Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn việt na...

Tài liệu Luận văn kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn việt nam sau 1975 ở thpt

.PDF
126
995
79

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN THỊ HUYỀN NGỌC KẾT NỐI VĂN HỌC VỚI ĐỜI SỐNG TRONG DẠY HỌC ĐỌC HIỂU TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 Ở THPT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC HÀ NỘI, NĂM 2017 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN THỊ HUYỀN NGỌC KẾT NỐI VĂN HỌC VỚI ĐỜI SỐNG TRONG DẠY HỌC ĐỌC HIỂU TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 Ở THPT Chuyên ngành: Lí luận và phƣơng pháp dạy học Văn Mã số: 60.14.01.11 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Phạm Thị Thu Hƣơng HÀ NỘI, NĂM 2017 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bản luận văn này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu và tài liệu được trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu này không trùng với bất cứ công trình nào đã được công bố trước đó. Tôi chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình. Hà Nội, tháng 5 năm 2017 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Huyền Ngọc 3 LỜI CẢM ƠN Để luận văn “Kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT” được hoàn thành, tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên, giúp đỡ của các cá nhân, tập thể. Tôi xin chân thành bày tỏ tình cảm của mình với những sự giúp đỡ quý báu đó! Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS Phạm Thị Thu Hương – người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này! Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, đặc biệt là các thầy cô trong tổ Lí luận và Phương pháp dạy học bộ môn Văn – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài! Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Sau đại học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã quan tâm và tạo điều kiện cho tôi trong toàn khóa học! Xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể gia đình, bạn bè; cảm ơn các đồng nghiệp, các em học sinh trường THPT Kim Động (Hưng Yên) đã luôn động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi để hoàn thành luận văn của mình! Hà Nội, tháng 5 năm 2017 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Huyền Ngọc 4 CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN ĐHSPHN Đại học Sư phạm Hà Nội ĐHSPHN 2 Đại học Sư phạm Hà Nội 2 GV Giáo viên GS Giáo sư HS Học sinh Nxb Nhà xuất bản Nxb ĐHSP Nhà xuất bản Đại học Sư phạm SGK Sách giáo khoa SGV Sách giáo viên TS Tiến sĩ THPT Trung học Phổ thông 5 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 9 1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................................9 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................12 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................19 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .........................................................................20 5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................20 6. Đóng góp của luận văn ......................................................................................21 7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................21 PHẦN NỘI DUNG 22 Chƣơng 1. MỐI QUAN HỆ VĂN HỌC – ĐỜI SỐNG VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC KẾT NỐI VĂN HỌC VỚI ĐỜI SỐNG TRONG DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN CHƢƠNG Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG 22 1.1. Mối quan hệ giữa văn học và đời sống ...........................................................22 1.1.1. Văn học bắt nguồn từ đời sống ................................................................22 1.1.2. Văn học tác động trở lại đời sống ............................................................24 1.2. Vai trò của việc kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu văn bản văn chương.............................................................................................................25 1.2.1. Đọc hiểu văn bản văn chương .................................................................26 1.2.2. Kết nối văn học với đời sống ....................................................................39 1.2.3. Ý nghĩa của việc kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu văn bản văn chương ..................................................................................................44 Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................50 Chƣơng 2. TỔ CHỨC KẾT NỐI VĂN HỌC VỚI ĐỜI SỐNG TRONG DẠY HỌC ĐỌC HIỂU TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 Ở THPT 51 2.1. Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT ......................................................51 2.1.1. Vị trí, đặc điểm của truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 ......................51 6 2.1.2. Những tiềm năng kết nối văn học với đời sống trong dạy học truyện ngắn Việt Nam sau 1975 .............................................................................................55 2.1.3. Thực trạng kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT ......................................................................57 2.2. Những yêu cầu của việc kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT ..............................................................62 2.2.1. Bám sát văn bản, tuân thủ bản chất thẩm mĩ của tác phẩm văn học .......62 2.2.2. Phát huy vai trò chủ thể tích cực của học sinh trong hoạt động kết nối ..64 2.2.3. Lựa chọn, kết hợp các phương pháp, biện pháp kết nối phù hợp và hiệu quả ......................................................................................................................66 2.3. Những biện pháp kết nối văn học với đời sống trong dạy học truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT ..................................................................................67 2.3.1. Huy động trải nghiệm đời sống và phát hiện các “câu hỏi đời sống” từ học sinh có liên quan mật thiết đến việc đọc hiểu văn bản ................................67 2.3.2. Bổ sung tri thức đời sống để hỗ trợ học sinh đọc hiểu văn bản ...............72 2.3.3. Hướng dẫn học sinh sử dụng tri thức đời sống để hình dung, tưởng tượng thế giới nghệ thuật trong văn bản ......................................................................76 2.3.4. Hướng dẫn học sinh sử dụng tri thức đời sống để suy luận, cắt nghĩa, lí giải, đánh giá văn bản ........................................................................................79 2.3.5. Hướng dẫn học sinh vận dụng kết quả tiếp nhận văn bản vào đời sống thực tại ................................................................................................................84 Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................91 Chƣơng 3. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM 92 3.1. Mục đích thực nghiệm ....................................................................................92 3.2. Thời gian, địa điểm, đối tượng thực nghiệm ..................................................92 3.3. Phương pháp thực nghiệm ..............................................................................93 3.4. Tiêu chí đánh giá kết quả thực nghiệm ...........................................................93 3.5. Giáo án thực nghiệm .......................................................................................93 7 3.6. Kết quả thực nghiệm .....................................................................................116 3.6.1. Đề kiểm tra .............................................................................................116 3.6.2. Kết quả ...................................................................................................117 3.7. Đánh giá kết quả thực nghiệm ......................................................................118 3.7.1. Đánh giá về quá trình dạy học ...............................................................118 3.7.2. Đánh giá kết quả bài kiểm tra ................................................................118 KẾT LUẬN 120 TÀI LIỆU THAM KHẢO 123 8 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1. Hiện nay, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật, sự gia tăng nhanh chóng của tri thức nhân loại nên xu thế giáo dục của các nước phát triển trên thế giới là chuyển mạnh từ giáo dục theo định hướng nội dung (định hướng đầu vào) sang định hướng năng lực (định hướng đầu ra). Tiếp cận theo định hướng nội dung là chú trọng trang bị nội dung kiến thức, ít chú ý đến việc hình thành và rèn luyện kĩ năng. Do vậy, việc đánh giá kết quả học tập chủ yếu vào câu hỏi: Học sinh biết những gì? Và biết đến đâu? Hạn chế của xu hướng này là nội dung chương trình nặng nề, ôm đồm; học sinh biết nhiều nhưng làm không được bao nhiêu, thậm chí không biết làm, lúng túng trong việc ứng dụng, thực hành các kiến thức đã học trong đời sống. Chương trình theo định hướng tiếp cận năng lực tập trung vào hệ thống năng lực cần có ở mỗi người học. Năng lực (competency) được hiểu “là khả năng vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ và sự hứng thú để hành động một cách phù hợp và có hiệu quả trong các tình huống phong phú của cuộc sống” [48, 292 - 293]. Mục tiêu đánh giá kết quả học tập ở đây chủ yếu hướng vào kết quả đầu ra, nhằm trả lời câu hỏi: Học sinh biết làm gì? Và làm như thế nào? Theo định hướng này, học sinh không chỉ biết học thuộc, ghi nhớ mà còn phải biết làm thông qua các hoạt động cụ thể, sử dụng những tri thức học được để giải quyết các tình huống do cuộc sống đặt ra. Nói cách khác “học phải đi đôi với hành”, phải gắn điều được học với thực tiễn đời sống. Cũng như nhiều nước khác trên thế giới, giáo dục Việt Nam đang từng bước chuyển sang tiếp cận theo hướng phát triển năng lực. Tức là chú trọng hình thành những kĩ năng, năng lực cho người học và khả năng vận dụng kiến thức được học vào đời sống. Trong Định hướng phát triển chương trình giáo dục sau 2015, môn Ngữ văn được được xác định là một môn học công cụ mang tính thẩm mĩ, nhân văn, vừa có bản chất khoa học, vừa mang tính nghệ thuật. Theo đó, môn học này sẽ giúp học sinh hình thành và phát triển các năng lực chung (năng lực giao tiếp, năng lực 9 tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân) và các năng lực đặc thù (năng lực giao tiếp tiếng Việt và năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mỹ). Ngoài ra, môn Ngữ văn cũng góp phần hình thành và phát triển những phẩm chất thiết yếu cho người học như: sống yêu thương (yêu Tổ quốc; giữ gìn, phát huy truyền thống gia đình và giá trị các di sản văn hóa của quê hương, đất nước; tôn trọng các nền văn hóa thế giới; nhân ái, khoan dung; yêu thiên nhiên), sống tự chủ (trung thực, tự trọng, tự lực, chăm chỉ, vượt khó, tự hoàn thiện), sống trách nhiệm (tự nguyện chấp hành kỉ luật; tuân thủ pháp luật; bảo vệ nội quy, pháp luật). Những năng lực và phẩm chất ấy chỉ được hình thành và thể hiện qua các hoạt động thực tiễn. Vì thế, việc dạy văn không thể tách rời với thực tiễn đời sống. Hay nói cách khác, người dạy phải hướng dẫn học sinh tạo ra được những kết nối giữa văn học với đời sống của người học để từ đó góp phần hình thành những kĩ năng, năng lực và phẩm chất cần thiết cho các em. 2. Văn học và đời sống vốn có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau. Vòng đời của một tác phẩm văn học đó là "một vòng khép kín đan kết nhiều quá trình và nhiều quan hệ: cuộc sống - nhà văn - tác phẩm - bạn đọc - cuộc sống. Trong quá trình đi từ cuộc sống, trở về với cuộc sống, tác phẩm có những mối quan hệ máu thịt và tác động qua lại với bản thân cuộc sống, với nhà văn, với bạn đọc" [27, 177]. Văn học phản ánh, biểu hiện đời sống, là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” [32]. Khi tác phẩm văn học ra đời qua sự tiếp nhận của người đọc, nó lại tác động lại đời sống. Có thể nói, đời sống là điểm xuất phát, là nguồn cảm hứng và cũng là đích đến cuối cùng của văn học. Vì thế, trong dạy học đọc hiểu văn bản, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tạo ra những kết nối giữa văn học với đời sống để giúp các em có thể hình dung, tưởng tượng, cắt nghĩa, lí giải, đánh giá và hiểu sâu sắc hơn nội dung tư tưởng, giá trị, ý nghĩa của tác phẩm. Qua đó, hình thành và phát triển những năng lực và phẩm chất cần thiết cho học sinh, tăng cường khả năng vận dụng những kiến thức được học vào thực tiễn cuộc sống. 10 Như vậy, kết nối giữa văn học với đời sống đã trở thành một quan điểm dạy học đúng đắn, một định hướng quan trọng trong dạy học đọc hiểu các tác phẩm văn chương. Để tạo sự kết nối giữa văn học với đời sống cần phải có những biện pháp, cách thức cụ thể, linh hoạt, sáng tạo. 3. Tuy nhiên, việc kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu tác phẩm văn chương hiện nay còn nhiều bất cập. Trước hết, cả giáo viên và học sinh chưa ý thức đúng tầm quan trọng, ý nghĩa của việc kết nối văn học với đời sống nên nó chưa thực sự trở thành một hoạt động thường trực trong dạy học đọc hiểu văn bản văn chương. Câu hỏi kết nối thường được “gắn vào”, “gá vào” cuối bài cho đủ, cho có. Thứ hai, việc kết nối văn học với đời sống vẫn chủ yếu xuất phát từ giáo viên. Giáo viên yêu cầu học sinh kết nối những vấn đề trong tác phẩm với đời sống thông qua những câu hỏi gợi mở, gợi dẫn, liên hệ. Tức là học sinh chưa thực sự chủ động, tự giác tạo ra những kết nối, chưa tự phát hiện được những vấn đề, nội dung cần kết nối với đời sống trong tác phẩm. Thứ ba, các biện pháp, cách thức kết nối còn máy móc, cứng nhắc, chưa đa dạng, linh hoạt, sáng tạo, thậm chí nhiều khi không phù hợp với vấn đề cần kết nối, với đối tượng học sinh nên chưa lôi cuốn, hấp dẫn người học và chưa mang lại hiệu quả cao. Những điều đó đã dẫn tới hệ quả là làm cho khoảng cách giữa văn học và đời sống ngày càng xa; học sinh khó khăn trong hoạt động thâm nhập, chiếm lĩnh, đánh giá tác phẩm; các em chưa biết áp dụng những điều được học vào các tình huống của thực tiễn, chưa chuyển hóa được thông điệp nghệ thuật thành giá trị, kĩ năng sống cho mình nên không ít học sinh có tâm lí chán ghét, quay lưng lại với môn văn hoặc học văn chỉ để đối phó kiểm tra, thi cử. 4. Thực tế cho thấy trước đây, khoảng cách giữa văn học và đời sống còn quá xa. Chương trình môn Văn đã dừng lại quá lâu ở mốc năm 1975. Trong khi đó đời sống xã hội và con người luôn luôn biến động từng ngày từng giờ. Nhiều vấn đề thời sự của xã hội được đặt ra nhưng văn học dường như vẫn đang “say sưa” với 11 những chiến thắng của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Từ năm 2006, chương trình và SGK môn Ngữ văn THPT bắt đầu được đổi mới. Các tác phẩm văn học Việt Nam sau 1975 lần đầu tiên được có mặt trong SGK THPT. Các nhà biên soạn đã đưa vào chương trình và SGK một số tác phẩm, tác giả tiêu biểu như: các truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, Một người Hà Nội của Nguyễn Khải; tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng; các bài thơ Đàn ghi ta của Lorca của Thanh Thảo, Đò Lèn của Nguyễn Duy; bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường; kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ; … Riêng về truyện ngắn, SGK Ngữ văn 12 (Ban cơ bản và Ban nâng cao) đều lựa chọn hai tác phẩm để dạy học đọc hiểu là: Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, Một người Hà Nội của Nguyễn Khải. Đây là hai truyện ngắn tiêu biểu cho sáng tác sau 1975 với những đổi mới cả về đề tài, bút pháp, tư duy thẩm mĩ, điểm nhìn nghệ thuật. Hai nhà văn đều đã đề cập đến những câu chuyện đời thường đang diễn ra với tất cả tính chất bộn bề, phức tạp của nó, với những con người, những số phận dường như ở đâu đó quanh ta. Khi dạy học đọc hiểu các tác phẩm này, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh tạo ra những kết nối giữa những vấn đề, những nội dung được đề cập trong các tác phẩm với đời sống mà tác phẩm ra đời, với xã hội hiện nay, với những suy nghĩ, cảm nhận của học sinh để giúp các em vừa hiểu đúng, hiểu sâu sắc tác phẩm, vừa hình thành cho mình kĩ năng, thái độ sống đúng đắn. Từ những lí do trên nên chúng tôi đã quyết định lựa chọn đề tài Kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT để triển khai trong luận văn của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1. Những nghiên cứu về vấn đề kết nối văn học với đời sống Văn học và đời sống vốn có mối quan hệ mật thiết, gắn bó hữu cơ với nhau. Bởi vậy, khi nghiên cứu, tìm hiểu, tiếp nhận các tác phẩm văn học, chúng ta không thể không kết nối nó với đời sống. Trong lịch sử nghiên cứu văn học, đã có nhiều 12 cuốn sách, nhiều công trình của các học giả, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập đến mối quan hệ giữa văn học với đời sống và nguyên tắc dạy văn gắn với đời sống. Về mối quan hệ giữa văn học với đời sống, trước hết chúng ta phải kể đến cuốn Nghệ thuật với đời sống xã hội (1963) của tác giả Plêkhanốp. Trong cuốn sách này, tác giả đã phân tích những ảnh hưởng, tác động của đời sống đối với nghệ thuật, đã chỉ rõ sự phụ thuộc khăng khít giữa tính chất của sự cảm thụ thẩm mỹ của con người với tính chất của các điều kiện sinh hoạt, điều kiện sống của một xã hội nhất định. Ông viết: "Bản tính con người khiến họ có thể có những cảm giác và quan niệm thẩm mỹ. Những điều kiện sinh hoạt của họ cải biến những tiềm thế ấy thành hiện thực, chính là tùy theo các điều kiện ấy mà một con người xã hội nhất định (hoặc nói cho đúng hơn, một xã hội nào đó, một dân tộc nào đó, một giai cấp nào đó) có những thị hiếu và quan niệm thẩm mỹ này, chứ không phải là những thị hiếu và quan niệm thẩm mỹ khác". Ông đã làm rõ quan điểm của mình bằng những dẫn chứng cụ thể, chân thực và từ đó đi đến khẳng định: nghệ thuật (trong đó có văn học) bắt nguồn, nảy nở từ đời sống và chịu sự quy định của đời sống xã hội. Tiếp đó, với sự xuất hiện của G. Lukacs, lí luận văn học mác xít đã có thêm những công trình lí luận quan trọng nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và hiện thực đời sống. Tiếp thu những thành tựu triết học và mĩ học tư sản, Lukacs đã có cái nhìn sâu hơn, toàn diện hơn vào một số vấn đề lí luận văn học, nhất là vấn đề mối quan hệ giữa văn học và đời sống hiện thực. Xuất phát từ phản ánh luận của Lênin, Lukacs nhấn mạnh quan điểm văn học phản ánh hiện thực "bằng các hình thức của đối tượng". Ông khẳng định văn học nghệ thuật như là ý thức của sự phát triển nhân loại, và cũng như Plêkhanốp, ông luôn trung thành với quan điểm văn học nghệ thuật không tách rời đời sống xã hội. Tuy vậy, so với Plêkhanốp, Lukacs đã xác lập được hệ thống quan điểm mĩ học của mình về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực qua đặc trưng của phản ánh nghệ thuật. Trong khi Plêkhanốp cho rằng "muốn hiểu nghệ thuật phản ánh cuộc sống như thế nào thì cần phải hiểu cơ cấu của cuộc sống đó" thì Lukacs nhấn mạnh đến thế giới riêng của sáng tạo nghệ thuật, ông cho 13 rằng mọi tác phẩm nghệ thuật có giá trị đều tạo ra "thế giới riêng", các nhân vật, tình huống đều hoàn toàn khác với thực tế hàng ngày, thậm chí không giống với bất kì nhân vật, tình huống nào của tác phẩm khác. Lukacs chỉ ra rằng sự say mê của người tiếp nhận là sự say mê hoàn toàn vào đặc trưng của cái "thế giới riêng" của tác phẩm, do tác phẩm đã “phản ánh hiện thực trung thực hơn, hoàn thiện hơn, sinh động hơn cái mà người tiếp nhận có được về hiện thực”. Ở trong nước, đầu tiên phải kể đến cuốn Lí luận văn học, tập 1 do tác giả Phương Lựu chủ biên đã dành cả chương 2 để bàn về mối quan hệ giữa “văn học với hiện thực đời sống”. Vận dụng thuyết phản ánh luận của Lênin, các tác giả đã cho rằng “văn học cũng như nghệ thuật nói chung là lĩnh vực của tình cảm thẩm mĩ, nhưng vẫn là một loại hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội. Mối quan hệ giữa văn học với hiện thực là mối quan hệ giữa cái phản ánh và cái được phản ánh” [32, 80]. Hiện thực là nguồn gốc của nhận thức, của ý thức, cho nên “đời sống là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng nghệ thuật và đồng thời là cái chìa khóa giải thích được những hiện tượng phức tạp của nghệ thuật” [32, 80]. Các tác giả cũng đã đi sâu phân tích mối quan hệ giữa phản ánh với nhận thức, phản ánh với biểu hiện, phản ánh với sáng tạo, phản ánh với tác động. Từ đó cho thấy văn học không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn biểu hiện toàn bộ thế giới chủ quan của nhà văn, hay nói cách khác “văn học là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” [32, 91]. Văn học sáng tạo ra một thế giới mới trên cơ sở thế giới thực tại và nó góp phần “cải tạo và sáng tạo thế giới theo chiều hướng tiến lên” [32, 96]. Ở cuốn Văn học và cuộc sống (1996), trong lời mở đầu, tác giả Mai Thanh đã khẳng định: “Ý tưởng nổi bật và sâu đậm nhất (và đó là cơ sở cho sự hình thành tựa đề của cuốn sách này) là: cuộc sống và mối quan hệ giữa văn học với cuộc sống. Cuộc sống ở đây được hiểu theo nghĩa rộng nhất của khái niệm này” [43, 7]. Theo tác giả cuộc sống ấy là “lịch sử anh hùng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta gắn với những tấm gương anh hùng dân tộc, thông qua những hành động lập đức, lập công của họ và của toàn dân tộc; là việc trồng lúa truyền đời của người nông dân nước Việt”. Cũng theo tác giả, cuộc sống là cái có trước, văn học là 14 cái có sau, văn chương phải từ cuộc sống, thấu hiểu cuộc sống, chứ không được phép xuyên tạc cuộc sống. Tác giả Ngô Thảo, trong tiểu luận Văn học với đời sống - Đời sống với văn học (2000) đã đi phân tích mối quan hệ tác động qua lại giữa văn học với đời sống thực tại của đất nước sau năm 1975, đặc biệt từ sau công cuộc đổi mới năm 1986. Ông cho rằng: “Thực tiễn văn học đang cần đến một lớp tác giả khác xông xáo trên những vấn đề nóng hổi của cuộc sống khi một lớp đàn anh có chân tài đã phần nào mỏi mệt” [44, 89]. Văn học gắn bó mật thiết với đời sống. Vì thế, dạy học đọc hiểu các tác phẩm văn học, người dạy và người học không thể không tạo ra những kết nối, những sự gắn kết giữa văn học với đời sống. Đời sống ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng, đó là bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa mà tác phẩm ra đời, là đời sống tâm hồn của người học, là đời sống của xã hội thực tại. Theo cố giáo sư Phan Trọng Luận thực trạng đáng lo ngại của việc dạy học văn trong nhà trường là “sự khủng hoảng về nội dung chất lượng và phương pháp” [28, 87]. Trong đó, điều đáng lo đầu tiên là “khoảng cách ngày càng rộng giữa văn hóa ngoài xã hội với văn học trong nhà trường, giữa nội dung giảng dạy và tâm lí học sinh”. Tác giả cho rằng tâm lí học sinh ngày càng biến đổi “học sinh ngày nay dám biểu thị thái độ trực tiếp” trước những vấn đề của cuộc sống trong khi đó “nhiều vấn đề xã hội, chính trị, văn hóa nghệ thuật trong sách vở nhà trường quá ư cũ kĩ và xa lạ, cách bức với họ”. Hơn nữa, cuộc sống luôn biến đổi phức tạp trên mọi lĩnh vực càng làm lộ ra những hạn chế trong nội dung giảng dạy văn học của nhà trường. “Hố sâu ngăn cách ấy” đòi hỏi người giáo viên không thể làm ngơ được. Tác giả Lê Sử, trong bài viết Quan niệm dạy văn gắn với đời sống (qua chương trình và sách giáo khoa) đã phân tích sự thể hiện của quan niệm này qua các thời kì, giai đoạn khác nhau. Tác giả bài viết đã cho rằng, quan niệm dạy văn gắn với đời sống là quan niệm cơ bản của chương trình và SGK thời chống Mĩ. Bởi chương trình môn Văn, ngay từ đầu đã khẳng định: “Muốn phát huy chức năng của 15 văn học, giáo viên cần gắn liền việc giảng dạy văn học với đời sống”, “Gắn liền giảng dạy văn học với đời sống là từ cuộc sống trong tác phẩm làm cho học sinh hiểu rõ con người thực tế bên ngoài, trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai, lấy cái mới soi cái cũ, lấy cái cũ soi cái mới” (Bộ giáo dục, 1965). Đồng thời có thể vận dụng những hiểu biết ngoài xã hội để cảm thụ, lí giải đời sống trong tác phẩm văn học. Dạy văn gắn với đời sống được đẩy lên tới tận cùng, trở thành biểu hiện cao nhất của việc độc tôn phương pháp xã hội học, phủ nhận mọi phương pháp cũng như hướng tiếp cận khác. Hậu quả là sự xóa nhòa ranh giới giữa văn chương với cuộc đời, xem tác phẩm chỉ là một thứ tài liệu ghi chép, chụp ảnh nguyên xi đời sống. Lối tiếp cận dung tục đối với tác phẩm càng trở nên phổ biến. PGS.TS Nguyễn Viết Chữ trong cuốn Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường cho rằng: Để tiến hành đổi mới dạy học Ngữ văn, “chúng ta cần tôn trọng những nguyên tắc dạy học văn hiện đại” [6, 65] và dạy văn gắn với đời sống tinh thần của dân tộc và nhân loại là một trong năm nguyên tắc đó. Ngoài ra, trong một số luận văn, khóa luận cũng đã phần nào bàn đến việc dạy học tác phẩm văn học gắn với đời sống như: Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Thu Huyền (ĐHSPHN 2) Đọc hiểu văn bản “Vội vàng” (Xuân Diệu) gắn liền với đời sống thực tiễn (2013); Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Phương Chúc (ĐHSPHN 2) Đọc hiểu văn bản “Nhàn” (Nguyễn Bỉnh Khiêm) gắn liền với đời sống thực tiễn (2014), … Nhìn chung, trong các tài liệu, các công trình nghiên cứu, các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc khẳng định sự cần thiết của việc dạy văn gắn với đời sống còn gắn kết văn học với đời sống như thế nào, có những biện pháp, cách thức nào có thể tạo ra sự kết nối ấy, … thì đó vẫn là một vấn đề còn bỏ ngỏ. 2.2. Những nghiên cứu về dạy học truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 ở THPT Sự xuất hiện của mảng văn học Việt Nam sau 1975 nói chung, trong đó có truyện ngắn nói riêng trong Chương trình và SGK Ngữ văn THPT là một sự thay đổi theo chiều hướng tích cực để việc dạy học văn từng bước bắt nhịp với sự vận 16 động của đời sống, góp phần rút ngắn khoảng cách giữa văn học nhà trường và cuộc sống. Bởi thế, những truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 và việc dạy học các tác phẩm này luôn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Do giới hạn của đề tài, ở đây, chúng tôi chủ yếu tìm hiểu những công trình liên quan đến việc giảng dạy hoặc có tác dụng định hướng cho việc dạy học những truyện ngắn này. Cho tới nay đã có rất nhiều cuốn sách, công trình nghiên cứu của các tác giả, các nhà phê bình văn học, hàng trăm bài báo, khóa luận, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ thuộc các chuyên ngành văn học đã nghiên cứu, khái quát, tổng hợp về những đặc điểm, những đổi mới, những thành tựu và đóng góp của văn học sau 1975, tạo cơ sở cho việc dạy học thể loại truyện ngắn. Trước tiên phải kể đến cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy của tác giả Nguyễn Văn Long và Lã Nhâm Thìn đồng chủ biên (Nxb Giáo dục, 2006). Cuốn sách là tập hợp những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong cả nước tham dự Hội thảo khoa học kỉ niệm 30 năm văn học Việt Nam sau 1975, do trường ĐHSPHN tổ chức. Cuốn sách đã góp phần khẳng định những kết tinh, định hình những giá trị của văn học Việt Nam trong thời kì đổi mới và hội nhập. Từ đó, các tác giả đã đưa ra một số lưu ý khi dạy học các tác phẩm sau 1975 trong nhà trường phổ thông có giá trị định hướng cho người dạy và người học. Giáo trình Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 (PGS Nguyễn Văn Long chủ biên, Nxb ĐHSP, 2006) đã dành những trang đánh giá rất cao cho những nỗ lực cách tân mang ý nghĩa đột phá của thể loại truyện ngắn trên con đường hiện đại hóa: “Cảm tưởng của số đông độc giả rằng truyện ngắn tập trung được nhiều nhất những yếu tố có tính cách tân trong văn xuôi thời đổi mới, và nhiều kết tinh nghệ thuật hơn hẳn so với các thể loại khác là có cơ sở. Với truyện ngắn, văn học Việt Nam đang tiệm cận văn học đương đại thế giới ở tư duy thể loại”. 17 Bên cạnh đó, không thể không kể đến chuyên luận Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 của tác giả Nguyễn Thị Bình (Nxb ĐHSP, 2007). Đây là một trong những công trình có ý nghĩa tổng kết những thành tựu cách tân quan trọng nhất của văn xuôi Việt Nam khoảng 20 năm sau 1975, trong tương quan so sánh với văn xuôi Việt Nam thời kì 1945 – 1975. Những đổi mới căn bản của văn xuôi (trong đó có truyện ngắn) thời kì này được tác giả nhận diện trên ba bình diện cơ bản: Đổi mới quan niệm nhà văn, quan niệm nghệ thuật về con người và những cách tân nổi bật trên bình diện thể loại. Chuyên luận không chỉ giúp người đọc nhận diện được sự vận động trong ý thức nghệ thuật của người cầm bút mà còn góp phần khẳng định những tên tuổi, những tài năng trong văn xuôi trong giai đoạn này. Tác giả Bùi Việt Thắng dành sự quan tâm đặc biệt đến thể loại truyện ngắn, với hai cuốn sách Bình luận truyện ngắn (Nxb Văn học, 1999) và Truyện ngắn – Những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại (Nxb Đại học Quốc gia, 2000). Ngoài việc trình bày một cách có hệ thống những vấn đề lí thuyết về thể loại truyện ngắn, giới thiệu ý kiến của nhiều nhà văn về thể loại này, tác giả đã phác họa diện mạo của truyện ngắn hiện đại Việt Nam và phê bình một số tác giả, tác phẩm truyện ngắn tiêu biểu, chủ yếu từ thời kì đổi mới (Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Minh Khuê, …) Dạy học truyện ngắn sau 1975 ở THPT cũng là đề tài thu hút nhiều tác giả, nghiên cứu sinh, học viên và sinh viên các trường đại học. Có thể kể ra như: Luận án TS Dạy học truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở trường Phổ thông của Đặng Thị Mây (ĐHSPHN, 2010); Luận văn Phương hướng dạy học văn xuôi Việt Nam sau 1975 trong nhà trường phổ thông của Hoàng Quỳnh Liên (ĐHSPHN, 2006); Luận văn Hình thức các cuộc giao tiếp văn học trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT của Nguyễn Thị Thu (ĐHSPHN, 2011); Luận văn Sử dụng tình huống dạy học trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu của Nguyễn Thị Minh Hà (ĐHSPHN, 2014); Luận văn Vận dụng chiến thuật đọc suy luận vào dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT của Lê Thị 18 Hồng (ĐHSPHN, 2014); Luận văn Biện pháp tổ chức hoạt động hợp tác trong dạy học truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu của Đỗ Thị Kim Thoa (ĐHSPHN, 2014); Luận văn Dạy học truyện ngắn “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải ở trường THPT nhằm phát triển năng lực học sinh của Đinh Thị Thùy Linh (ĐHSPHN, 2015)… Bên cạnh đó là những khóa luận tốt nghiệp như: Khóa luận Thiết kế thử nghiệm bài dạy học tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” theo hướng tiếp cận quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu của Trần Thị Lan Phương (ĐHSPHN, 2003); Khóa luận Hướng dẫn học sinh tiếp nhận truyện ngắn “Một người Hà Nội” theo hướng tiếp cận quan niệm nghệ thuật về con người của Lê Thị Xuân (ĐHSPHN, 2004); Khóa luận Dạy học “Chiếc thuyền ngoài xa” theo hướng đối thoại của Ngô Phương Uyên (ĐHSPHN, 2009);… Nhìn chung, các tác giả đã đưa ra những phương pháp, biện pháp, chiến thuật có tính chất thử nghiệm để dạy học các tác phẩm truyện ngắn sau 1975 nhằm mục đích vừa phát huy được vai trò trung tâm của người học, vừa đem lại hiệu quả giảng dạy cao. Tuy nhiên, dạy học truyện ngắn Việt Nam sau 1975 theo hướng kết nối văn học với đời sống là một vấn đề còn khá mới mẻ. Vì thế, trong luận văn của mình, tôi mạnh dạn triển khai hoạt động kết nối các tác phẩm này với đời sống với hi vọng rằng sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu nhằm mục đích khẳng định ý nghĩa của việc kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT, chỉ ra được những cách thức kết nối văn học với đời sống. Qua đó, phát triển năng lực đọc hiểu văn bản của học sinh, bồi dưỡng phẩm chất, kĩ năng sống cho người học. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu hoạt động kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau: 19 - Tìm hiểu, xây dựng cơ sở lí luận của hoạt động kết nối văn học với đời sống trong dạy học tác phẩm văn chương nói chung, dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT nói riêng. - Tìm hiểu thực trạng kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT. - Đề xuất một số biện pháp, cách thức để tạo ra kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT. - Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng các biện pháp đã đề xuất. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Hoạt động kết nối văn học với đời sống trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Truyện ngắn Việt Nam sau 1975, tập trung vào các tác phẩm được dạy học ở trường THPT (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu, Một người Hà Nội – Nguyễn Khải) và hoạt động dạy học đọc hiểu các tác phẩm này. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, người viết đã sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau: 5.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp lí luận - Tổng hợp, hệ thống các kiến thức lí luận về kết nối văn học với đời sống để vận dụng vào hoạt động kết nối văn học với đời sống trong dạy học truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở THPT. - Nghiên cứu về đọc hiểu tác phẩm văn chương nói chung, đọc hiểu truyện ngắn nói riêng, từ đó làm cơ sở cho hoạt động đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975. 5.2. Phương pháp điều tra, thống kê, khảo sát 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan