BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------
LÊ HUY THÀNH
ĐẠO ĐỨC NHÀ BÁO
Ở TỈNH SƠN LA HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------
LÊ HUY THÀNH
ĐẠO ĐỨC NHÀ BÁO
Ở TỈNH SƠN LA HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Đăng Sinh
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Đạo đức nhà báo ở tỉnh Sơn La hiện
nay” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS. Trần Đăng Sinh. Các số liệu và dẫn chứng trích dẫn, sử dụng trong
luận văn rõ ràng, trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ công trình
khoa học nào khác.
Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả
Lê Huy Thành
2
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Trần Đăng Sinh,
người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi thực hiện và hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban Chủ nhiệm khoa và các giảng viên trong khoa Triết học, trường
Đại học Sư phạm Hà Nội.
Ban lãnh đạo và các nhà báo, đồng nghiệp tại tỉnh Sơn La.
Những người thân, gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn này.
Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả
Lê Huy Thành
3
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
Trang phụ bìa
1
Lời cam đoan
2
Lời cảm ơn
3
Mục lục
4
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
6
Mở đầu
7
Chương 1 Đạo đức nhà báo ở tỉnh Sơn La, một số vấn đề lý luận
14
và thực tiễn
1.1. Những vấn đề cơ bản của đạo đức nhà báo
14
1.1.1. Khái niệm đạo đức
14
1.1.2. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp
16
1.1.3. Khái niệm đạo đức nhà báo
16
1.1.4. Vai trò của đạo đức nhà báo trong hoạt động báo chí
20
1.1.5. Những yêu cầu về đạo đức nhà báo
25
1.1.6. Khái quát về đội ngũ nhà báo ở tỉnh Sơn La hiện nay
38
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nhà báo ở tỉnh Sơn
43
La hiện nay
1.2.1. Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Sơn La
43
1.2.2. Sự phát triển của truyền thông
50
1.2.3. Ảnh hưởng của mặt trái kinh tế thị trường
54
Tiểu kết chương 1
59
Chương 2. Thực trạng và giải pháp nâng cao đạo đức nhà báo ở
61
tỉnh Sơn La hiện nay
2.1. Thực trạng đạo đức nhà báo ở tỉnh Sơn La
4
61
2.1.1. Những biểu hiện tích cực và nguyên nhân
61
2.1.2. Những biểu hiện tiêu cực và nguyên nhân
82
2.2. Giải pháp nâng cao đạo đức nhà báo ở tỉnh Sơn La hiện nay
85
2.2.1. Đối với đội ngũ nhà báo tỉnh Sơn La
85
2.2.2. Đối với cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí của tỉnh Sơn La
87
Tiểu kết chương 2
93
Kết Luận
95
Danh mục tài liệu tham khảo
99
Bảng hỏi điều tra đạo đức nhà báo trên địa bàn tỉnh Sơn La
103
5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
XHCN: Xã hội Chủ nghĩa
STV: Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Sơn La
VTV: Đài Truyền hình Việt Nam
PT-TH: Phát thanh Truyền hình.
BTV: Biên tập viên
PV: Phóng viên
PTV: Phát thanh biên
KTV: Kỹ thuật viên
UBND: Ủy ban nhân dân
HĐND: Hội đồng nhân dân
MTTQ: Mặt trận Tổ quốc
KT-VH: Kinh tế - văn hóa
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhắc đến nhà báo, nhiều người đã nhớ đến rất nhiều nhà báo dũng cảm,
trung thực, tài giỏi và hết lòng vì nghề. Họ là những người luôn nghĩ đến
lương tâm nghề nghiệp cùng với những phẩm chất khác; có tầm hiểu biết và
nhận thức sâu sắc về cuộc sống, đôi lúc phải hy sinh cái riêng vì chuyện
chung, vượt qua những chướng ngại để hoàn thành nhiệm vụ,. Song cũng
chưa bao giờ báo chí nói chung, người làm báo nói riêng phải chịu sự tác
động mạnh mẽ của cơ chế thị trường như hiện nay. Trong con lốc xoáy của
nền kinh tế thị trường, có nhà báo đi ngược lại với tiêu chí đạo đức nghề
nghiệp cần có. Tình trạng thương mại hóa báo chí luôn là một nguy cơ hiện
hữu, cần phải cảnh báo với hoạt động báo chí hiện nay. Chính điều này đã
nhắc nhở người làm báo “ngòi bút phải gắn liền với đạo đức nghề nghiệp”.
Đó là những quy tắc, chuẩn mực quy định thái độ và hành vi ứng xử của nhà
báo trong các mối quan hệ nghề nghiệp.
Có một thời khi nói đến nhà báo không ít người liên tưởng đến đời
sống vật chất khó khăn nên mới có câu “Nhà văn, nhà báo, nhà giáo… nhà
nghèo”. Câu nói có vẻ như cay đắng, nhưng tựu chung vẫn là sự trân trọng
cho những người được cho là trí thức của xã hội nhưng chưa nhận được sự ưu
ái đúng mức. Hồi ấy, phóng viên vẫn đi làm bằng xe đạp nhưng vẫn đều đều
có mặt ở những nông trường, vùng sâu, vùng xa để đưa tin, viết bài. Khó
khăn lắm mới có được bài đăng báo, nhưng tiền nhuận bút chỉ đủ bao bạn bè
chầu cà phê sáng. Ấy vậy mà lúc bấy giờ hiếm nghe một câu than phiền nào
về đạo đức người làm báo.
Thế rồi khi đất nước đổi mới, vai trò báo chí được phát huy và dần
“thoát nghèo”. Chuyện phóng viên phải cọc cách trên chiếc xe đạp lùi về dĩ
vãng, công nghệ thông tin đã thay dần những trang giấy, nhưng cùng với đó
7
bắt đầu xuất hiện những vụ bê bối dính líu đến nhà báo. Những “con sâu làm
rầu nồi canh” lác đác xuất hiện trên các trang báo. Thỉnh thoảng chúng ta bắt
gặp một vài bài viết thông tin sai sự thật, thông tin méo mó, không quan tâm
đến hậu quả của thông tin, đưa tin không khách quan vì mục đích vụ lợi hoặc
vì năng lực chuyên môn kém. Một vài phóng viên trẻ, mới vào nghề muốn
nhanh chóng có nhiều bài được đăng tải trên mặt báo để tạo tên tuổi. Một số ít
nhà báo đã lợi dụng danh nghĩa nhà báo sách nhiễu địa phương, doanh
nghiệp, vi phạm đạo đức nhà báo… gây bức xúc trong dư luận. Vì vậy, những
năm gần đây, vấn đề nâng cao ý thức đạo đức nghề nghiệp cho người làm báo
luôn được Hội Nhà báo các cấp quan tâm và thường xuyên nhắc nhở hội viên.
Thiết nghĩ, đạo đức nghề nghiệp phải được đặt trong các mối quan hệ
của nhà báo. Hay nói cụ thể, nhà báo phải có trách nhiệm với từng tác phẩm
và sản phẩm, đứa con tinh thần do mình tạo ra. Trong một tình huống cụ thể,
nhà báo xác định phải ứng xử như thế nào để phù hợp với quy tắc đạo đức,
mang lại điều mà xã hội và công chúng mong đợi. Một con sâu làm rầu nồi
canh, người ta có thể đổ đi để nấu nồi canh khác, nhưng một nhà báo nếu tác
phẩm vi phạm đạo đức nghề nghiệp thì không những gây hậu quả xã hội to
lớn mà còn khó có thể lấy lại được danh dự và uy tín của cơ quan báo chí, nền
báo chí đối với công chúng xã hội.
Tại tỉnh Sơn La, hiện có hơn 400 nhà báo. Việc tìm hiểu vấn đề đạo
đức của những người làm báo ở tỉnh Sơn La để nâng cao đạo đức nghề
nghiệp, nâng cao chất lượng, hiệu quả các ấn phẩm báo chí, xây dựng uy tín
của các cơ quan báo chí trên địa bàn… cũng đang là vấn đề đặt ra cấp thiết.
Chính vì vậy, người viết chọn đề tài “Đạo đức nhà báo ở tỉnh Sơn La hiện
nay” làm luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề đạo đức nghề nghiệp của nhà báo đã có một số công trình
8
nghiên cứu ở trên thế giới và trong nước đề cập đến.
2.1. Một số công trình nghiên cứu ở nước ngoài đề cập đến đạo đức nghề
nghiệp của nhà báo.
Một số nghiên cứu của các tác giả người Nga đã được dịch ra tiếng
Việt như:
+ Cuốn “Những vấn đề cơ bản của đạo đức nghề nghiệp nhà báo” của
G.V.Ladutina (do Hoàng Anh biên dịch, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội in
và phát hành năm 2004). Tác giả đã đề cập về lịch sử vấn đề đạo đức nghề
nghiệp nhà báo, về hoạt động của đạo đức nghề nghiệp trong báo chí, quan
điểm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo, về các nguyên tắc cơ bản trong nghề
báo.
+ Trong tập 2 cuốn “Cơ sở lý luận báo chí” của E.P.Prôkhôrốp (do Đào
Tấn Anh, Đới Thị Kim Thoa dịch, NXB Thông tấn, Hà Nội, in và phát hành
năm 2004) tác giả đã bàn đến vấn đề đạo đức nghề nghiệp của nhà báo trong
chương V (từ trang 258-318). Trong đó, tác giả đã đưa ra định nghĩa về đạo
đức nghề nghiệp của nhà báo, các quy định đạo đức trong mối quan hệ giữa
nhà báo – công chúng, nhà báo – nguồn tin, nhà báo – nhân vật trong tác
phẩm, nhà báo – tổng biên tập, nhà báo – các đồng nghiệp.
+ Trong tập 2 cuốn “Báo chí truyền hình” – sách tham khảo nghiệp vụ
của X.L.Xvích, A. Ia. Iurôpxki (do Đào Anh Tấn dịch, NXB Thông tấn, in và
phát hành năm 2004), tác giả đã đề cập đến các những nguyên tắc đạo đức
trong báo chí truyền hình.
+ Cuốn “Giao tiếp trên truyền hình trước ống kính và sau ống kính camera”
của X.A.Muratốp là cuốn sách tham khảo nghiệp vụ báo chí (Đào Tấn Anh dịch,
NXB Thông tấn, Hà Nội, in và phát hành năm 2004). Tác giả đã đề cập đến
những nguyên tắc đạo đức của báo chí truyền hình (tại mục 4, từ trang 269-317).
Trên thế giới, những quy định về đạo đức nghề nghiệp nhà báo đã xuất
9
hiện từ rất lâu. Ví như, năm 1971, cộng đồng châu Âu thông qua Tuyên ngôn
về các nghĩa vụ và quyền lợi của nhà báo (thường gọi tắt là Hiến chương
Munich). Ở Anh cũng có “Bản hiến chương của Nghiệp đoàn quốc gia các
nhà báo Anh”, hay các hãng thông tấn như Associated Press có “Bản qui tắc
đạo đức nghề nghiệp”
Tuy nhiên, thực tế hoạt động của các hãng thông tấn, các tập đoàn
truyền thông ở nước ngoài có sự khác biệt so với điều kiện ở nước ta, do đó,
tính chất đạo đức nghề nghiệp ở các nước cũng khác với thực tế ở Việt Nam.
2.2. Một số công trình nghiên cứu ở Việt Nam đề cập đến đạo đức nghề
nghiệp của nhà báo.
Ở Việt Nam, hiện bước đầu đã có những tài liệu nghiên cứu về vấn đề
này. Nhiều cuộc hội thảo do Hội nhà báo Việt Nam phối hợp với các cơ quan
chức năng tổ chức đã bàn thảo và có nhiều tham luận của các chuyên gia, các
nhà báo lão thành, lãnh đạo các cơ quan báo chí về đạo đức nhà báo. Trên các
tạp chí, trang web chuyên ngành cũng đã có nhiều bài viết về đạo đức nghề
báo. Tuy nhiên, các nghiên cứu ở nước ta chủ yếu mới chỉ dừng lại ở mức độ
gợi mở. Cụ thể, có một số công trình nghiên cứu đề cập đến đạo đức nghề
nghiệp của nhà báo như sau:
+ Cuốn “Hồ Chí Minh về vấn đề báo chí” của PGS.TS Tạ Ngọc Tấn (Cục
Xuất bản, H.1995) tập hợp nhiều tác phẩm hoặc trích đoạn tác phẩm của Hồ Chí
Minh bàn về vấn đề báo chí, trong đó có đạo đức nghề nghiệp của nhà báo.
+ Giáo trình “Cơ sở lý luận báo chí truyền thông” của các tác giả
Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (NXB Đại học Quốc gia,
Hà Nội, 2004), tại chương 10, các tác giả đã bàn về đạo đức nghề nghiệp nhà
báo thông qua các nguyên tắc trong hoạt động thực tiễn của nghề báo.
+ Cuốn “ Những vấn đề của báo chí hiện đại” của tác giả Hoàng Đình
Cúc và Đức Dũng (NXB Lý luận chính trị, năm 2007) bàn về đạo đức nghề
10
nghiệp của người làm báo từ trang 189 - 206. Các tác giả cho rằng, muốn
nâng cao đạo đức nghề nghiệp thì phải nâng cao trình độ tư duy, phẩm chất
chính trị và nghiệp vụ của nhà báo.
+ Cuốn “Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay” của
TS. Nguyễn Thị Trường Giang (Nxb Chính trị hành chính, 2010), tác giả đề
cập sâu đến các vấn đề của đạo đức nghề nghiệp của nhà báo, thực trạng hiện
nay, giải pháp nâng cao đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam.
+ Đầu năm 2014, TS. Nguyễn Thị Trường Giang tiếp tục cho ra mắt
cuốn “100 bản quy tắc đạo đức nghề báo trên thế giới” (Nxb CTQG Sự thật).
Tác giả đã công phu sưu tầm và biên dịch nhiều quy ước đạo đức từ những
nguồn khác nhau, và cuối cùng chọn 100 bản để nghiên cứu, phân tích, từ đó
đề xuất kiến giải của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài, thông
qua khảo sát đội ngũ nhà báo nhằm đánh giá thực trạng đạo đức nghề nghiệp
của nhà báo, từ đó đề xuất giải pháp góp phần nâng cao đạo đức nghề nghiệp
của nhà báo trên địa bàn tỉnh Sơn La hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề đạo đức nhà báo.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu đạo đức nhà báo ở tỉnh Sơn La hiện nay.
5. Giả thuyết khoa học
Đạo đức nhà báo là một bộ phận của đạo đức xã hội. Nếu thực hiện tốt
các giải pháp nâng cao đạo đức nhà báo sẽ góp phần phát triển kinh tế, xã hội,
văn hóa ở tỉnh Sơn La hiện nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
11
Hệ thống những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài: khái niệm, vai trò,
những đặc trưng nghề nghiệp, những yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của nhà
báo.
Thông qua khảo sát đội ngũ nhà báo để đánh giá thực trạng đạo đức
nhà báo ở tỉnh Sơn La hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao đạo đức nhà báo ở tỉnh Sơn
La hiện nay.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề về đạo đức nhà báo ở tỉnh
Sơn La từ 1986 đến nay.
8. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả sử dụng các
phương pháp sau: Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
phương pháp phân tích tài liệu; phương pháp phân tích nội dung; phương
pháp phỏng vấn; phương pháp thống kê; phương pháp phân tích, tổng hợp...
9. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
10. Tóm tắt những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
10.1. Những luận điểm cơ bản
Đạo đức nhà báo là một bộ phận cấu thành của đạo đức xã hội có vai
trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách và phẩm chất của nhà báo.
Trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, nhà báo muốn
hoàn thành tốt nhiệm vụ, trước hết phải thực hiện tốt đạo đức nghề nghiệp.
10.2. Đóng góp mới của luận văn
Từ kết quả đạt được, luận văn có những điểm mới về mặt khoa học sau:
Đề tài có ý nghĩa đối với ngành báo chí, các cơ sở nghiên cứu và đào
12
tạo báo chí - truyền thông. Luận văn hệ thống lại và bổ sung thêm một số vấn
đề về đạo đức nghề nghiệp của nhà báo nói chung, đạo đức nghề nghiệp của
những người làm báo ở tỉnh Sơn La nói riêng. Luận văn cũng đưa ra những
khuyến nghị nhằm nâng cao phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo
trong sáng tạo tác phẩm báo chí.
Ngoài ra, luận văn có thể giúp cho những người quan tâm có thông tin
và kiến thức cũng như cái nhìn về đạo đức nghề nghiệp của những người làm
báo hiện nay.
13
CHƯƠNG 1. ĐẠO ĐỨC NHÀ BÁO Ở TỈNH SƠN LA - MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 Những vấn đề cơ bản của đạo đức nhà báo
1.1.1. Khái niệm đạo đức
Thuật ngữ “đạo đức” trong tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán, bao
gồm hai nét nghĩa gộp lại: “đạo” – con đường, quy luật sinh thành, tồn tại,
biến hóa của vạn vật và “đức”- bản chất, tính chất của các loài. Theo nghĩa
đó, mỗi loài có những tính chất riêng của nó để phân biệt với các loài khác.
Tuy nhiên, đó là tiếp cận từ góc độ chiết tự “đạo” và “đức”, còn đạo
đức với nghĩa là những chuẩn mực được con người thừa nhận và thực hiện thì
chỉ có ở xã hội loài người. Do vậy, khái niệm “đạo đức” chỉ dùng cho con
người, nó hàm nghĩa những chuẩn mực mà con người trong xã hội cùng đặt ra
vào cùng tuân thủ.
Theo quan niệm phương Đông, đạo đức có nghĩa là “đạo làm người”,
bao gồm nhiều chuẩn mực về các mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ, bạn
bè, anh em… Ở phương Tây, khái niệm đạo đức bắt nguồn từ chữ “mos”
trong tiếng Latinh, có nghĩa là “lề thói”, moralis có nghĩa là “thói quen”. Như
vậy, khi nói đến đạo đức là nói đến các lề thói và tập tục biểu hiện trong mối
quan hệ giao tiếp hàng ngày giữa người với người. Khái niệm quốc tế của đạo
đức là “moral” [7, tr.9-10 ]
Theo C.Mác, đạo đức là một “hình thái ý thức xã hội” chịu sự tác động
qua lại của các hình thái ý thức xã hội khác và cùng với các hình thái ý thức
xã hội ấy, đạo đức chịu sự quy định của tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại xã hội.
Do đó, đạo đức có “bản chất xã hội”.
Ngày nay, đạo đức được định nghĩa “là một hình thái ý thức xã hội, tập
hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh
giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội,
14
chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của
dư luận xã hội” [7, tr.8]
Như vậy, những chuẩn mực đạo đức được chính con người sáng tạo ra
và tuân thủ, nhằm điều chỉnh hành vi của con người. Những chuẩn mực cụ thể
tùy vào quan niệm của từng thời đại, từng vùng, miền… với mục đích là đem
lại lợi ích cho bản thân mình và người khác, nghĩa là đem lại lợi ích cho xã
hội.
Đạo đức đánh giá hành vi con người theo các chuẩn mực và các giá trị
như thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa, đúng và sai, cái phải làm và cái
không được làm, cái nên làm và cái không nên làm…Việc yêu nước, thương
dân, kính trên, nhường dưới, hiếu thuận với cha mẹ, đối xử chan hòa với anh
em, bạn bè, làng xóm… đều do các chuẩn mực của đạo đức xã hội chi phối
hành vi cá nhân. Chuẩn mực đạo đức giúp con người có khả năng tự hoàn
thiện mình và phát triển ngày một văn minh, tiến bộ. Xã hội loài người càng
phát triển thì các chuẩn mực đạo đức càng phong phú, mang tính nhân đạo
hơn, có nghĩa là đạo đức cũng luôn vận động cùng quá trình phát triển của xã
hội.
Về mặt xã hội, đạo đức được thể hiện bằng thái độ cụ thể của dư luận
xã hội. Đó là những ý kiến, trạng thái tinh thần tán thưởng, khẳng định (tích
cực) hoặc phê phán, phủ định (tiêu cực) của một số đông người đối với một
hành vi, ý tưởng của cá nhân hay nhóm người nào đó. Về mặt cá nhân, đạo
đức được coi là “tòa án lương tâm” có khả năng tự phê phán, đánh giá và suy
xét từng hành vi, thái độ và ý nghĩ trong bản thân mỗi cá nhân.
Xét về bản chất, sự điều chỉnh của đạo đức mang tính tự giác, là sự tự
lựa chọn của mỗi người. Từ những chuẩn mực và quy tắc chung, mỗi cá nhân
tự chọn lựa và có nghĩa vụ, trách nhiệm chuyển những yêu cầu đó thành nhu
cầu, mục đích và sự hứng thú của bản thân. Vì vậy, ngoài biểu hiện trong các
15
quan hệ xã hội, đạo đức còn thể hiện trong thái độ, hành vi và việc tự ứng xử
của bản thân mỗi con người.
1.1.2. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp
Không chỉ với cộng đồng xã hội, đạo đức chi phối cả các lĩnh vực hoạt
động nghề nghiệp cụ thể của xã hội. Mỗi nghề nghiệp đều có chuẩn mực đạo
đức riêng. Những chuẩn mực ấy luôn gắn bó chặt chẽ với những điều kiện,
đặc điểm của nghề nghiệp cụ thể đó.
Đạo đức nghề nghiệp là một bộ phận của đạo đức xã hội, là đạo đức
trong một lĩnh vực cụ thể trong đạo đức chung của xã hội. Đạo đức nghề
nghiệp bao gồm những yêu cầu đạo đức đặc biệt, các quy tắc và chuẩn mực
trong lĩnh vực nghề nghiệp nhất định, nhằm điều chỉnh hành vi của các thành
viên trong nghề nghiệp đó sao cho phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ của xã
hội.
Phẩm chất đạo đức cá nhân trong xã hội có nét chung nhưng phẩm chất
đạo đức trong từng nghề nghiệp lại có những nét đặc thù và yêu cầu riêng
biệt. Tuân theo các nguyên tắc, chuẩn mực trong đạo đức nghề nghiệp vừa
góp phần vào tăng trưởng kinh tế, vừa tạo điều kiện nâng cao chất lượng lao
động, hoàn thiện người lao động trong nghề nghiệp đó.
Nghề nào cũng cần có đạo đức nghề nghiệp, nhưng một số nghề có vị
trí quan trọng đặc biệt và có mối quan hệ rộng rãi với nhiều người trong xã
hội thì đạo đức nghề nghiệp đặc biệt được coi trọng như nghề giáo, nghề báo,
nghề y, nghề luật, an ninh, tòa án…Với những nghề này, bên cạnh những
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp chung cho tất cả các quốc gia thì mỗi nước,
trong mỗi thời kỳ lịch sử lại đề ra những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp
riêng cho người hành nghề ở nước mình.
1.1.3. Khái niệm đạo đức nhà báo
Khái niệm nhà báo
16
Theo TS. Nguyễn Thị Trường Giang trong cuốn “Đạo đức nghề nghiệp
của nhà báo” thì khái niệm “nhà báo” được hiểu là: “người làm nghề viết báo
chuyên nghiệp nhằm sáng tạo nên những tác phẩm báo chí, đang hoạt động
hoặc cộng tác thường xuyên với một cơ quan báo chí và được cấp thẻ nhà
báo” [13, tr.44].
Điều 14 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật báo chí cũng quy
định rõ: “Nhà báo phải là người có quốc tịch Việt Nam, có địa chỉ thường trú
tại Việt Nam, có đủ các tiêu chuẩn chính trị, đạo đức và nghiệp vụ báo chí do
Nhà nước quy định, đang hoạt động hoặc công tác thường xuyên với một cơ
quan báo chí Việt Nam và được cấp thẻ nhà báo”.
Trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí”, PGS.TS Nguyễn Văn Dững cho
rằng: “Nhà báo có thể được hiểu là người tham gia thực hiện một trong các
loại hình lao động báo chí của quá trình thu thập, xử lý và chuyển tải thông tin
cho công chúng xã hội; đó là lao động tổ chức – quản lý (ở nước ta không bao
gồm tổ chức quản lý vĩ mô và vi mô), lao động biên tập, lao động tác giả, lao
động kỹ thuật – dịch vụ trong báo chí. Nhà báo là chủ thể trực tiếp hoạt động
báo chí, chịu trách nhiệm trước pháp luật và dư luận xã hội về những thông
tin mà họ cung cấp cho công chúng xã hội, trên cả hai bình diện pháp lý và
đạo đức” [10, tr.300].
Để phục vụ cho nghiên cứu ở nhiều góc độ và toàn diện, thì nhà báo có
thể được nhìn nhận là những người tham gia vào quá trình sáng tạo tác phẩm.
Do vậy, trong luận văn này, khái niệm nhà báo được tác giả nghiên cứu ở
phạm vi rộng theo như quan điểm của PGS.TS Nguyễn Văn Dững.
Khái niệm đạo đức nhà báo
Báo chí là loại hình truyền thông đại chúng quan trọng, có sức mạnh to
lớn trong đời sống xã hội. Hoạt động báo chí bị chi phối bởi luật báo chí và
những điều luật, chuẩn mực khác liên quan đến báo chí. Trong đó, có những
17
chuẩn mực rất quan trọng mà nhà báo cần tuân thủ dưới sự dẫn dắt của lương
tâm và trách nhiệm, đó chính là đạo đức nghề nghiệp của nhà báo.
Trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí”, tác giả E.P.Prôkhôrốp cho rằng,
đạo đức nhà báo là “những quy định đạo đức không được ghi trong đạo luật,
nhưng được chấp nhận trong giới báo chí và được duy trì bởi sức mạnh của
dư luận xã hội, bởi các tổ chức sáng tạo nghề nghiệp, đó là những nguyên
tắc, những quy định và những quy tắc về hành vi đạo đức của nhà báo” [30,
tr.294].
Trong cuốn “Thuật ngữ báo chí truyền thông”, Phạm Thành Hưng cho
rằng đây là “khái niệm chỉ tư cách, lương tâm nghề nghiệp trong hoạt động
báo chí, biểu hiện qua hành vi, nguyên tắc ứng xử của người làm báo” [19,
tr.75].
TS Nguyễn Thị Trường Giang trong cuốn “Đạo đức nghề nghiệp của
nhà báo” cho rằng: “Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là những quy tắc,
chuẩn mực quy định về thái độ và hành vi ứng xử của nhà báo trong các mối
quan hệ nghề nghiệp” [13, tr.36].
Trên thực tế hiện nay, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo còn được gọi
bằng nhiều tên khác nhau như đạo đức nghề báo, đạo đức báo chí, đạo đức nghề
nghiệp của người làm báo, đạo đức nhà báo.
So với nhiều nghề nghiệp khác, đạo đức nhà báo có nội dung rất phong
phú và sinh động. Bởi vì nhà báo là người đưa thông tin đến với công chúng
và hướng dẫn họ nhận thức về cuộc sống hiện thời. Hơn nữa, hoạt động của
nhà báo liên quan đến mỗi con người, mỗi cộng đồng, tác động đến toàn bộ
xã hội.
Cũng giống như đạo đức, bên cạnh những nguyên tắc, chuẩn mực nghề
báo chung cho tất cả các nhà báo ở tất cả các quốc gia thì từng quốc gia, từng
cơ quan báo chí còn có những nguyên tắc, chuẩn mực riêng phụ thuộc vào
18
từng thời kỳ lịch sử của từng quốc gia, cơ quan báo chí đó. Chính vì thế,
những phẩm chất đạo đức nhà báo như chân thật, khách quan, lòng trung
thành… bao hàm nội dung giống nhau nhưng mỗi quốc gia, mỗi cơ quan báo
chí lại có những yêu cầu cụ thể riêng trong từng thời kỳ lịch sử.
Trên thế giới, các nền báo chí chuyên nghiệp như Anh, Pháp, Mỹ,
Đức… đã xây dựng cho riêng mình những bộ quy tắc về đạo đức nghề nghiệp
từ rất lâu. Từ cuối thế kỷ XIX đến nay, đã có hơn 100 nước có những bộ quy
ước bằng văn bản được thông qua bởi các tổ chức nghề nghiệp và được thừa
nhận khi hành nghề. Ví dụ nước Mỹ có “Các quy tắc đạo đức báo chí” được
Hội các chủ bút báo chí Mỹ thông qua năm 1923 và “Bộ quy tắc đạo đức” của
Hiệp hội chủ nhân các Đài phát thanh thông qua năm 1929. Các tổ chức quốc
tế và khu vực cũng xây dựng riêng cho mình những bản quy ước, ví dụ như
được biết đến nhiều nhất là bản “Những nguyên tắc quốc tế và đạo đức nghề
nghiệp báo chí” do Tổ chức quốc tế các nhà báo (OIJ) khởi thảo, được các hội
nhà báo thành viên thông qua và được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hóa Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận.
Hiện nay, hầu hết các cơ quan báo chí, tòa soạn ở các nước phát triển
trên thế giới đều có Bộ Quy tắc hướng dẫn cho các phóng viên, biên tập viên
của mình trong hoạt động nghề nghiệp.
Ở Việt Nam, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo được xác lập trên cơ sở
thống nhất với báo chí thế giới và dựa trên cơ sở thực tiễn hoạt động báo chí
Việt Nam.
Năm 1995, Đại hội lần thứ 6 Hội Nhà báo Việt Nam đã thông qua “Bản
quy ước về tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của báo chí Việt Nam”. Đến Đại
hội lần thứ 8 (2005), Hội nhà báo Việt Nam đã chỉnh lý, sửa đổi thành 9 điều
“Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam” và gần đây
nhất ngày 16/12, Hội nhà báo Việt Nam công bố 10 điều về đạo đức người
19
- Xem thêm -