Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sư phạm Luận văn nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, tp. châu đốc, t...

Tài liệu Luận văn nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, tp. châu đốc, tỉnh an giang hiện nay

.PDF
100
695
104

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI -------- TRẦN XUÂN HẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC TIỄN CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ, PHƯỜNG Ở THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC, TỈNH AN GIANG HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI -------- TRẦN XUÂN HẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC TIỄN CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ, PHƯỜNG Ở THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC, TỈNH AN GIANG HIỆN NAY Chuyên ngành : Triết học Mã số : 60.22.03.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VÕ VĂN THẮNG HÀ NỘI - 2017 LỜI CẢM ƠN Sau 02 năm học tập và rèn luyện tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi đã được các thầy, cô giáo trang bị cho những kiến thức cơ bản về Triết học, cùng với sự giúp đỡ của bạn bè, gia đình và đồng nghiệp, đến nay tôi đã hoàn thành chương trình đào tạo Cao học chuyên ngành Triết học. Với những kiến thức được trang bị tại trường và những kinh nghiệm trong quá trình công tác của bản thân, tôi đã nghiên cứu và hoàn thành đề tài “Nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay”. Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã được gia đình, cơ quan nơi công tác tạo điều kiện thuận lợi để tôi có thời gian tham gia học tập và nghiên cứu. Đặc biệt là sự hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình, trách nhiệm của thầy giáo PGS.TS Võ Văn Thắng - Người hướng dẫn khoa học; sự giúp đỡ tạo điều kiện của các cơ quan Thành ủy, UBND Thành phố, Ban Tổ chức Thành ủy, Phòng Nội vụ, Phòng Thống kê và một số phòng, ban khác của thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. Bằng tình cảm chân thành và sự kính trọng của mình, tôi xin trân trọng cảm ơn đã hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điệu kiện và động viên tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài của mình. Tuy có nhiều cố gắng nhưng cũng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất mong được sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn và Hội đồng bảo vệ luận văn để bản thân hoàn chỉnh đề tài, nhằm vận dụng vào thực tiễn công tác ở địa phương tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 02 tháng 6 năm 2017 Tácgiả luận văn Trần Xuân Hải MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN .......................... 1 MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 2 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰCTHỰCTIỄN CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ, PHƯỜNG ........... 11 1.1. Một số khái niệm liên quan đến nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ............................................................................ 11 1.2. Yêu cầu về năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ....... 20 1.3. Vai trò của cán bộ chủ chốt cấp xã trong hệ thống chính trị ở cơ sở....... 28 Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC TIỄN CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ, PHƯỜNG Ở THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC, TỈNH AN GIANG HIỆN NAY ....................... 37 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay ................................................................................................ 37 2.2. Thực trạng về năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay................................ 42 2.3. Mục tiêu, quan điểm của Đảng về nâng cao năng lực thực tiễn cho cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay ........................................................................................................... 55 2.4. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực thực tiễn cho cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay ................................................................................................................... 62 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 92 1 DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN CBCC Cán bộ chủ chốt CCB Cựu Chiến binh CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ĐTN Đoàn Thanh niên HĐND Hội đồng nhân dân HTCT Hệ thống chính trị HPN Hội Phụ nữ HND Hội Nông dân UBND Ủy ban nhân dân UB MTTQ Ủy ban Mặt trận Tổ quốc 2 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong hệ thống chính quyền bốn cấp của nước ta hiện nay, xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) có vị trí rất quan trọng được ghi nhận tại Điều 110, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Cấp xã là nơi thực tiễn diễn ra sôi động hàng ngày; nơi trực tiếp biến mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thành hiện thực sinh động của cuộc sống; nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn của chủ trương, đường lối, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết của Đảng có đi vào cuộc sống, có trở thành hiện thực hay không, một phần rất quan trọng tùy thuộc vào cán bộ chủ chốt (CBCC) cấp xã. Cán bộ chủ chốt cấp xã, phường có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, huy động mọi khả năng kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Để có thể thực hiện được việc chăm lo cho dân, phát triển sức dân thì phải có tổ chức bộ máy tốt, có đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực tương xứng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra. Đó là những người tận tâm, liêm khiết, tháo vát, sáng tạo, đặc biệt cần có năng lực thực tiễn (NLTT). Yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới, Đảng ta đã xác định, công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn là nhiệm vụ có tầm quan trọng hàng đầu, cán bộ chủ chốt cấp xã, phường là người trực tiếp lãnh đạo và tổ chức thực hiện các quá trình đó. Vì vậy, cán bộ chủ chốt cấp xã, phường giữ vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng. Nếu cán bộ chủ chốt cấp xã, phường không được xây dựng ngang tầm thì không thể thực hiện yêu cầu nhiệm vụ mà Đảng ta đã đề ra. Nắm bắt được tầm quan trọng đó Đảng ta đã nhiều lần khẳng định trong các lần 3 Đại hội như Đại hội VII, VIII, IX Đảng ta xác định, lấy phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, mà công tác xây dựng Đảng thì cán bộ và công tác cán bộ là quan trọng nhất, là khâu “then chốt trong vấn đề then chốt”, là “nguyên nhân của nguyên nhân”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới trong nông nghiệp và nông thôn đã có những chuyển biến quan trọng và đạt được thắng lợi nhiều mặt. Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, trước xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế giới và cam kết tham gia các định chế kinh tế khu vực và toàn cầu, Đảng ta luôn xác định, “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Với nhiệm vụ phát triển kinh tế, chúng ta cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa đẩy mạnh công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH), phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Cùng với việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng từ cấp cơ sở, công tác cán bộ đã có những bước tiến quan trọng, đạt được những kết quả ban đầu, từng bước xây dựng được đội ngũ cán bộ có chất lượng. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận thấy rằng, chất lượng đội ngũ cán bộ nói chung, nhất là cấp cơ sở vẫn còn nhiều yếu kém. Điều này đã được khẳng định trong Nghị quyết TW 5, khóa IX: “Hệ thống chính trị ở cơ sở còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng”. Tổng kết thực tiễn cho thấy, nhìn chung cán bộ còn nhiều lúng túng trong tổ chức thực hiện từ việc triển khai chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà nước cho tới việc thực hiện còn thiếu kinh nghiệm, chưa thống nhất, chưa đồng bộ, kém hiệu quả. Để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, hệ thống chính trị từ Trung ương tới cơ sở cần phải được đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và chỉnh đốn tổ chức, nâng cao hiệu lực lãnh đạo và quản lý. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa IX đã nhấn mạnh: Để đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị 4 cơ sở, từ nay đến năm 2020, một trong những nhiệm vụ bức xúc cần tập trung giải quyết là “Xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực thực tiễn và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, biết phát huy sức mạnh, không tham nhũng, ức hiếp dân”. Nói cách khác, chất lượng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt có ý nghĩa to lớn, quyết định trực tiếp sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Do đó, để góp phần thực hiện tốt các Nghị quyết của Đảng, việc nghiên cứu đề tài “Nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay” là vấn đề cực kỳ cấp bách. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài này để làm luận văn thạc sĩ Triết học của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu Liên quan đến vấn đề nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường đã có nhiều nghiên cứu, công trình công bố. Tiêu biểu những công trình đó có thể kể ra sau đây. Đề tài cấp Bộ: Nâng cao năng lực thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp huyện biên giới phía Bắc nước ta hiện nay (2000) do TS - Nguyễn Phương Thảo làm chủ nhiệm. Đề tài đã khảo sát, đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân dẫn đến chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các huyện biên giới phía Bắc và năng lực tổ chức thực tiễn của họ trong tình hình hiện nay. GS.TS Lê Hữu Nghĩa với Một số vấn đề xây dựng đội ngũ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện các dân tộc ở Tây Nguyên; Nguyễn Xuân Phương với Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn cho cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Việt Nam hiện nay… đã khái quát một số năng lực cần có của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện đồng thời nêu lên được các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực tổ chức thực tiễn (NLTCTT) của họ. Một số công trình nghiên cứu về phẩm chất, năng lực của cán bộ trong mối tương quan với các vấn đề khác như: Đề tài Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh 5 công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (1997-2001) do GS.TS Nguyễn Phú Trọng làm chủ nhiệm và PGS.TS Trần Xuân Sầm làm phó chủ nhiệm đã luận giải căn cứ lý luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đánh giá thực trạng chất lượng các loại cán bộ, công tác cán bộ phân tích nguyên nhân, kinh nghiệm, từ đó đưa ra giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Các luận văn, luận án liên quan đến cán bộ chủ chốt cấp xã có thể kể đến: + Phạm Công Khâm (2001) với luận án Tiến sĩ, Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay: Luận án đã làm rõ cơ sở khoa học về vai trò đội ngũ cán bộ chủ chốt và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã; đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long; chỉ ra mục tiêu, quan điểm và đề xuất những giải pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt theo yêu cầu mới trong điều kiện hiện nay. + Lê Hanh Thông (2003), Đổi mới giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã các tỉnh khu vực Nam Bộ. Luận án đã nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống về công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã các tỉnh khu vực Nam Bộ; trên cơ sở đó tác giả đề xuất một hệ thống các giải pháp tác động phù hợp và kiến nghị những đổi mới nội dung, chương trình, phương thức giáo dục lý luận chính trị, góp phần nâng cao vai trò, phẩm chất và năng lực của cán bộ chủ chốt cấp xã ở nước ta trong quá trình đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. + Giao Thị Châu (2005), Chất lượng Bí thư đảng ủy xã ở tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay. Đây là một luận văn thạc sĩ về công tác xây dựng Đảng rất cần tham khảo, kế thừa thành quả nghiên cứu về việc 6 đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ Bí thư đảng ủy xã trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. + Trần Ngọc Danh (2005), Chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở tỉnh Nghệ An. Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học này đã đi sâu bàn về chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở ở tỉnh Nghệ An giúp tham khảo khi bàn về chính sách, đãi ngộ với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở ở Thạch Hà, Hà Tĩnh. + Trần Trung Trực (2005), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học cũng đã phân tích thực trạng, phương hướng, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Bình Chánh. Đây cũng là một tài liệu tham khảo cần thiết giúp học viên triển khai đề tài luận văn của mình. + Thành Từ Dũ (2006) Báo chí với việc giáo dục ý thức chính trị cho các bộ cấp cơ sở ở tỉnh Tây Ninh hiện nay. Luận văn Thạc sĩ Triết học này tìm hiểu thực trạng vai trò báo chí với việc giáo dục ý thức chính trị cho cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Tây Ninh và đưa ra những giải pháp chủ yếu nâng cao vai trò báo chí trong giáo dục ý thức chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở Tây Ninh. + Tăng Nghĩa (2006), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cấp huyện tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay. Luận văn thạc sĩ xây dựng Đảng này đã bàn trực tiếp về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cấp huyện ở tỉnh Hà Tĩnh nói chung. Đây là tài liệu tham khảo đáng quý về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện, xã ở tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay. + Mai Đức Ngọc (2007), Vai trò của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn nước ta hiện 7 nay (qua thực tế vùng đồng bằng sông Hồng). Luận án được bảo vệ thành công năm 2007 tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Đây là một công trình giúp tham khảo những khía cạnh lý luận và thực tiễn về vai trò của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. + Nguyễn Phi Long (2007), Quản lý đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã ở tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay. Luận văn này đã đi sâu nghiên cứu về quản lý đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã ở tỉnh Ninh Bình, giúp làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu về quản lý đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh. + Lường Thị Mến (2008) Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Cạn hiện nay. Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học này đã đi sâu phân tích về bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Cạn, chỉ ra nhiều điểm hạn chế chung ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp xã ở các địa bàn nông thôn Việt Nam nước ta. Đây cũng là một nguồn tài liệu tham khảo đáng quý cho quá trình thực hiện luận văn. + Tống Phước Trường (2008), Nâng cao ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa cho đội ngũ cán bộ cấp xã ở tỉnh Kiên Giang hiện nay. Đây là một luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, đã đi sâu nghiên cứu làm rõ tầm quan trọng của ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở. + Nguyễn Văn Vũ (2008), Kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay. Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học này đã phân tích, luận giải về việc kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu. + Trần Duy Hưng (2009), Chất lượng bí thư đảng ủy xã vùng đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay. Luận án này cũng được bảo vệ thành 8 công năm 2009 ở Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Nội dung cơ bản luận án đã phân tích, luận giải về chất lượng bí thư đảng ủy xã vùng Đồng bằng sông Hồng; những kết quả, hạn chế, yếu kém trong đào tạo bồi dưỡng tạo nguồn, bí thư đảng ủy xã trên địa bàn vùng Đồng bằng sông Hồng trước yêu cầu của đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Các nghiên cứu công bố trên các tạp chí khoa học: + Lê Minh Thông: “Quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/2002; + GS.TSKH - Vũ Huy Từ: “Một số giải pháp tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ cơ sở”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 5/2002; + TS. Nguyễn Minh Phương:“Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7/2003; + Nguyễn Ngọc Khanh, Nguyễn Văn Thắng: “Công tác lãnh đạo, quản lý ở cơ sở xã, phường, thị trấn hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 9/2006; + Nguyễn Đức:“Về đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn”, Tạp chí Cộng sản, số 9/2008; + Nguyễn Trọng Hải:“Một số vấn đề về đổi mới hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 12/2012. Các bài viết khoa học trong các tạp chí nói trên đã phân tích, đánh giá khái quát về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở nước ta với nhiều gốc độ tiếp cận khác nhau. Trong khuôn khổ có hạn của một bài viết, các tác giả chỉ đưa ra một số vấn đề chung nhất về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, chưa đi sâu nghiên cứu những giải pháp để áp dụng trong thực tế tại các địa phương cụ thể. 9 Các công trình khoa học như tổng thuật đã cung cấp nhiều luận cứ, luận chứng cả về lý luận và thực tiễn cho việc triển khai đề tài. Tuy nhiên, vấn đề nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống. Vì vậy, nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay. Đề tài luận văn này sẽ tiếp thu có chọn lọc và kế thừa những kết quả nghiên cứu nêu trên. Ngoài ra, trong luận văn tác giả tập trung nghiên cứu vấn đề nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay. 3. Mục đích nghiên cứu của luận văn Luận văn làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn việc nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang trước những yêu cầu mới của cách mạng hiện nay. 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 4.1. Khách thể Luận văn nghiên cứu cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay. 4.2. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu cán bộ chủ chốt cấp xã, phường tập trung vào cán bộ chủ chốt của các cơ quan Đảng, Nhà nước và các Đoàn thể chính trị cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay. 5. Giả thuyết khoa học 10 Để nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, trước hết cần phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý, sử dụng cán bộ chủ chốt cấp xã, phường; cải thiện môi trường làm việc; bảo đảm quyền tham gia quản lý Nhà nước của nhân dân và cán bộ chủ chốt phải biết tự hoàn thiện bản thân để nâng cao năng lực thực tiễn nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng hiện nay. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay. - Khảo sát, thu thập và phân tích thực trạng năng lực thực tiễn (NLTT) của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay. 7. Phạm vi nghiên cứu - Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay. - Về thời gian nghiên cứu: từ năm 2010 đến nay. 8. Phương pháp nghiên cứu - Đề tài dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác cán bộ và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 11 - Đề tài sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp; lôgíc và lịch sử kết hợp với phương pháp điều tra xã hội học, đặc biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn, v.v. 9. Đóng góp mới của luận văn - Luận văn góp phần làm rõ thêm cơ sở khoa học của việc nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. - Luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập về công tác cán bộ, công tác xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở. 10. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn được bố cục làm 02 chương và 09 tiết. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC TIỄN CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ, PHƯỜNG 1.1. Một số khái niệm liên quan đến việc nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường 1.1.1. Khái niệm về cán bộ, cán bộ chủ chốt và cán bộ chủ chốt cấp xã 1.1.1.1. Cán bộ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về cán bộ hết sức khái quát, giản dị và dễ hiểu. Theo Người: "Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng" [32, tr.33]. Theo cuốn Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thì: "Cán bộ: 1. Người làm việc trong cơ quan nhà nước - cán bộ nhà nước. 2. 12 Người giữ chức vụ, phân biệt với người bình thường, không giữ chức vụ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước" [53,tr.109]. Theo Điều 4 Luật cán bộ, công chức của Quốc hội ban hành ngày 13/11/2008: "Cán bộ xã, phường, thị trấn là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội... trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách" [29, tr.1]. Từ những định nghĩa nêu trên, chúng ta có thể hiểu “cán bộ” là khái niệm dùng để chỉ những người có chức vụ do bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và các lực lượng vũ trang nhân dân từ Trung ương đến địa phương, thuộc biên chế Nhà nước và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; giữ vai trò và cương vị nòng cốt trong cơ quan, tổ chức (có thể là người lãnh đạo, người quản lý), có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động và sự phát triển của cơ quan, tổ chức. Như vậy, có nhiều quan niệm về cán bộ nhưng tựu trung lại, có hai quan niệm cơ bản nói về cán bộ: - Cán bộ là những người hưởng lương từ ngân sách Nhà nước và làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị xã hội, các doanh nghiệp nhà nước và các lực lượng vũ trang nhân dân từ Trung ương đến cơ sở. - Cán bộ là những người giữ chức vụ trong một cơ quan hay một tổ chức nào đó nhằm phân biệt với người không có chức vụ. Hiểu theo nghĩa chung nhất thì cán bộ là người lãnh đạo, quản lý hoặc người làm chuyên môn, nhà khoa học hay công chức, viên chức làm việc, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn khác. Họ được hình thành từ tuyển dụng, phân công công tác sau khi tốt nghiệp ra 13 trường, được bổ nhiệm, đề bạt hoặc được bầu cử trong các cơ quan dân cử. 1.1.1.2. Cán bộ chủ chốt Theo Từ điển tiếng Việt, từ "chủ chốt" là "quan trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt. Cán bộ chủ chốt của phong trào" [50, tr.174]. Như vậy, có thể hiểu cán bộ chủ chốt là người có chức vụ, nắm giữ các vị trí quan trọng, có tác dụng làm nòng cốt trong các tổ chức thuộc hệ thống bộ máy của một cấp nhất định; người được giao đảm đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo, quản lý, điều hành bộ máy thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp mình về lĩnh vực công tác được giao. Cán bộ chủ chốt là người có vị trí quan trọng, giữ vai trò quyết định trong việc xác định phương hướng, mục tiêu, phương pháp công tác; đề ra các quyết định và tổ chức thực hiện tốt các quyết định của cấp mình hoặc cấp trên giao. Kiểm tra, giám sát, kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc; bổ sung, điều chỉnh kịp thời những giải pháp mới khi cần thiết; đúc rút kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận. Đồng thời, cán bộ chủ chốt còn là người giữ vai trò đoàn kết, tập hợp, phát huy sức mạnh của quần chúng thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và xây dựng nội bộ tổ chức vững mạnh. Cán bộ chủ chốt là những người đại diện một tổ chức, một tập thể... chủ yếu do bổ nhiệm hoặc bầu cử, giữ một chức vụ trọng yếu trong cơ quan Đảng, chính quyền (cấp trưởng, cấp phó); trưởng các đoàn thể và là những người chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp mình về mọi hoạt động của địa phương, đơn vị hoặc lĩnh vực công tác được đảm nhận. Như vậy, cán bộ chủ chốt cấp xã, phường là những người đứng đầu quan trọng nhất trong hệ thống của tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở; có tác động chi phối việc chấp hành chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của 14 Nhà nước thông qua việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội trên địa bàn nông thôn mà họ phụ trách. 1.1.1.3. Cán bộ chủ chốt cấp xã, phường Cấp xã, phường theo quy định của Hiến pháp năm 1992 là đơn vị hành chính nhà nước ở địa phương thuộc hệ thống hành chính 04 cấp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp xã, phường là hình ảnh xã hội của một đất nước thu nhỏ, là cơ sở, là nền tảng, là nơi tiếp thu, triển khai tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong mọi hoạt động trên tất của các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng và an ninh. Là nơi trực tiếp, thường xuyên quan hệ, tiếp xúc với quần chúng nhân dân, nơi thể hiện rõ nhất và kiểm nghiệm tính đúng đắn, hiệu quả mọi chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cấp xã là gần dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi" [35, tr.371-372]. Do vậy, cấp xã có vai trò rất quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Căn cứ các khái niệm trên, chúng ta thấy cán bộ chủ chốt cấp xã, phường là người có chức vụ, nắm giữ các vị trí quan trọng, có tác dụng làm nòng cốt trong các tổ chức thuộc hệ thống chính trị ở cơ sở. Theo Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn; Nghị định 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn; Quyết định 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/1/2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về tiêu chuẩn đối với cán bộ công chức xã, phường, thị trấn; Điều 61 Luật Cán bộ, Công chức thì CBCC cấp xã, phường gồm: a) Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; b) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; 15 c) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân; d) Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đ) Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; e) Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam; g) Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam); h) Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam [29, tr.3]. Với đề tài này, tác giả luận văn đề cập cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang bao gồm các chức danh: Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân (HĐND); Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND); Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc; Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ; Bí thư Đoàn Thanh niên; Chủ tịch Hội Nông dân; Chủ tịch Hội Cựu chiến binh cấp xã, phường. 1.1.2. Khái niệm về năng lực, nâng cao năng lực và nâng cao năng lực thực tiễn 1.1.2.1. Năng lực Khi nói đến năng lực, bao giờ người ta cũng nói đến năng lực thuộc về hoạt động cụ thể nào đó như năng lực toán học của hoạt động học tập hay nghiên cứu toán học, năng lực hoạt động chính trị của hoạt động chính trị, năng lực quản lý của hoạt động quản lý Nhà nước...Với tư cách là một phạm trù, năng lực đã được nhiều ngành khoa học, nhiều tác giả tiếp cận với những cấp độ và khía cạnh khác nhau, đem lại những kết quả mang tính đặc trưng của mỗi ngành. Năng lực nói chung được hiểu là khả năng của chủ thể trong việc thực hiện có kết quả cao một hoạt động hoặc một công việc nào đó trong điều kiện nhất định, là những phẩm chất của con người cho họ có khả năng hoàn thành có kết quả một quá trình hoạt động nhất định. 16 Theo Từ điển Tiếng Việt, “Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó ở mức độ cao, hoặc năng lực được hiểu là những phẩm chất của con người tạo cho con người đó khả năng hoàn thành có kết quả một quá trình hoạt động nhất định” [50, tr.238]. Năng lực còn được hiểu là: "Tổng hợp những thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo hoàn thành có kết quả tốt trong hoạt động lĩnh vực ấy" [53, tr.174]. Như vậy, năng lực là khả năng thực tế mà con người có được thông qua trau dồi học vấn, hoạt động thực tiễn, tích lũy kinh nghiệm, tự giáo dục và tự đào tạo để đáp ứng một yêu cầu nào đó của công việc được giao phó nhằm giải quyết những nhiệm vụ hay xử lý những tình huống đặt ra trong công tác, trong đời sống hằng ngày. Năng lực là những khả năng của chủ thể hoạt động được sử dụng để đáp ứng đòi hỏi của công việc, của đối tượng và khách thể đặt ra. Khi nói đến năng lực phải nói đến từng con người cụ thể, đó là người đã trưởng thành về mặt xã hội, là một cá nhân, một chủ thể mang nhân cách. Tùy thuộc vào nghề nghiệp, vị thế xã hội, chức trách... của từng cá nhân mà biểu hiện những khả năng khác nhau một cách đa dạng, sinh động, phức tạp. Năng lực là khả năng, những phẩm chất tâm sinh lý vốn có của con người, những khả năng phẩm chất ấy vừa là sản phẩm của tự nhiên đồng thời cũng là sản phẩm mang tính lịch sử - xã hội. Tuy nhiên, cái tự nhiên đó chỉ thực sự trở thành năng lực khi nó thẩm thấu qua lăng kính của thực tiễn, tự học tập, trau dồi, rèn luyện để không ngừng nâng cao trình độ nhận thức, trình độ tư duy khoa học. Khẳng định về điều này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Năng lực của con người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, mà một phần lớn do tập luyện, do công tác mà có" [34, tr.269].
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng