Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ chủ chốt ở tỉnh an giang h...

Tài liệu Luận văn nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ chủ chốt ở tỉnh an giang hiện nay

.PDF
96
550
125

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI KHOA TRIẾT HỌC NGUYỄN TẤN RẠNG N¢NG CAO N¡NG LùC QU¶N Lý CHO C¸N Bé CHñ CHèT ë TØNH AN GIANG HIÖN NAY Chuyên ngành: Triết học Mã số: LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Văn Cư 2 Bản đồ hành chính tỉnh An Giang 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thứ nhất, những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến đổi. Xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra một cơn lốc cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia khác không thể đứng ngoài dòng chảy này. Kinh tế thị trường là điều kiện kích thích tăng năng suất lao động không ngừng. Sự tìm tòi, sáng tạo của cá nhân luôn được khuyến khích. Chính điều này đòi hỏi mỗi người phải học tập, rèn luyện tay nghề, rèn luyện bản thân. Kinh tế thị trường cũng rất nghiêm khắc đào thải những trì trệ, sự lạc hậu, lỗi thời của con người và các sản phẩm yếu kém về nội dung cũng như hình thức. Về phương diện đạo đức, lối sống, sự ảnh hưởng tích cực của kinh tế thị trường từng bước hình thành nhân cách tự chủ, tự lập trong con người, rèn luyện con người ý thức lao động, bản lĩnh, năng động, thích nghi, sáng tạo. Và những phẩm chất đạo đức về ý chí, lòng dũng cảm, nghĩa vụ, tính nguyên tắc và tự trọng ở mỗi con người cũng như cả cộng đồng. Mặt khác, trong kinh tế thị trường phải đề phòng khuynh hướng, lối sống chạy theo đồng tiền. Kinh tế thị trường có khuynh hướng mở rộng các nguyên tắc trao đổi thị trường ra tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đời sống cá nhân, đời sống cộng đồng, có khuynh hướng làm cho người ta coi giá trị thị trường là giá trị chân thực duy nhất dùng để đo các giá trị khác. Do đó, kinh tế thị trường với những ưu điểm và mặt trái của nó, có ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống vật chất và tinh thần, đến việc nâng cao năng lực quản lý của người cán bộ chủ chốt nói chung và cán bộ chủ chốt tỉnh An Giang nói riêng. Thứ hai, Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới nhằm mục tiêu sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Muốn thực hiện được mục tiêu này, cần huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước. Trong đó, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đến 4 vấn đề nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt nói chung và cán bộ chủ chốt tỉnh An Giang nói riêng. Đảng ta nhận định: Chúng ta phải coi trọng công tác xây dựng và nâng cao năng lực cán bộ, đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng cán bộ lãnh đạo cấp cao. Thứ ba, quản lý nhà nước là một hoạt động phức tạp, Nhà nước là cơ quan quyền lực của quốc gia. Quản lý nhà nước chính là quyền được ra các quyết định về quản lý xã hội và quyền quyết định những vấn đề phát triển đất nước, phát triển xã hội, phát triển con người. Vì vậy, đòi hỏi nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt ở tỉnh An Giang vừa mang tính khách quan tất yếu cũng là yêu cầu của thời đại. Ngày nay, đất nước đang bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều này đòi hỏi cán bộ chủ chốt phải nỗ lực phấn đấu đem hết tài năng, sức lực phục vụ Tổ quốc. Bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu quả. Muốn vậy phải có một đội ngũ cán bộ công chức có trình độ cao, có phẩm chất chính trị vững vàng, năng động sáng tạo, có khả năng hội nhập cao. Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ chủ chốt là yêu cầu sống còn của mọi cơ quan, tổ chức nhà nước và là mối quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước ta. Tuy nhiên, chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật, hiện nay có một số cán bộ chủ chốt nói chung, cán bộ chủ chốt ở tỉnh An Giang nói riêng chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt ở tỉnh An Giang là một vấn đề hết sức quan trọng và cấp thiết. Thứ tư, An Giang thuộc vùng Đồng Bằng sông Cửu Long với diện tích 3536.7 km², Phía Đông và Phía Bắc giáp tỉnh Đồng Tháp gần 107,628 km², đứng thứ 4 trong khu vực Đồng Bằng sông Cửu Long về diện tích (sau tỉnh Kiên Giang, Cà Mau và Long An), phía Tây Bắc giáp Campuchia với đường biên giới dài gần 100 km, Phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang với đường biên giới khoảng 69,789 km về phía Đông Nam, giáp thành phố Cần Thơ với chiều dài 5 đường biên giới gần 44,734 km. Với vị trí đó, An Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, trong năm có 2 mùa rõ rệt, gồm mùa mưa và mùa khô. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 27 độ C, lượng mưa trung bình năm khoảng 1.130 mm. Độ ẩm trung bình 75 - 80%, khí hậu cơ bản thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Tính đến năm 2014, dân số toàn tỉnh là 2.151.000 người, mật độ dân số 608 người/km². Đây là tỉnh có dân số đông nhất khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Toàn tỉnh có 24.011 hộ dân tộc thiểu số, với 114.632 người, chiếm 5,17% tổng dân số toàn tỉnh. Đứng trước yêu cầu của thời kỳ hội nhập, Đảng bộ và nhân dân tỉnh An Giang đặc biệt quan tâm đến vấn đề nâng cao năng lực tổ chức quản lý cho cán bộ chủ chốt. Nhưng trong các chủ trương, chính sách của Đảng và chính quyền địa phương cũng gặp nhiều thuận lợi và thách thức trong việc nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt. Điều này thôi thúc tôi đi sâu nghiên cứu vấn đề trên. Với những lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt tỉnh An Giang hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thứ nhất, những đề tài nghiên cứu về năng lực, năng lực quản lý của cán bộ và cán bộ chủ chốt Trong những năm gần đây, đã có nhiều những công trình nghiên cứu về công tác của cán bộ, năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt. Các nghiên cứu đề cập về vấn đề này ở cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành, các không gian và thời gian khác nhau. Trong đó, có nhiều công trình những đóng góp, kiến giải sâu sắc, giá trị thực tiễn cao. Tiêu biểu có thể kể đến các công trình nghiên cứu như: Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Nguyễn Phú Trọng, 6 Trần Xuân Sầm (chủ biên), đã nghiên cứu và đưa ra những kết luận tổng hợp thành công trình. Trong đó, tác giả tập trung làm rõ những vấn đề về lý luận và phương pháp cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Đồng thời, nhóm tác giả còn có sự công phu trong việc phân tích và nhìn lại những kinh nghiệm về xây dựng đội ngũ cán bộ của nước ta và các nước khác trên thế giới. Tuy nhiên, vấn đề nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ lại chưa được đề cập một cách sâu sắc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ với việc nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Thanh Hóa hiện nay của Bùi Khắc Hằng, luận văn thạc sĩ khoa học chính trị (2004). Trong bài viết, tác giả đã làm rõ vai trò, vị trí, ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ đối với việc nâng cao năng lực đội ngũ lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay. Đồng thời, trên cơ sở đó, luận văn cũng đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ này. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Phú Thọ của Phạm Thị Thu Vinh, luận văn thạc sĩ quản lý nhà nước, 2003, Hà Nội. Công trình đã khái quát thực trạng và chỉ ra tầm quan trọng việc nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Trên cơ sở chỉ ra thực trạng và tìm ra nguyên nhân, tác giả luận văn cũng đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ trên địa bàn tỉnh. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ hiện nay của Nguyễn Thị Hậu, luận văn thạc sĩ luật (2004), Hà Nội. Tác giả công trình đã nghiên cứu và chỉ ra khái quát, khách quan thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Phú Thọ hiện nay. Trên cơ sở đó, người viết làm rõ tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã và đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm làm tốt công tác này. Đi vào thế kỷ XXI phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ CNHHĐH đất nước của Phạm Minh Hạc, Tạp chí Lao động - Xã hội, số 215, năm 2003. 7 Tác giả đã làm rõ hiện trạng của nguồn nhân lực nước ta và sự cần thiết của việc phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Kết hợp giáo dục lý luận với giáo dục lý tưởng đạo đức cho sinh viên hiện nay của Nguyễn Ngọc Thu, Tạp chí Cộng sản số 92 năm 2005. Tác giả bài viết đã đánh giá một cách khách quan những giá trị và hạn chế của nền kinh tế thị trường. Đồng thời, chỉ ra tầm quan trọng của việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho sinh viên. Trên cơ sở đó, người viết đề xuất những giải pháp quan trọng nhằm thực hiện công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên bằng việc kết hợp lý luận và giáo dục. Xây dựng lối sống văn hoá cho thanh niên hiện nay của Nguyễn Thị Mỹ Trang, Tạp chí Cộng sản số 06 năm 2006. Bài viết đã chỉ ra một cách khách quan, trung thực thực trạng lối sống của thanh niên hiện nay. Trên cơ sở đó, để xây dựng nếp sống có văn hóa cho thanh niên, người viết đã đề xuất những giải pháp cụ thể, thiết thực và có ý nghĩa. Về tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới, của Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 3 năm 2007. Bài viết đã chỉ rõ tính quy luật, tính tất yếu của sự cần thiết phải xây dựng hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới cho con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu thời đại mới. Thông qua việc phân tích, người viết khẳng định cần xây dựng hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới cho con người mới - con người xã hội xã hội chủ nghĩa. Kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam của tác giả Cao Thị Hằng, luận án tiến sĩ năm 2001. Luận án góp phần làm sáng tỏ vai trò của đạo đức truyền thống trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Đồng thời, cũng làm rõ những thực trạng kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp để kế thừa các giá trị đạo đức trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam được tốt hơn. 8 Quan hệ biện chứng giữa thống nhất và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay của Lê Thị Hoài Thanh, luận án tiến sĩ, 2003, Hà Nội. Luận án đã làm rõ mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong sự phát triển đạo đức, vận động mối quan hệ này vào hoạt động giáo dục đạo đức cho thanh niên, trên cơ sở đó, đề xuất một số hướng và giải pháp chủ yếu kết hợp truyền thống và hiện đại nhằm xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam của Lê Thị Ngân, luận án tiến sĩ kinh tế chính trị xã hội chủ nghĩa, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2004. Nghiên cứu đã khái quát lý luận về nguồn nhân lực, các yếu tố cấu thành nguồn nhân lực và vai trò của nó trong sự phát triển kinh tế - xã hội, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, rút ngắn, tiếp cận kinh kinh tế tri thức để hệ thống hóa thành hệ thống lý luận. Thứ hai, những nghiên cứu về nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt ở tỉnh An Giang Trong những năm qua, tỉnh An Giang rất quan tâm tới vấn đề nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ chủ chốt. Nhiều chỉ thị, quy định được ban hành và nhiều kỳ cuộc được tổ chức hiệu quả nhằm nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt. Ngày 28-9-2016, huyện Phú Tân phối hợp với Trường Chính trị Tôn Đức Thắng tổ chức Hội thảo khoa học đóng góp đề tài Xây dựng phong cách làm việc cho đội ngũ cán bộ ở cấp xã, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang giai đoạn hiện nay. Đề tài đã làm rõ tính cấp thiết của việc xây dựng phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ cấp xã ở huyện Phú Tân, phương hướng và các giải pháp thực hiện nhằm đem lại hiệu quả công tác này. Ngày 05-9-2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 26/CT-TTg về Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy An Giang đăng toàn văn Chỉ thị, đồng thời nghiêm túc hướng dẫn cán bộ cấp cơ sở nội dung của chỉ thị này. 9 Huyện Tân Châu phát động Hưởng ứng tuần lễ học tập suốt đời. Trong đó, có các hoạt động cụ thể, các cơ sở giáo dục thu thập nguồn tài nguyên điện tử, sách, báo... làm tư liệu cho việc dạy và học. Sáng ngày 30/9/2016, Thủ tướng Chính Phủ Nguyễn Xuân Phúc chủ trì Hội nghị trực tuyến toàn quốc về triển khai chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020. Dự điểm cầu An Giang có Bí thư Tỉnh ủy Võ Thị Ánh Xuân; Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Quang Thi, cùng thành viên Ban Chỉ đạo Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới tỉnh, các huyện, thị, thành phố, xã, phường… Những tài liệu trên đã nghiên cứu về năng lực, năng lực quản lý và nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt ở nhiều góc độ, đối tượng khác nhau. Đây là nguồn tư liệu quý báu để tác giả có cơ sở nghiên cứu. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu vấn đề nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt tỉnh An Giang trong bối cảnh toàn cầu hóa một cách hệ thống, chuyên sâu, độc lập và đưa ra giải pháp thiết thực. Đây thực sự là một vấn đề cấp thiết và có giá trị lý luận cũng như giá trị thực tiễn, đòi hỏi phải nghiên cứu và làm rõ trên cơ sở triết học. 3. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn của việc nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt ở tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay, cần đề xuất giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt đáp ứng yêu cầu thực tiễn ở tỉnh An Giang. 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu Khách thể nghiên cứu là năng lực quản lý của cán bộ chủ chốt ở tỉnh An Giang. Đối tượng nghiên cứu là nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt ở tỉnh An Giang hiện nay. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 10 - Làm rõ một số khái niệm công cụ, như: cán bộ, cán bộ chủ chốt, năng lực, năng lực quản lý... - Đánh giá tầm quan trọng và mục tiêu cụ thể của việc nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt ở tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay. - Đánh giá thực trạng của việc nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay. - Nêu lên một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt ở tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay một cách hiệu quả. 6. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài là nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt ở tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay (tính từ Đại hội Đảng lần thứ VI, năm 1986 cho đến nay). 7. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản, như: phương pháp phân tích, tổng hợp; lôgic, lịch sử; khái quát hoá; thống kê... để thực hiện mục đích và nhiệm vụ đề tài đặt ra. 8. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương 6 tiết. 9. Đóng góp mới của tác giả - Luận văn đã phân tích làm rõ tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt tỉnh An Giang. 11 - Luận văn đánh giá trung thực, khách quan thực trạng năng lực quản lý và việc nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt ở tỉnh An Giang hiện nay với hai góc nhìn: thành tựu và hạn chế. - Luận văn mạnh dạn đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt ở tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay một cách hiệu quả. - Luận văn là tài liệu phục vụ cho những người nghiên cứu về phát triển năng lực cho cán bộ, về Nhân học, về lịch sử tư tưởng... 12 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC QUẢN LÝ CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT Ở TỈNH AN GIANG HIỆN NAY 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của cán bộ chủ chốt 1.1.1.1. Khái niệm cán bộ, cán bộ chủ chốt Khái niệm cán bộ Từ “cán bộ” được hiểu theo nhiều cách khác nhau trong từng giai đoạn lịch sử. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, từ “cán bộ” được dùng nhiều trong quân đội để phân biệt giữa chiến sĩ với cán bộ. Nó dùng để chỉ một lớp những người là chiến sĩ cách mạng, lớp người mới, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hi sinh, gắn bó với Nhân dân, phục vụ cho sự nghiệp cao cả giành độc lập, tự do cho dân tộc. Lúc này, từ “cán bộ” được dùng để chỉ những người chỉ huy từ cấp phó trở lên. Dần dần, từ cán bộ được dùng để chỉ những người hoạt động kháng chiến thoát li để phân biệt với nhân dân. Ngày nay, khái niệm cán bộ có thể hiểu theo: Thứ nhất, trong tổ chức đảng và đoàn thể, từ “cán bộ” được dùng với hai nghĩa: một là, những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở đến trung ương để phân biệt với đảng viên thường, đoàn viên và hội viên; hai là, những người làm công tác chuyên trách, có biên chế và được hưởng lương trong các tổ chức đảng, đoàn thể. Thứ hai, trong quân đội, để chỉ những người chỉ huy từ tiểu đội trở lên và sĩ quan từ cấp úy trở lên. Thứ ba, trong hệ thống nhà nước, từ “cán bộ” được hiểu cơ bản giống như công chức, chỉ những người làm việc trong cơ quan nhà nước, thuộc ngành hành 13 chính, tư pháp, kinh tế, văn hóa - xã hội. Đồng thời, cán bộ cũng được hiểu là những người có chức vụ chỉ huy, lãnh đạo. Ngày 13-01-2008, tại kỳ họp Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Cán bộ, công chức, có hiệu lực từ ngày 01-01-2010. Tại khoản 1 điều 4 quy định: Cán bộ là những người công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm, giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, thành phố trực thuộc Trung ương, ở tỉnh, huyện, quận, thị xã thành phố trực thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Như vậy, dù có nhiều cách hiểu khác nhau về từ cán bộ, tuy nhiên, về cơ bản, ta có thể có quan niệm như sau: Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò, cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức. Họ là những người trong biên chế nhà nước, làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị, xã hội, các doanh nghiệp nhà nước, các lực lượng vũ trang nhân dân từ Trung ương đến địa phương và cơ sở. Khái niệm cán bộ chủ chốt Khái niệm “cán bộ chủ chốt” là những người có chức vụ, nắm giữ các vị trí quan trọng, có tác dụng làm nòng cốt trong các tổ chức thuộc bộ máy của một cấp nhất định, người được giao đảm đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo, quản lý, điều hành bộ máy thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, chịu trách nhiệm trước cấp trên về lĩnh vực công tác được giao. Cán bộ chủ chốt có những đặc trưng cơ bản như sau: Một là, cán bộ chủ chốt là người có vị trí quan trọng, giữ vai trò quyết định trong việc xác định phương hướng, mục tiêu, phương pháp công tác đề ra những 14 quyết định và tổ chức thực hiện tốt các quyết định của cấp trên và cấp nơi công tác. Kiểm tra, giám sát, kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, bổ sung, điều chỉnh kịp thời những giải pháp mới khi cần thiết, đúc kết kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận. Đồng thời, cán bộ chủ chốt còn là những người tạo dựng và duy trì sự đoàn kết, tập hợp, phát huy sức mạnh của quần chúng Nhân dân, thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và xây dựng nội bộ tổ chức vững mạnh. Có thể nói, đây là lực lượng nòng cốt nhất trong đội ngũ cán bộ, là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của cả hệ thống chính trị. Hai là, khi xác định cán bộ chủ chốt cần đặt cán bộ trong một tổ chức nhất định, dựa vào các chức trách cụ thể của mỗi cán bộ và đặt trong toàn bộ hệ thống tổ chức cụ thể. Đội ngũ cán bộ chủ chốt là những người đứng đầu, quan trọng nhất trong hệ thống bộ máy đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang, mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, có tác dụng chính, chi phối việc chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước thông qua việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội trên địa bàn nơi họ phụ trách. Ba là, đội ngũ cán bộ chủ chốt hiện nay bao gồm: Bí thư cấp ủy, Chủ tịch hội đồng nhân dân, Chủ tịch ủy ban nhân dân, Trưởng công an, Chỉ huy trưởng quân sự, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, Bí thư Đoàn thanh niên, Chủ tịch Hội nông dân, Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ, Chủ tịch Hội cựu chiến binh các cấp. 1.1.1.2. Vai trò, vị trí của cán bộ chủ chốt Vai trò của cán bộ chủ chốt Luận bàn về vai trò của cán bộ lãnh đạo, C.Mác và Ph.Ăngghen là người đầu tiên nêu ra quan điểm khoa học về cán bộ. Hai ông đưa ra quan điểm muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng thực tiễn. Theo quan điểm của hai ông, cán bộ là những người tiêu biểu cho phong trào cách mạng, có tri thức và trình độ nhận thức cao, biết vận dụng lý luận cách mạng 15 với thực tiễn để tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng, lãnh đạo quần chúng thực hiện cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng. Họ phải là những người tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, của Nhân dân lao động, có trách nhiệm cao, có sự tin tưởng của quần chúng Nhân dân và được quần chúng Nhân dân noi theo. Kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng của các nhà mácxít về Đảng của giai cấp công nhân, V.I.Lênin đã đưa ra quan điểm quan trọng về cán bộ. Theo ông, vai trò của quan trọng của đội ngũ cán bộ, trước hết là ở chỗ đảm bảo tổ chức thắng lợi đường lối chính trị của Đảng. Bởi vì, họ vừa là người xây dựng đường lối chính, vừa tiến hành lựa chọn phương pháp chỉ đạo, tổ chức thực hiện và kiểm tra quá trình vận động cách mạng, hướng tới mục tiêu đã đề ra. Do vậy, Lênin cũng rất đề cao vai trò rèn luyện, đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn đề bạt cán bộ vào các cương vị công tác, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của họ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, vai trò của người cán bộ chủ chốt được thể hiện trong bốn mối quan hệ: cán bộ với đường lối chính sách, cán bộ với tổ chức, cán bộ với công việc và cán bộ với quần chúng. Trong quan niệm của người, cán bộ không chỉ là người vạch ra đường lối mà còn có vai trò quyết định trong việc tổ chức thực hiện đường lối. Người nói: “Cán bộ là người đem chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được” [54, tr.54]. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn yêu cầu cán bộ phải sâu sát quần chúng, nắm bắt kịp thời và phản ánh tình hình đời sống, tâm tư nguyện vọng của Nhân dân với Đảng và Nhà nước để quyết định đường lối, chủ trương, chính sách hợp lòng dân. Người chỉ rõ: “Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ quần chúng mà ra và phải trở lại nơi quần chúng [54, tr.290]. Người kết luận: “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [54, tr.273]. Như vậy cán bộ chủ chốt là “cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, là nhân tố quyết định 16 đến sự thành bại của cách mạng. Người yêu cầu mỗi cán bộ phải là người lãnh đạo, dẫn dắt quần chúng Nhân dân thực hiện tốt mục tiêu, lý tưởng của Đảng, là người tận tụy phục vụ nhân dân, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Trong di chúc, Người còn căn dặn Đảng ta rằng: mỗi đảng viên, cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là đầy tớ trung thành của nhân dân. Cán bộ chủ chốt là người giữ vị trí hết sức quan trọng đối với cơ quan tổ chức. Cán bộ là thành viên, phần tử cấu thành tổ chức bộ máy. Cán bộ có quan hệ mật thiết với tổ chức và quyết định mọi sự hoạt động của tổ chức. Hiệu quả hoạt động trong tổ chức bộ máy phụ thuộc vào cán bộ. Cán bộ tốt sẽ làm cho bộ máy hoạt động nhịp nhàng, cán bộ kém sẽ làm cho bộ máy tê liệt, “cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu có dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt” [54,Tr.54]. Vị trí của cán bộ chủ chốt: Cán bộ chủ chốt vừa là người đại diện Nhà nước, vừa là người đại diện cộng đồng, vừa là người dân, vừa là người gần gũi dân, sát dân nhất, cho nên họ là người trực tiếp nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của quần chúng Nhân dân để phản ánh lên các cấp chính quyền nhằm điều chỉnh và đưa ra những chính sách đúng. Trên thực tế, ở đâu mà cán bộ chủ chốt gần dân, hiểu dân, nắm bắt kịp thời tâm tư nguyện vọng của Nhân dân thì ở đó các cấp chính quyền sẽ đề ra những chính sách đúng đắn và hợp lý. Ngược lại, ở đâu mà cán bộ quan liêu xa dân, hách dịch, cửa quyền thì sẽ đề ra những chính sách không hợp lý, thậm chí là sai lầm gây ảnh hưởng nghiêm trọng. Cán bộ chủ chốt còn là người trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước cho Nhân dân. Đồng thời vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chính sách pháp luật đó trong cuộc sống. Cán bộ 17 chủ chốt còn là người trực tiếp giải quyết những yêu cầu, những thắc mắc về lợi ích chính đáng của Nhân dân, phát triển kinh tế xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo điều kiện phát huy tính tự quản trong cộng đồng dân cư. Hơn thế nữa, đây là đội ngũ quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển, phồn thịnh của địa phương, từ đó, mở rộng ảnh hưởng đến toàn đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng ta luôn chú trọng và đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với đòi hỏi của từng thời kỳ cách mạng, đó chính là mọi nhân tố quyết định thành công của cách mạng Việt Nam, của sự phát triển và thịnh vượng của đất nước. Đảng ta xác định: “Phải có một đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực xây dựng đường lối chính trị đúng đắn, đó là vấn đề cốt tử của lãnh đạo, là sinh mệnh của Đảng cầm quyền” [11, tr.27]. Trong công cuộc đổi mới, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta nhấn mạnh vai trò của cán bộ trong việc thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Một địa phương và mở rộng ra là đất nước có được phát triển, phồn thịnh hay không, một phần quan trọng không thể thiếu được đó là cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt. Do vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần nhận thức rõ được vai trò, tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức nói chung và đạo đức mới nói riêng cho cán bộ chủ chốt. Như vậy, cán bộ chủ chốt là bộ phận quan trọng nhất trong bộ máy lãnh đạo, giữ vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sự ổn định và phát triển của các cấp. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã xác định nông nghiệp là lĩnh vực hàng đầu, là khâu đột phá, vì vậy, đội ngũ cán bộ chủ chốt lại càng có vai trò quan trọng. Bởi vì, đây là đội ngũ giữ vai trò là lực lượng chủ yếu nhất điều hành hoạt động của bộ máy tổ chức ở các cấp, đồng thời là người trực tiếp lãnh đạo, tổ chức thực hiện mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội. Đội ngũ cán bộ chủ chốt có tầm quan trọng đặc biệt ở nhiều mặt và là một trong 18 những nhân tố có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự thành bại của công cuộc đổi mới và phát triển nông thôn mới ở các địa phương. Để có được thành công thì một trong những yếu tố không thể thiếu, đó năng lực quản lý của người cán bộ. Do vậy, việc nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ chủ chốt là một việc là thiết thực và cần thiết hiện nay. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm tiêu chí đánh giá năng lực quản lý của cán bộ chủ chốt. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc làm việc với cán bộ Tỉnh An Giang 1.1.2.1. Khái niệm năng lực quản lý của cán bộ chủ chốt Khái niệm năng lực Năng lực được con người sử dụng ở nhiều phương diện, như: năng lực công tác, năng lực sản xuất, năng lực quản lý điều hành... Theo cuốn “Gốc và nghĩa của từ tiếng việt thông dụng” thì năng lực được chia làm hai vế: Năng là làm nổi việc; lực là sức mạnh. Năng lực được hiểu là sức mạnh có thể làm nổi việc. 19 Theo từ điển Tiếng việt thông dụng, Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành thì năng lực được hiểu là “khả năng làm việc tốt” [74]. Theo Đại từ điển Tiếng việt, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin: năng lực hiểu theo hai nghĩa: 1. Năng lực là những điều kiện đủ hoặc vốn có để làm một việc gì, ví dụ: năng lực tư duy của con người; 2. Năng lực là khả năng để thực hiện tốt một công việc, ví dụ: có năng lực chuyên môn, năng lực tổ chức... Tóm lại, có thể hiểu năng lực là khả năng của con người để thực hiện tốt công việc hay làm việc có hiệu quả cao. Khái niệm quản lý Các Mác đã viết: “quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản sinh từ bản chất xã hội của quá trình lao động” [38,tr29,30]. Nhấn mạnh nội dung trên ông chỉ rõ: “tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung... Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng [45,tr.480]. Theo điều khiển học thì quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy định, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ thống, quy trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được những mục đích đã định trước. Quản lý nhà nước là sự tác động, tổ chức, điều hành mang tính quyền lực của Nhà nước. Điều chỉnh mang tính đại diện quyền lực Nhà nước, thông qua hoạt động của bộ máy chính quyền bằng phương tiện, công cụ, cách thức tác động của các cấp chính quyền đối với các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội theo đường lối, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. 20 Đặc điểm của quản lý: + Luôn mang tính quyền lực Nhà nước, tính tổ chức cao. + Là hoạt động có mục tiêu rõ ràng có chiến lược và kế hoạch để thực hiện mục tiêu. + Là hoạt động có tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong thực tiễn điều hành. + Có tính liên tục và ổn định trong tổ chức và hoạt động trong quản lý hành chính nhà nước. + Có tính chuyên môn hóa và nghề nghiệp cao. + Có tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ, là hệ thống thông suốt từ trên xuống dưới. + Không có sự cách biệt về mặt xã hội giữa chủ thể và khách thể quản lý. + Phương thức thực hiện chủ yếu là hành chính, tuyên truyền, vận động, thuyết phục. + Không vụ lợi. + Mang tính nhân đạo. Khái niệm quản lý của cán bộ chủ chốt Khái niệm năng lực quản lý của cán bộ chủ chốt là khả năng của cán bộ chủ chốt tiến hành quá trình tổ chức, điều hành chính quyền cấp cơ sở thực hiện chức năng nhiệm vụ quản lý trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở cơ sở nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả quản lý cao. Các nội dung quản lý của cán bộ chủ chốt + Quản lý hành chính nhà nước. + Quản lý về kinh tế - hành chính. + Quản lý về văn hóa - xã hội.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan