chung và thơ Đường nói riêng thì việc nghiên cứu về ông và thơ ông là một quá trình cần thiết nhằm bổ sung, hoàn thiện và đem đến cái nhìn toàn diện và đa chiều, cũng như khẳng định những đóng góp của Lý Hạ cho nền văn học. Sẽ là một thiếu sót lớn khi quá trình nghiên cứu và phê bình văn học nhân loại thiếu đi bóng dáng của một nhà thơ lớn như Lý Hạ. 1.2. Thơ Lý Hạ mang một màu sắc độc lạ giữa một rừng thi ca mang âm hưởng chung của thời đại nhà Đường với các thi phái lớn như Tống biệt, Khuê phụ, Điền viên… Cho nên Lý Hạ nổi lên như một hiện tượng vô cùng đặc sắc. Điều quý giá trong nghệ thuật là khi tìm thấy một phong cách riêng không hòa trộn nhạt nhòa, lẩn khuất trong vô vàn những hỗn mang của nó, đó mới là nghệ thuật thực sự. Và, Lý Hạ chính là người đã “đánh” lên nốt nhạc đặc biệt trên một bản đàn với đủ thanh âm trầm bổng. Dù rằng, ở thời đại Đường thi, văn học chưa hình thành khái niệm “phong cách riêng”, “phong cách chung” hay “cá tính sáng tạo”, song, tự trong tâm thức của các nhà văn, nhà thơ luôn luôn khắc khoải một nỗi niềm về giá trị của văn chương, trong đó là sự sáng tạo không ngừng trong thi ca, chính nó là ngọn nguồn sự sống 1 cho văn chương, duy trì văn chương luôn ở trạng thái động, nếu văn chương đi vào lối mòn thì nó sẽ chết. Ý thức được căn nguyên cốt lõi của giá trị văn chương nên các thi nhân luôn cố gắng vươn lên cái cực hạn của sự sáng tạo, vượt qua mọi giới hạn của tư duy, thẩm mỹ thông thường để đạt đến cảnh giới phi thường, phi ngã. Cái phi thường trong thơ Lý Hạ là sự phản ánh thế giới nghệ thuật vô cùng độc đáo, một điều chưa bao giờ xảy ra tiền lệ trong văn học Trung Quốc, nó mang đến cho thơ ca đương thời một âm hưởng mới, một sắc thái mới cực kì biệt dị. 1.3. Sự độc lạ trong phong cách thơ Lý Hạ là một trở ngại lớn trong quá trình đọc – hiểu và cảm thụ của độc giả. Những sáng tác của Lý Hạ vẫn còn khá xa lạ đối với bạn đọc Việt Nam. Người ta biết nhiều về Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị…song số người đọc biết đến Lý Hạ vô cùng hiếm hoi, đây là một thiệt thòi lớn cho những ai thực sự quan tâm đến nền văn hóa của đất nước triệu dân, trong đó có văn học cổ. Thơ ông khá kén người đọc và yêu thích nó cũng chính bởi tính dị biệt. Chính điều đó làm nên một Lý Hạ đầy sống động và khác biệt, nó là một ưu điểm của Lý Hạ nhưng đồng thời cũng là một hạn chế cản ngăn tâm hồn giao hòa giữa nhà thơ và người thưởng thức văn học. Bởi vậy, việc lan tỏa sức ảnh hưởng và giá trị đặc sắc của thơ ca Lý Hạ đến bạn đọc Việt Nam là một điều cần thiết. Chúng tôi mong muốn sử dụng vốn kiến thức còn hạn hẹp của mình để cởi gỡ và lý giải phần nào những “nút thắt” tư tưởng còn tồn tại tương đối vững chắc trên con đường đi từ trái tim của nhà thơ đến với tâm hồn của người đọc, giúp những người yêu thơ văn thêm cảm thấu và ngưỡng một mộ một tài năng lớn. 1.4. Ở Việt Nam còn rất ít những công trình nghiên cứu về nhà thơ Lý Hạ. Rất nhiều vấn đề xoay quanh cuộc đời và con đường sáng tác của nhà thơ tài năng, dị biệt ấy chưa thực sự được quan tâm và khai thác. Theo thông kê, chúng tôi chỉ thu thập được một số tài liệu có quan tâm đến Lý Hạ trong vô 2 vàn những nghiên cứu tầm cỡ về các nhà thơ tiêu biểu khác của thời Đường. Đứng trong một tổng thể đó, những nghiên cứu đóng góp về thơ ca của ông vô cùng nhỏ bé và chưa thực sự xứng tầm so với tài năng của ông. Chúng tôi cho rằng, sự hạn hẹp trong vốn tư liệu về Lý Hạ là một thiếu sót không nhỏ dành cho nền văn học thế giới. Ngoài ra, nghiên cứu về thơ Lý Hạ không chỉ nhằm mục đích giản đơn là thấu hiểu về con người và văn thơ của ông, hơn thế nữa, thấu cảm về một “mảnh ghép” sẽ giúp ta có cái nhìn tổng thể và toàn vẹn về một bức tranh Đường thi tràn đầy màu sắc, sự đa dạng và phong phú ấy đã đem lại cho lịch sử văn học Trung Quốc cổ một giá trị bền vững với thời gian. 1.5. Thơ Chế Lan Viên trước năm 1945 tràn ngập một màu u ám thê lương. Thế giới âm – dương hòa lẫn vào nhau tạo nên tính siêu thực đặc biệt trong thơ ông. Xét về một khía cạnh của nghệ thuật, ta có thể thấy giữa Lý Hạ và Chế Lan Viên có sự tương đồng rất lớn trong tư tưởng và cảm quan riêng về thế giới. Thế giới thơ đồng nhất với thế giới tâm hồn đầy u uất, tạo nên sắc thái quỷ dị trong thơ của hai con người – hai thời đại – hai số phận. 1.6. Cả Lý Hạ và Chế Lan Viên đều có hoàn cảnh vô cùng nghiệt ngã, chính yếu tố hoàn cảnh ấy đã tác động và chi phối không nhỏ đến cảm quan nhận thức trong thơ họ. Sinh thời, Lý Hạ vốn mang trong mình căn bệnh hiểm nghèo và quái ác, đem lại những nỗi đau không chỉ về mặt thể xác mà còn tâm hồn, nó cũng chính là nguyên nhân khiến cho quãng thời gian hưởng dương trên cõi trần của ông chỉ tồn tại 27 năm (có một số tài liệu nhận định rằng Lý Hạ chỉ sống đến năm 24 tuổi). Bởi vậy, trong suốt cuộc đời ngắn ngủi ấy, bản thân Lý Hạ đã hình thành một ý thức sâu sắc về vấn đề sinh mệnh, ông tâm niệm một cách rõ ràng về “cái chết” đang bủa vây xung quanh mình. Tất cả tâm lý bấn loạn, hoang dại và tiêu điều ấy đã được nhà thơ phản ánh trọn vẹn trong các tác phẩm của ông. Vì vậy mà sinh mệnh đối với ông, chính 3 là được sống trong thế giới yêu ma quỷ quái; sống trong tận cùng bản thể của nỗi cô đơn, hoang lương của mình. Cũng giống như Lý Hạ, Chế Lan Viên cũng ý thức được sinh mệnh thông qua những nhận thức về cái chết, những nỗi cô đơn dày vò thể xác và tâm hồn của nhà thơ. Hoàn cảnh riêng của Chế Lan Viên đồng nhất với hoàn cảnh chung của cả dân tộc đang ngày đêm chìm đắm trong kiếp nô lệ lầm than, sống mà cũng như chết. Đồng thời, hoàn cảnh nghiệt ngã cùng với một tâm hồn nhạy cảm trước cuộc đời - xót xa hiện tại và nuối tiếc quá khứ đã tạo nên một Chế Lan Viên u hoài, vật vã, đau đớn trong thế giới tràn đầy sắc thái kinh dị. 1.7. Bên cạnh những nét tương đồng thú vị thì thế giới thơ của Chế Lan Viên và Lý Hạ cũng mang những nét đặc sắc riêng, cần đào sâu nghiên cứu và so sánh để làm nổi bật “chất” riêng của hai con người thuộc trường thơ “loạn” này. Đây có lẽ là một điều tất yếu, dĩ nhiên giữa mọi hiện tượng văn học. Bản thể mỗi con người là riêng, là duy nhất, cho nên sự tương đồng trong việc xây dựng thế giới hình tượng chỉ đơn thuần là sự gặp gỡ nhau về mặt tư tưởng, còn những điểm khác biệt trong tư duy mới chính là những yếu tố tạo nên dấu ấn cá nhân của mỗi nhà văn. 1.8. Trong quá trình nghiên cứu và phê bình văn học, việc so sánh tác phẩm văn học ở các thời kì, các giai đoạn và ở mọi nền văn hóa, tư tưởng là một việc vô cùng quan trọng và cần thiết, không chỉ để tìm ra điểm khác biệt hay tương đồng mà còn khẳng định được những đóng góp thiết thực của từng tác phẩm trong dòng chảy vận động của nền văn học nhân loại. Đồng thời những kết quả của thao tác so sánh cũng góp phần khai thác tối đa những sợi dây liên kết của tư duy nghệ thuật, có tác động không nhỏ đến quy trình sáng tác về sau. 4 2. Phạm vi đề tài Với việc thực hiện đề tài này, chúng tôi tập trung nghiên cứu vấn đề trong phạm vi nội dung và nghệ thuật của thơ ca Lý Hạ và Chế Lan Viên, trong đó cụ thể là cảm thức về sinh mệnh – trong tương quan so sánh điểm giống và khác nhau giữa hai nhà thơ. Trong quá trình đào sâu tìm tòi gốc rễ vấn đề, chúng tôi có những phát hiện thú vị về nét tương đồng đặc biệt trong những vần thơ của Lý Hạ và Chế Lan Viên, quan niệm về sinh mệnh của họ mang âm hưởng và màu sắc chung, đó là sự “điêu tàn”, chết chóc, ma mị, u ám của cõi quỷ thần; bên cạnh đó còn có cảm thức về nỗi “cô đơn”.... Tất cả đều được thể hiện thông qua hệ thống hình tượng nghệ thuật mang ý nghĩa biểu trưng. Nếu như khai thác sâu về cội nguồn xúc cảm, ta hoàn toàn có thể tìm ra sự đồng điệu không chỉ trong tâm hồn mà còn cả trong thời đại, văn hóa… Tư liệu khảo sát của chúng tôi là toàn bộ những bài thơ của chữ Hán của nhà thơ Lý Hạ được lấy từ trang “Thi viện” cùng với việc tìm đọc và đối chiếu với cuốn “Lý Hạ - Quỷ tài, quỷ thi” của Huỳnh Ngọc Chiến ( NXB Trẻ). Đồng thời, chúng tôi khảo sát và lựa chọn toàn bộ bài thơ trong tập thơ “Điêu tàn” của Chế Lan Viên (NXB Hội nhà văn) để phục vụ cho quá trình thực hiện đề tài này. 3. Lịch sử vấn đề Việc nghiên cứu về Lý Hạ và Chế Lan Viên có nhiều sự khác biệt. Từ sự khác nhau về nguồn gốc, xuất xứ (văn học Việt Nam – Văn học Trung Quốc) cho đến ngôn ngữ, văn hóa mà lịch sử nghiên cứu về Chế Lan Viên tỏ ra mạnh mẽ và vượt trội hơn hẳn so với việc nghiên cứu về nhà thơ Lý Hạ. Chế Lan Viên là nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ Mới 1930 – 1945 của Việt Nam với tư duy nghệ thuật giàu tính triết lý, bởi thế tài liệu nghiên cứu về ông khá nhiều và đầy đủ, hầu như đã khai thác tối đa những vấn đề xoay quanh con đường thơ của Chế Lan Viên, đặc biệt là giai đoạn trước Cách 5 mạng tháng Tám 1945 – thời kì đỉnh cao của hồn thơ lãng mạn. Bên cạnh đó, nghiên cứu về Lý Hạ gặp khá nhiều khó khăn, trở ngại do vốn tư liệu ít ỏi, thiếu phong phú và chính xác về chú giải, dịch nghĩa. Chúng tôi chỉ ghi nhận được một số tài liệu nghiên cứu cơ bản như sau: 3.1. Những nghiên cứu về Lý Hạ: 3.1.1. Nghiên cứu về Lý Hạ ở Trung Quốc: Các tác giả của Đường thi phẩm loại đã từng nhận xét về thơ ca của Lý Hạ như sau: “Nguyên Hòa đời Đường là giai đoạn hưng thịnh của thi ca. Hàn Dũ, Lý Hạ văn thể không đồng nhất nhưng đều có cốt khí. Thoái Chi (tức Hàn Dũ) được các bậc tiền hiền khen ngợi, điều đó đã rõ, riêng Trường Cát, trời để lại cho tài năng kì diệu tung hoành làm kinh động cả người đương thời, xa lìa con đường bút mực. Than ôi, nếu để ông sống thêm vài năm mà thêm lý vào văn thì sự nghiệp há chỉ có chừng đó thôi đâu”. Nghiêm Thương lãng bình Lý Bạch thi có đoạn: “Lý Bạch là tiên tài, Lý Hạ là quỷ tài. Nhưng thơ của tiên của qủy đều không nên xem nhiều. Xem nhiều thì tiên không làm người ta kinh, quỷ không làm người ta sợ”. Tài năng xuất chúng của Lý Hạ lại được ca ngợi trong Mao trì hoàng thi biện để: “Thời đại lịch về sau, giải được cái khuôn phép còn sót lại của nhạc phủ, chỉ có một mình Lý Hạ. Ông đã xây dựng được sắc thái đậm đà kì diệu mà ngôn từ phần nhiều lại ngụ ý ngoài lời. Ngôn ngữ chọn lựa thì khắt khe, dụng ý thì hồn hậu. Sau thời thịnh Đường, muốn đứng riêng một cõi thì không thể không có phái của Mạnh Đông dã và Lý Trường Cát vậy”. Trung Quốc Văn học sử của Viện nghiên cứu khoa học Trung Quốc phân tích nguyên nhân làm nên sắc thái quỷ dị trong thơ Lý Hạ như sau: Lý Hạ thiếu sự liên hệ với quảng đại quần chúng nhân dân lao động, đối với cuộc sống xã hội rộng lớn không có nhận thức và thể nghiệm thực tế một cách sâu sắc. Tác phẩm thường tả cảnh giới u quái, ca tụng tử vong và thần quỷ, đó 6 chính là thi nhân đã biểu hiện ra sự cảm thụ cái hư không, huyễn giác của nhân sinh, gây ảnh hưởng không tốt. Tác giả Trí Can lại cho rằng: “Ý thức suy đồi của anh ta (Lý Hạ) hiện ra trong ý thức về quỷ và sự huyễn hoặc, chủ yếu biểu hiện trong mấy hình thái: (1) Lấy cảnh sơn dã điền viên để tự an ủi; (2) Cảm thường thất ý dẫn đến ngâm tụng quỷ thần; (3) Sự bi thương về sinh mệnh;(4) Truy cầu sự huyễn tưởng”. Có nhà nghiên cứu lại bình phẩm rằng: Lý Hạ “Tính cô lãnh lạc, bất dữ nhân hợp” (Tính lạnh lùng, xa cách, không hợp với mọi người). Ngoài ra còn nhiều tài liệu nghiên cứu khác về Lý Hạ: Pháp gia thi nhân Lý Hạ - Dương Khải Thuận, Tư tưởng Pháp gia của Lý Hạ – Ngô Nhữ Dục, Trịnh Vân Ba, Mạn đàm về Lý Hạ và mối quan hệ đối với Hàn Dũ – Tôn Vọng, Bình giá tư tưởng thơ ca Lý Hạ – Dư Mỹ Vân, Lý Trường Cát thi – Giang Lý Bính, Lý Trường Cát bình truyện – Vương Lễ Tích, Đàm nghệ lục – Tiền Chung Thư, Sự cách điệu của thơ Lý Hạ – Trương Tổ An, Bàn về thơ tình của Lý Hạ – Liêu Minh Quân, Ý thức về sinh mệnh trong thơ Lý Hạ – Lý Nghiêu, Từ bi kịch tình cảm đến bi kịch ẩn ý trong thơ Lý Hạ – Chu Thượng Nghĩa, Thế kỉ XX nghiên cứu bình luận thơ Lý Hạ ( Tổng thuật văn học của Trường Kiếm), Xương Cốc biệt truyện tính chú – Điền Bắc Hồ (1908), Thi nhân Lý Trường Cát – Vạn Mạn (1928), Lư nhận thi bối Lý Trường Cát – Vương Lễ Tích (1928), Lý Hạ niên phổ – Chu Tự Thanh (1935), Một điểm khám phá mới về hành tung cuộc sống của Lý Hạ – Lương Siêu Nhiên (1979), Bàn về thơ Lý Hạ – Trần Di Hân..v.v 3.1.2. Những nghiên cứu Lý Hạ ở Đài Loan Lưỡng Đường Thư Lý Hạ truyện khảo biện – Hiệp Trùng Bính (1968) Lý Trường Cát thi ca nguyên lưu, cử ngung – Chu Quân Ức ( 1972) Lý Hạ tâm thái phân tích – Hoàng Kính Khâm ( 1972) Thấu thị Lý Hạ thi trung đích thần thoại thế giới – Hoàng Đình Vũ (1978) 7 3.1.3. Những nghiên cứu Lý Hạ ở các nước Âu Mỹ Lý hạ với xúc cảm tinh tế – D.Y.Cheh (1962) Cách sắp xếp từ trung thơ Lý Hạ – M.A.Robertson Chủ đề thần thoại trong thơ ca Lý Hạ – M.B.Fish Nữ thần trong thơ ca Lý Hạ - những ý tượng u kì quái diễm –.D. Fodsham. 3.1.4. Những nghiên cứu về Lý Hạ ở Việt Nam: Lý Hạ từng được giới thiệu trong cuốn Đường thi tuyển dịch, Lịch sử văn học Trung Quốc của một nhóm tác giả biên soạn; Nguyễn Tôn Nhan đã đưa ra lời nhận định về Lý Hạ như sau: “Văn học sử Trung Quốc gọi Lý Hạ là “thi quỷ” quả là có xác đáng, hình như chàng hoặc là tiên hoặc là quỷ nên bị chữ quỷ ám ảnh suốt 27 năm tại thế”. Ngoài ra, còn có cuốn Lý Hạ - Quỷ tài quỷ thi của tác giả Huỳnh Ngọc Chiến: “Thơ Lý Hạ là thơ của âm hồn lãng đãng, của ngưu quỷ, xà thần, của hận lòng không siêu thoát, cứ mãi vật vờ trong cõi u minh. Trong thơ ông thường có cảnh tượng quái dị với những câu thơ lạ lùng tạo nên một thế giới kì ảo mặc sức cho trí tưởng tượng tung hoành. Thế giới trong thơ Lý hạ cực kì quỷ dị”. Chúng tôi cũng được đọc Luận án của Tiến sĩ Phạm Thị Xuân Châu với đề tài Đặc trưng phong cách nghệ thuật thơ Lý Hạ với những nghiên cứu về: Cơ sở hình thành thơ Lý Hạ, Cảm quan thẩm mĩ độc đáo, Hệ biểu tượng nghệ thuật đặc sắc. Luận văn Mô hình huyền thoại trong thơ Lý Hạ của Thạc sĩ Nguyễn Thị Thúy Hạnh, Luận án Đặc sắc nghệ thuật thơ Lý Hạ của Tiến sĩ Nguyễn Thị Tuyết với nội dung nghiên cứu chuyên sâu về phương diện nghệ thuật: Ý tượng phản bình dị, kết cấu trọng kì khu, Ngôn ngữ bác trần ngôn…; bài 8 nghiên cứu Thơ lãng mạn Trung Hoa từ Khuất Nguyên đến Lý Bạch, Lý Hạ của Lê Từ Hiển. 3.2. Nghiên cứu về vấn đề cảm thức sinh mệnh trong thơ Lý Hạ và Chế Lan Viên: Trong quá trình thống kê và nghiên cứu, chúng tôi chỉ bắt gặp những tài liệu liên quan đến những cảm thức trong văn chương như Luận án Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam từ năm 1986 đến 2010 của Tiến sĩ Trần Nhật Thu, Luận văn Cảm thức phi lý trong tiểu thuyết Đỗ Phấn của Thạc sĩ Võ Thị Thanh Hiền, Luận văn Cảm thức thời gian trong thơ đời Trần của Thạc sĩ Doãn thị Hồng, hay Khóa luận Cảm thức cô đơn trong tiểu thuyết của Nguyễn Ngọc Tư của tác giả Đoàn Thị Duyên… Tuyệt nhiên, chúng tôi không tìm được nguồn tài liệu nào nghiên cứu trực tiếp về vấn đề cảm thức sinh mệnh nói chung và cảm thức sinh mệnh trong thơ Lý Hạ và Chế Lan Viên nói riêng. Đây có thể coi là một vấn đề khá mới mẻ trong lĩnh vực nghiên cứu và phê bình văn học. 4. Cơ sở lý thuyết Từ trước đến nay, vấn đề “sinh mệnh” luôn là một vấn đề cơ bản và cốt lõi trong đời sống của con người, nó luôn trở thành một nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn, kích thích những khát khao tìm tòi và khám phá nó trong mọi lĩnh vực. Có thể coi “sinh mệnh” là một ẩn số, người ta càng nghiên cứu và khám phá bao nhiêu thì nó càng trở nên bí ẩn và thú vị bấy nhiêu. Ở mỗi một khía cạnh khác nhau, nó lại chứa đựng những nội hàm khái niệm riêng biệt. Khái niệm “sinh mệnh” vốn được định nghĩa một cách sơ khai trong Từ điển tiếng Việt là “sinh mạng” – mạng sống của sinh vật nói chung, tức là sự sinh ra ra và duy trì sự tồn tại của một thực thể trong không gian và thời gian nhất định, có một giới hạn và định mức cụ thể, không tồn tại vĩnh hằng bất 9 biến theo quy luật của tạo hóa. Cụ thể, trong tiếng Hán, “mệnh” 命 có hai ý nghĩa chính: thứ nhất có nghĩa là mạng, như trong thơ Nguyễn Trãi: “Li loạn như kim mệnh cẩu toàn” 離亂如今命苟全 (Hạ nhật mạn thành 夏日漫成) Li loạn đến nay mạng sống tạm được nguyên vẹn; thứ hai nghĩa là “sai khiến”, ví dụ như “mệnh nhân tống tín” 命人送信 – sai người đưa tin. Mở rộng nghiên cứu đối tượng, ông cha ta đã khai thác tối đa ý nghĩa của từ “mệnh” để hoàn thiện đầy đủ hơn những quan niệm gốc rễ ban đầu. Mệnh ở đây còn được vận dụng vào những trường hợp khác như “vận mệnh”, “số mệnh”, “mệnh trời”, ví như: 論語: "Tử sanh hữu mệnh, phú quý tại thiên" 死 生有命, 富貴在天 (Nhan Uyên 顏淵) - Sống chết có số, giàu sang do trời.… Như vậy, “mệnh” ở đây dùng để mô tả sự tồn tại của sự vật chịu tác động qua lại và chi phối của những tác nhân bên ngoài khác, tại ngoại bản thân. Rõ ràng, sinh mệnh là yếu tố thuộc về con người nhưng theo cách hiểu này, nó nằm ngoài khả năng điều khiển và tự chủ của mỗi chúng ta. Tất cả đều có sự sắp đặt và định hướng sẵn theo quy luật của số phận. Tư tưởng con người, đặc biệt là tư tưởng văn hóa phương Đông rất tin vào số phận và vận mệnh sẵn có, thậm chí cho đến ngày nay, khi con người bước vào một giai đoạn mới hiện đại hơn, văn minh hơn, song trong tâm thức của họ vẫn ít nhiều tín mệnh. Có lẽ điều này bắt rễ sâu sắc từ định hướng tư duy của triết học Trung Quốc cổ đại từ hàng nghìn năm trước, đến nay vẫn còn vẹn nguyên giá trị. Người xưa cho rằng, mỗi một con người từ khi sinh ra đều được định hình sẵn một cuộc đời, ai ai cũng có một số mệnh nhất định và không ai giống ai. Mạnh Tử đã từng nói: “Mạc chi vi nhi vi giả, thiên dã; mạc chi trí nhi chí giả, mệnh dã”; tạm dịch là: Không phải sức người làm được mà vẫn có thể làm được, đây chính là Thiên ý; không phải sức người có thể cầu được mà lại có được, đây chính là vận mệnh. Như vậy, triết học của Mạnh Tử 10 đã sớm phát hiện một quy luật tất yếu trong đời sống của con người: con người là trung tâm của vũ trụ nhưng quyền năng của con người luôn là hữu hạn, đôi khi không thể chiến thắng sự sắp đặt của số phận, mà số phận vốn dĩ được quy định từ “ý trời”. “Thiên” là một đấng tối cao, có khả năng chi phối mọi hoạt động đời sống vật chất và tinh thần của con người dưới hạ giới. Do vậy, không phải ngẫu nhiên mà người ta lại đề cao sự tổng hòa của ba không gian: thiên – địa – trần gian; song trước tiên phải là “thiên thời”, “địa lợi”, cuối cùng mới đến “nhân hòa”. Đổng Trọng Thư trong Hán thư – Đổng Trọng Thư đã nghiên cứu một phần về khái niệm “mệnh”, ông cũng có quan điểm tương tự như Mạnh Tử khi đặt chữ “mệnh” trong mối quan hệ với chữ “thiên”, từ đó thấy được sự kết giao mật thiết giữa chúng: “thiên mệnh chi vị mệnh”. Như vậy, mệnh trong trường hợp này còn được hiểu là thiên mệnh, tức là ý trời. Mặt khác, người xưa còn xem sự vận hành của sinh mệnh con người theo trục thời gian, phân chia thành đại vận, tiểu vận, lưu niên. Bởi vậy mà, mệnh ở đây lại chính là vận mệnh. Có vẻ, các nhà nghiên cứu kim cổ đều thống nhất với nhau ở quan niệm hiểu chữ “mệnh” trong nội hàm “thiên mệnh” và “vận mệnh”. Theo những tài liệu dịch của tác giả Tiểu Thiện tổng hợp trong bài viết “Mệnh” rốt cuộc là gì?, ta có thể tìm thấy những hiểu biết căn bản về khái niệm “vận mệnh” như sau: “Sinh mệnh của con người là do một số vận trình khác nhau tổ hợp thành, hoặc là vận lành, hoặc là vận rủi; hoặc là lành trước rủi sau, hoặc là rủi trước lành sau. Trong vận trình sinh mệnh khác nhau biểu hiện ra chất lượng sinh mệnh khác nhau. Chất lượng thông thường của sinh mệnh là do giàu nghèo, sang hèn, sống thọ hay chết yểu, trắc trở hay suôn sẻ để đo lường. Vì vậy, mệnh hoặc vận mệnh, trên thực tế chính là quỹ đạo vận hành của sinh mệnh con người vốn đã được định sẵn từ trước”. 11 Khổng Tử cũng có những nghiên cứu bước đầu về “mệnh”: “Bất tri mệnh, vô dĩ vi quân tử dã”, tạm dịch là: Không biết vận mệnh thì không có cách nào làm người quân tử. Ở đây, đạo Khổng lại chú trọng khai thác và đề cao vai trò của dự đoán số phận, ông coi nó như một quá trình cần thiết trong việc cải thiện khả năng bao quát và tự chủ của con người trước quy luật của tạo hóa, con người cần phải chiến thắng số phận và tự vận hành quy trình của số mệnh nhằm thoát ra khỏi khuôn khổ của ý trời. Tác giả của cuốn sách Y học nổi tiếng Trung Quốc cổ Hoàng đế nội kinh có nói rằng con người là do “thiên địa hợp khí” sinh ra, tức là khí trời và đất hợp lại tạo ra con người toàn vẹn. Cụ thể: “Phu nhân sinh vu địa, huyền mệnh vu thiên, thiên địa hợp khí, mệnh chi viết nhân”, tạm dịch là: con người vốn dĩ sinh ra từ đất, nhưng nguồn gốc của sinh mệnh lại vốn xuất phát từ trời, hơn nữa khí trời và đất hợp lại tạo nên con người. Như vậy, ta có thể hiểu một chỉnh thể con người được cấu tạo từ hai thành phần chính: phần thuộc về đất và phần thuộc về trời. Phần đất chính là những yếu tố hữu hình như cỏ cây, hoa lá, chim muông, đối với con người thì chính là phần thân thể, thể xác; còn phần trời có thể coi là những yếu tố vô hình không thể chạm tới và cảm nhận bằng xúc giác, hay còn gọi là linh hồn, phách vía… Trong bài viết Nội hàm của “sinh mệnh” theo nhìn nhận của Trung Y đã có sự luận giải Hoàng đế nội kinh khá xác đáng như sau: “con người là lấy tinh cha và huyết mẹ làm cơ sở, mà để hình thành một con người hoàn chỉnh, ngoại trừ khí huyết hòa thuận, trong ngoài thông suốt, ngũ tạng sinh thành ra, còn ắt phải có “thần” ngụ ở tim, “hồn” và “phách” mới có thể đầy đủ kiện toàn”. Rõ ràng cần phải nhìn nhận một cách bao quát và toàn diện về một thực thể con người để thấy được yếu tố quan trong nhất của sinh mệnh không phải là “mạng sống”, là sự tồn tại sinh học như quan niệm cũ, mà hơn hết là nó chứa đựng “nguồn sống” thực sự của một con người, đó chính là “linh hồn”. Do vậy, ta 12 có thể thấy Lý Hạ và Chế Lan Viên đã khai thác rất tốt khía cạnh này của sinh mệnh con người, đối với hai nhà thơ, sinh mệnh chính là tìm ra được “chất sống” tồn tại và lóe sáng trong những phần hữu hình đã chết ở hiện thực. Họ tìm đến cái chết là để làm sống dậy nó. Chính vì vậy mà ta bắt gặp những phần linh hồn tinh túy nhất chất chứa trong thơ họ. Lý Hạ và Chế Lan Viên đã “mã hóa” vấn đề sinh mệnh để trở thành một “cảm thức” trong thơ. Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm “cảm thức” được định nghĩa: “là nhận thức bằng cảm quan, nhận thức cảm giác”. “Có thể hiểu cảm thức là một quá trình phát triển qua hai giai đoạn: xuất phát điểm của nó là những cảm xúc, cảm giác trực quan sinh động, cụ thể, chân thực về đối tượng. Khi cảm xúc đạt đến độ mãnh liệt, đưuọc tập hợp lại tạo nên một hệ thống có tính ổn định, và có bước chuyển hóa thành tư duy thì khi đó cảm thức được hình thành. Cảm thức là sự dung hợp hài hòa, tinh tế giữa cảm xúc và tư duy.” Quan niệm này đã lý giải một cách rõ ràng về tính chất, mức độ của cảm xúc – cảm thức – tư duy. Nếu như cảm xúc là yếu tố thiên về mặt tình cảm, và tư duy nghiêng về mặt lí trí, trí tuệ thì cảm thức lại là sự kết giao giữa hai yếu tố trên. Như vậy “cảm thức sinh mệnh” trong văn chương chính là những cảm nhận trực quan của người nghệ sĩ về vấn đề sinh mệnh được nhận thức lại, được chắt lọc và định hình thành một chỉnh thể thông qua quá trình tư duy nghệ thuật. Có thể hiểu, những cảm thức ấy không còn là những cảm xúc bộc phát từ trong tâm hồn của thi sĩ, cũng không hẳn là những lý luận, biện chứng giống như tư duy của một nhà tư tưởng, mà ở đây nó là một nhận thức mới vừa mang tính nghệ thuật lại vừa chứa đựng tính hệ thống. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi tập trung nghiên cứu về vấn đề cảm thức sinh mệnh trong những sáng tác của Lý Hạ và thơ ca của Chế Lan Viên trước năm 1945, chủ yếu là những bài thơ trong tập thơ Điêu tàn. 13 Vấn đề sinh mệnh trong văn chương nói chung là những vấn đề được các nhà văn nhà thơ đúc kết thông qua quá trình trải nghiệm và nhận thức sâu sắc về sự sống và cái chết. Do vậy mà sinh mệnh trong thơ Lý Hạ và Chế Lan Viên cũng được nghiên cứu chuyên sâu về khía cạnh này. Cụ thể, những cảm thức sinh mệnh được quan tâm khai thác mà chúng tôi tìm thấy trong thơ của họ chính là cảm thức điêu tàn, cảm thức cô đơn và cảm thức cuồng hoan. 5. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ mà chúng tôi đặt ra khi thực hiện đề tài này là: Thứ nhất là khai thác thơ ca Lý Hạ ở một phương diện khác, một giác độ khác một cách chuyên sâu hơn, cụ thể là “cảm thức sinh mệnh” vô cùng đặc sắc trong thơ ông. Thứ hai là chúng tôi sẽ cố gắng tìm những nguồn tư liệu đáng tin cậy nhất, cố gắng dịch và chú giải thơ ông một cách chính xác nhất để người đọc dễ hiểu và dễ cảm nhận. Thứ ba là đưa thơ ca Lý Hạ đến gần với bạn đọc Việt Nam hơn. Từ đó có cái nhìn khách quan và vận dụng đánh giá với thơ ca trong nước, trong mối tương quan so sánh với thơ của Chế Lan Viên. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 5.2.1. Phương pháp cấu trúc, hệ thống Chúng tôi đặt thơ ca của Lý Hạ như một chỉnh thể thống nhất trong diện mạo chung của nền văn học Trung Hoa cổ đại và thơ ca của Chế Lan Viên cũng được định hình nghiên cứu trong một hệ thống của khuynh hướng lãng mạn Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX. Đồng thời, đối với từng tác phẩm, chúng tôi cũng quan tâm đến tính chỉnh thể trong cấu trúc của nó. Chúng tôi cũng vận dụng phương pháp cấu trúc, hệ thống trong việc triển khai các phần của luận văn một cách logic và chặt chẽ. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan