Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty cổ phần vận tả...

Tài liệu Luận văn những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty cổ phần vận tải ô tô phú thọ.

.PDF
105
521
54

Mô tả:

NGUYỄN THỊ HỒNG TÂM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI ----------------------- NGUYỄN THỊ HỒNG TÂM QUẢN TRỊ KINH DOANH NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN VẬN TẢI Ô TÔ PHÚ THỌ LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC KHÓA 2009 HÀ NỘI - 2012 Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính bản thân tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn theo đúng quy định và trung thực, nếu có gì sai trái tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. HỌC VIÊN Nguyễn Thị Hồng Tâm Khóa: 2009 LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo Viện Kinh tế và Quản lý trường Đại học Bách Khoa Hà Nội đã cho tôi kiến thức và sự chỉ bảo tận tình trong 2 năm học vừa qua. Luận văn của tôi được hoàn thành không thể thiếu các dữ liệu doanh nghiệp, thông tin, sự chia sẻ công việc và đóng góp ý tưởng của anh chị em Công ty cổ phần vận tải ô tô và Sở Giao thông vận tải Phú Thọ. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành. Tôi cũng chân thành cảm ơn TS. Phạm Cảnh Huy với trách nhiệm cao quý của người thầy đã dành thời gian, công sức và nhiệt huyết hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này. Cuối cùng, Tôi xin dành lời cảm ơn sâu sắc đến những người thân trong gia đình và những người bạn tâm huyết đã giúp tôi hoàn thành khóa học và luận văn này. Nguyễn Thị Hồng Tâm DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT NLCT Năng lực cạnh tranh EFE Yếu tố ngoại vi IEF Yếu tố nội bộ SWOT Strengths, Weaknesses, Opportunities, Threats VTHK Vận tải hành khách GDP Gross Domestic Product: Tổng sản phẩm quốc nội CPI Consumer Price Index: Chỉ số giá tiêu dùng KH Khách hàng TNHH Trách nhiệm hữu hạn GTVT Giao thông vận tải WTO World Trade Organization ROA Return On Assets - Tỷ suất sinh lời trên tài sản ROE Return On Equity - Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu XDCB Xây dựng cơ bản BDSC Bảo dưỡng sửa chữa DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BẢNG BIỂU Các hình vẽ: Hình 1.1: Hệ thống tiêu chí đánh giá NLCT của doanh nghiệp dịch vụ Hình 1.2: Mô hình kim cương của M.Porter, 1990 Hình 1.3: Mô hình phân tích năm lực lượng của M.Porter, 1986 Hình 1.4: Quy trình vận tải hành khách bằng ô tô Hinh 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần vận tải ôtô Phú Thọ Hình 3.1: Các giải pháp về kỹ thuật phương tiện Các bảng biểu: Bảng 2.1: Cơ cấu tuyến hoạt động của đội xe số 01 Bảng 2.2: Cơ cấu tuyến hoạt động của đội xe số 02 Bảng 2.3: Cơ cấu tuyến hoạt động của đội xe số 03 Bảng 2.4: Tình hình sử dụng ôtô tại Công ty cổ phần vận tải ôtô Phú Thọ Bảng 2.5: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty từ năm 20072010 Bảng 2.6: Mức độ biến động của nền kinh tế Việt Nam từ 2006-2010 Bảng 2.7: Ma trận hình ảnh cạnh tranh Bảng 2.8: Ma trận đánh giá các yếu tố bên ngoài (EFE) Bảng 2.9: Cơ cấu lao động của Công ty cổ phần vận tải ôtô Phú Thọ Bảng 2.10: Bảng cân đối tài khoản Bảng 2.11: Các chỉ tiêu và hệ số tài chính chủ yếu Bảng 2.12: Ma trận đánh giá các yếu tố bên trong (IFE) Bảng 2.13: Ma trận SWOT Luận văn thạc sĩ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Trong cuộc sống của mình, con người thường có nhu cầu đi lại. Để thoả mãn nhu cầu này con người có thể sử dụng phương tiện cá nhân hoặc mua dịch vụ vận chuyển từ các nhà cung cấp như ngành đường sắt, đường bộ, đường sông, … Khi quyết định sử dụng loại hình vận tải nào, hành khách phải tính toán sao cho có hiệu quả nhất, nghĩa là với số tiền có hạn cho phép thoả mãn ở mức cao nhất. Sự lựa chọn của hành khách đối với một loại hình vận tải nào đó để thoả mãn nhu cầu đi lại của mình đồng thời cũng nói lên năng lực cạnh tranh của dịch vụ vận chuyển của loại hình tương ứng Trong 10 năm trở lại đây, ngành vận tải ôtô đã có tốc độ phát triển khá cao, vận tải hàng hoá tăng trưởng bình quân năm trên 13,5% trên đầu phương tiện và gần 15% tổng trọng tải; vận tải hành khách tăng trưởng bình quân những năm gần đây là 26% trên đầu phương tiện và gần 9% tổng số ghế xe. Thị trường kinh doanh vận tải hành khách thật sự sôi động khi có sự xuất hiện của các doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã vận tải … đã thật sự đặt ra nhiều thách thức lớn cho các doanh nghiệp đã và đang kinh doanh tạo ra sức ép cạnh tranh khốc liệt. Do vậy, để có thể tồn tại và phát triển được các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường vận tải hành khách. Công ty cổ phần vận tải ôtô Phú Thọ là sự tập hợp sức mạnh kinh tế và uy tín tại tỉnh Phú Thọ, để hoạt động kinh doanh vận tải hành khách mang lại hiệu quả cao trong môi trường cạnh tranh gay gắt với các đối thủ trong thị trường. Trước tình hình đó Công ty chủ trương tìm hướng đi thích hợp, đồng thời cũng đòi hỏi Công ty phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh để vững bước phát triển trong nền kinh tế thị trường. Và đó chính là tính cấp Nguyễn Thị Hồng Tâm (Khoá 2009) 1 Viện Kinh tế và Quản lý Luận văn thạc sĩ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội thiết của đề tài “Những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần vận tải ôtô Phú Thọ”. 2. Mục đích nghiên cứu: Vận dụng những lý luận và phương pháp luận về cạnh tranh và hoạt động vận tải hành khách bằng ôtô vào việc nghiên cứu đưa ra các luận cứ và phân tích tình hình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp vận tải hành khách để đánh giá các nguy cơ, cơ hội cũng như các điểm mạnh yếu của Công ty cổ phần vận tải ôtô Phú Thọ. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài đi sâu phân tích, đánh giá và đưa ra định hướng để nâng cao năng lực cạnh tranh tại Công ty cổ phần vận tải ôtô Phú Thọ dựa trên những lý luận chung về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung lấy số liệu ở Công ty cổ phần vận tải ôtô Phú Thọ 4. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu dựa vào phương pháp luận duy vật biện chứng để nghiên cứu quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp: thống kê, phân tích, so sánh, diễn giải để phân tích đánh giá và đưa ra các giải pháp hữu hiệu. 5. Những đóng góp của luận văn: - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh trong kinh doanh của các doanh nghiệp. - Phân tích sự biến động của môi trường kinh doanh hiện nay và những tác động của nó đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần vận tải ôtô Phú Thọ. Nguyễn Thị Hồng Tâm (Khoá 2009) 2 Viện Kinh tế và Quản lý Luận văn thạc sĩ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội - Đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần vận tải ô tô Phú Thọ. 6. Kết cấu của luận văn: Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: PHẦN MỞ ĐẦU Chương I: Cơ sở lý luận nâng cao năng lực cạnh tranh Chương II: Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần vận tải ôtô Phú Thọ. Chương III: Những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần vận tải ôtô Phú Thọ. KẾT LUẬN Nguyễn Thị Hồng Tâm (Khoá 2009) 3 Viện Kinh tế và Quản lý Luận văn thạc sĩ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH 1.1 Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 1.1.1 Nhận thức cơ bản về thị trường Thị trường có thể được khái niệm theo nhiều cách khác nhau. Chúng được xem xét từ nhiều góc độ và được đưa ra vào các giai đoạn khác nhau trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì thị trường chỉ địa điểm hay không gian của trao đổi hàng hoá, đó là nơi gặp gỡ giữa người bán, người mua, hàng - tiền và ở đó diễn ra các hoạt động mua bán. Như vậy, phạm vi của thị trường được giới hạn thông qua việc xem xét bản chất hành vi tham gia thị trường, ở đâu có sự trao đổi, buôn bán, có sự lưu thông hàng hoá thì ở đó có thị trường. Đây là cách hiểu thị trường gắn với yếu tố địa lý của hành vi tham gia thị trường, đòi hỏi phải có sự hiện hữu của đối tượng được đem ra trao đổi. Nơi mua bán xảy ra đầu tiên là ở chợ, sau này mở rộng hơn về không gian thì khái niệm nơi mua bán cũng mở rộng hơn như ở cửa hàng, cửa hiệu cố định, siêu thị, Trung tâm thương mại… Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì thị trường là các hiện tượng kinh tế được phản ánh thông qua trao đổi và lưu thông hàng hoá cùng với các quan hệ kinh tế giữa người và người trong quá trình trao đổi, mua bán hàng hoá và các dịch vụ. Thị trường là tổng thể những thoả thuận, cho phép những người bán và người mua trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Như vậy, thị trường không nhất thiết phải là một địa điểm cụ thể như cách hiểu theo nghĩa hẹp trên. Người bán và người mua có thể không trực tiếp trao đổi, mà có thể qua các phương tiện khác để thiết lập nên thị trường. Theo David Begg, thị trường là tập hợp các sự thoả thuận thông qua đó người bán và người mua tiếp xúc với nhau để trao Nguyễn Thị Hồng Tâm (Khoá 2009) 4 Viện Kinh tế và Quản lý Luận văn thạc sĩ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đổi hàng hoá và dịch vụ. Theo cách hiểu này thì người ta nhấn mạnh đến các quan hệ trao đổi cũng như thể chế và các điều kiện thực hiện việc mua bán. Trong nền kinh tế hiện đại, thị trường được coi là biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các quyết định của các gia đình về tiêu dùng mặt hàng nào, các quyết định của các Công ty về sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? Sản xuất như thế nào? các quyết định của người công nhân về làm việc bao lâu? cho ai? đều được dung hoà bằng sự điều chỉnh giá cả, quan niệm này cho thấy mọi quan hệ trong kinh tế đã được tiền tệ hoá. Giá cả với tư cách là yếu tố thông tin cho các lực lượng tham gia thị trường trở thành trung tâm của sự chú ý, sự điều chỉnh về giá cả trong quan hệ mua bán là yếu tố quan trọng nhất để các quan hệ đó được tiến hành. Xét theo mức độ khái quát thì thị trường còn được quan niệm là sự kết hợp giữa cung và cầu trong đó người mua, người bán bình đẳng cạnh tranh, số lượng người bán nhiều hay ít phụ thuộc vào quy mô của thị trường lớn hay nhỏ. Sự cạnh tranh trên thị trường có thể do xảy ra giữa người bán, người mua hay giữa người bán và người mua. Việc xác định giá cả trên thị trường là do cung và cầu quyết định. Theo Paul A.Samuelson, thị trường là một quá trình, trong đó người mua và người bán cùng một thứ hàng hóa tác động qua lại lẫn nhau để định ra số lượng và giá cả của hàng hóa đó. Còn theo quan điểm của Pinkdyck, thị trường là tập hợp những người mua và người bán, tác động qua lại lẫn nhau, dẫn đến khả năng trao đổi. Dù quan niệm hay diễn đạt như thế nào, cuối cùng thị trường cũng chính là mối quan hệ giữa tổng cung và tổng cầu với cơ cấu cung, cầu về một loại hàng hóa, dịch vụ nào đó. Nguyễn Thị Hồng Tâm (Khoá 2009) 5 Viện Kinh tế và Quản lý Luận văn thạc sĩ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội 1.1.2 Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường Cạnh tranh là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực, cấp độ khác nhau nhưng vẫn chưa có một định nghĩa rõ ràng và cụ thể. Ở cấp độ doanh nghiệp, cạnh tranh có thể được hiểu là sự tranh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một nhân tố sản xuất hay khách hàng bằng nỗ lực nâng cao năng lực, tạo ra lợi thế cạnh tranh vượt trội cho bản thân doanh nghiệp nhằm mang lại cho khách hàng những giá trị gia tăng cao hơn hoặc mới lạ hơn để khách hàng lựa chọn mình chứ không phải đối thủ, từ đó doanh nghiệp tồn tại và nâng cao vị thế của mình trên thị trường để thu lợi nhuận cao hơn. Do vậy, Paul A, Samuelson đã nói " Cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp để giành khách hàng hoặc thị trường". Các giá trị gia tăng vượt trội dưới cái nhìn khách hàng có thể được tạo ra thông qua một hoặc một số các yếu tố như: Chất lượng sản phẩm, thời gian, không gian, dịch vụ, thương hiệu, giá cả … Cạnh tranh có một đặc tính tất yếu của nền kinh tế thị trường, là một cuộc đua không bao giờ dứt. Cạnh trạnh có thể đưa lại lợi ích cho người này và đem lại thiệt hại cho người khác nhưng xét dưới góc độ toàn xã hội, cạnh tranh luôn luôn có tác động tích cực như sản phẩm tốt hơn, giá rẻ hơn, dịch vụ tốt hơn, … Cạnh tranh còn giúp cho thị trường hoạt động có hiệu quả hơn nhờ việc phân bổ hợp lý các nguồn lực có hạn. Đây cũng chính là động lực cho sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên cạnh tranh cũng có những biểu hiện tiêu cực như cạnh tranh thiếu sự kiểm soát, cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến sự phát triển sản xuất tràn lan, lộn xộn, tình trạng " cá lớn nuốn cá bé", gây khủng hoảng thừa, thất nghiệp và làm thiệt hại đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trong nền kinh tế có khoa học kỹ thuật càng phát triển đã đẩy mạnh nền sản xuất, sản phẩm ngày càng nhiều trên thị trường, cung càng vượt cầu thì cạnh tranh càng gay gắt. Khi tính cạnh tranh của thị trường kinh doanh Nguyễn Thị Hồng Tâm (Khoá 2009) 6 Viện Kinh tế và Quản lý Luận văn thạc sĩ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội ngày càng cao thì không một doanh nghiệp nào có thể tự chủ được, thậm chí muốn sống còn được họ phải tìm mọi cách khai thác lợi thế riêng của mình, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển. 1.1.3 Công cụ cạnh tranh Cạnh tranh sản phẩm: là tổng thể những chỉ tiêu, thuộc tính của sản phẩm thể hiện mức độ thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện xác định phù hợp với công dụng của sản phẩm. Ngày nay, chất lượng sản phẩm đã trở thành một công cụ cạnh tranh quan trọng của các doanh nghiệp trên thị trường. Chất lượng sản phẩm càng cao tức là mức độ thỏa mãn nhu cầu càng cao, dẫn tới đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ, làm tăng khả năng trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, mức sống của người dân ngày càng được nâng cao, tức là nhu cầu có khả năng thanh toán của người tiêu dùng tăng lên thì sự cạnh tranh bằng giá cả đã và sẽ có xu hướng vị trí cho sự cạnh tranh bằng chất lượng. Chất lượng sản phẩm là tập hợp các thuộc tính của sản phẩm trong điều kiện nhất định về kinh tế kỹ thuật. Chất lượng là một chỉ tiêu tổng hợp thể hiện ở nhiều mặt khác nhau tính cơ lý hóa đúng như các chỉ tiêu quy định, hình dáng mầu sắc hấp dẫn Với mỗi loại sản phẩm khác nhau, vấn đề đặt ra là doanh nghiệp phải luôn luôn giữ vững và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Đó là điều kiện tiên quyết nếu doanh nghiệp muốn giành được thắng lợi trong cạnh tranh hay nói một cách khác chất lượng sản phẩm là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp. Khi chất lượng không còn được đảm bảo, không thỏa mãn nhu cầu của khách hàng thì ngay lập tức khách hàng sẽ rời bỏ doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc tăng khả năng cạnh tranh thể hiện trên các góc độ; Nguyễn Thị Hồng Tâm (Khoá 2009) 7 Viện Kinh tế và Quản lý Luận văn thạc sĩ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội - Chất lượng sản phẩm tăng lên sẽ thu hút được khách hàng dẫn đến tăng khối lượng hàng hóa tiêu thụ, tăng uy tín sản phẩm, mở rộng thị trường, từ đó tăng doanh thu, tăng lợi nhuận đảm bảo hoàn thành các mục tiêu mà doanh nghiệp để ra. - Nâng cao chất lượng sản phẩm có nghĩa là nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm: Giá bán sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm mà người bán hay doanh nghiệp bán dự định có thể nhận được từ người mua thông qua việc trao đổi hàng hóa đó trên thị trường. Giá bán của sản phẩm phụ thuộc vào các yếu tố sau: - Các yếu tố kiểm soát được: Chi phí sản xuất sản phẩm, chi phí bán hàng, chi phí lưu động và chi phí xúc tiến bán hàng. - Các yếu tố không kiểm soát được: Quan hệ cung cầu cường độ cạnh tranh trên thị trường, chính sách điều tiết thị trường của Nhà nước. Giá cả được sử dụng làm công cụ cạnh tranh thông qua các chính sách định giá bán sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường, một doanh nghiệp có thể có các chính sách định giá như sau: - Chính sách định giá thấp: Đây là cách định giá bán thấp hơn mức giá bán thị trường. Chính sách định giá thấp có thể hướng vào các mục tiêu khác nhau, tùy theo tình hình sản xuất và thị trường và được chia ra các cách khác nhau: + Định giá thấp hơn so với thị trường nhưng cao hơn giá trị sản phẩm, doanh nghiệp chấp nhận mức lãi thấp. Nó được ứng dụng trong trường hợp sản phẩm mới thâm nhập thị trường, cán bán hàng nhanh với khối lượng lớn, hoặc dùng giá để cạnh tanh với các đối thủ. Nguyễn Thị Hồng Tâm (Khoá 2009) 8 Viện Kinh tế và Quản lý Luận văn thạc sĩ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội + Định giá bán thấp hơn giá thị trường và cũng thấp hơn giá trị sản phẩm: Doanh nghiệp bị lỗ. Cách này được áp dụng trong trường hợp bán hàng trong thời kỳ khai trương hoặc muốn bán nhanh để thu hồi vốn. - Chính sách định giá cao: Tức là mức giá bán cao hơn mức giá thống trị trên thị trường và cao hơn giá trị sản phẩm Được áp dụng trong các trường hợp sau: + Sản phẩm mới tung ra thị trường, người tiêu dùng chưa biết rõ chất lượng của nó, chưa có cơ hội để so sánh về giá áp dụng giá bán cao sau dó giảm dần. + Doanh nghiệp hoạt động trong thị trường độc quyền, áp dụng giá cao để thu lợi nhuận độc quyền. + Sản phẩm thuộc loại cao cấp, hoặc sản phẩm có chất lượng đặc biệt tốt phù hợp với người tiêu dùng thuộc tầng lớp thượng lưu. + Sản phẩm thuộc loại không khuyến khích người tiêu dùng mua, áp dụng giá bán cao để thúc đẩy họ tìm sản phẩm thay thế. - Chính sách ổn định giá bán: Tức là giữ nguyên giá bán theo thời kỳ và địa điểm. Chính sách này giúp doanh nghiệp thâm nhập, giữ vững và mở rộng thị trường. - Chính sách định giá theo thị trường: Đây là cách định giá phổ biến của các doanh nghiệp hiện nay tức là giá bán sản phẩm xoay quanh mức giá thị trường của sản phẩm đó. Ở đây do không sử dụng yếu tố giá làm đòn bẩy kích thích người tiêu dùng nên để tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp tăng cường công tác tiếp thị, thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp giảm chi phí sản xuất kinh doanh. - Chính sách giá phân biệt: Với cùng một loại sản phẩm nhưng doanh nghiệp định ra nhiều mức giá khác nhau dựa theo nhiều tiêu thức khác nhau: Nguyễn Thị Hồng Tâm (Khoá 2009) 9 Viện Kinh tế và Quản lý Luận văn thạc sĩ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội + Phân biệt theo lượng mua: Mua khối lượng nhiều hoặc giảm giá hoặc hưởng chiết khấu + Phân biệt theo chất lượng: Tùy theo vào mức độ chất lượng mà có giá khác nhau phục vụ cho các nhóm đối tượng khác nhau. + Phân biệt theo phương thức thanh toán: Thanh toán ngay hay trả chậm, thanh toán bằng tiền mặt hay chuyển khoản. + Phân biệt theo thời gian: Tại các thời điểm khác nhau, giá cả khác nhau. - Chính sách bán phá giá: Định mức giá bán thấp hơn hẳn giá thị trường và thấp hơn giá thành sản xuất. Cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm Đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường, sản xuất tốt chưa đủ để khẳng định khả năng tồn tại và phát triển của mình, mà còn phải biết tổ chức mạng lưới bán hàng, đó là tập hợp các kênh đưa sản phẩm hàng hóa từ nơi sản xuất đến người tiêu dùng sản phẩm ấy. Ngay nay doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm được chia thành 4 loại sau: + Kênh trực tiếp ngắn, từ doanh nghiệp đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng. + Kênh trực tiếp dài: Từ doanh nghiẹp tới người bán lẻ, sau đó đến tay người tiêu dùng. + Kênh gián tiếp ngắn: Từ doanh nghiệp tới các đại lý, tiếp đó phân tới các nhà bán lẻ và sau cùng đến tay người tiêu dùng. Cạnh tranh bằng các công cụ khác: Dịch vụ sau bán hàng thường áp dụng trong các trường hợp sau: + Sản phẩm mang tính kỹ thuật cao + Đơn giá sản phẩm cao. + Sản phẩm được bán đơn chiếc Nguyễn Thị Hồng Tâm (Khoá 2009) 10 Viện Kinh tế và Quản lý Luận văn thạc sĩ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội + Người mua không am hiểu tính năng và cách sử dụng sản phẩm + Sản phẩm chiến lĩnh thị trường nhiều Yếu tố thời gian: Những thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ làm thay đổi nhanh chóng cách nghĩ, các làm của con người, tạo thời cơ cho mỗi người. Đối với doanh nghiệp yếu tố quyết định trong chiến lược kinh doanh hiện tại là tốc độ chứ không phải yếu tố cổ truyền như nguyên vật liệu, lao động … muốn thắng lợi trong cuộc cạnh tranh các doanh nghiệp phải biết tổ chức nắm bắt thông tin nhanh chóng tiêu thụ để thu hồi vốn nhanh trước khi chu kỳ sản xuất sản phẩm kết thúc. Cạnh tranh về thời cơ thị trường: Doanh nghiệp nào dự báo trước thời cơ thị trường và nắm được thời cơ thị trường sẽ có thêm điều kiện để chiến thắng trong cạnh tranh. Thời cơ thị trường thường xuất hiện do các yếu tố sau: + Sự thay đổi của môi trường công nghệ + Sự thay đổi về yếu tố dân cư, điều kiện tự nhiên + Các quan hệ tạo lập được của từng doanh nghiệp 1.2 Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 1.2.1 Khái niệm năng lực cạnh tranh Theo lý thuyết thương mại truyền thống thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được xem xét qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất. Hiệu quả của các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh được đánh giá dựa trên mức chi phí thấp. Chi phí sản xuất thấp không chỉ là điều kiện cơ bản của lợi thế cạnh tranh mà còn đóng góp tích cực cho nền kinh tế. Theo quan điểm tổng hợp của Van Duren, Martin và Westgren thì năng lực cạnh tranh là khả năng tạo ra và duy trì lợi nhuận và thị phần trên các thị trường trong và ngoài nước, các chỉ số đánh giá năng suất lao động, công Nguyễn Thị Hồng Tâm (Khoá 2009) 11 Viện Kinh tế và Quản lý Luận văn thạc sĩ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội nghệ, tổng năng suất các yếu tố sản xuất, chi phí cho nghiên cứu và phát triển, chất lượng và tính khác biệt của sản phẩm, chi phí đầu vào… Lý thuyết tổ chức công nghiệp xem xét năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dựa trên khả năng sản xuất ra sản phẩm ở một mức giá ngang bằng hay thấp hơn giá phổ biến mà không có trợ cấp; đảm bảo cho ngành, doanh nghiệp đứng vững trước các đối thủ khác hay sản phẩm thay thế. Michael Porter cho rằng năng lực cạnh tranh là khả năng sáng tạo ra những sản phẩm có qui trình công nghệ độc đáo để tạo ra giá trị tăng cao, phù hợp với nhu cầu khách hàng, có chi phí thấp, năng suất cao nhằm tăng lợi nhuận. Như vậy, thuật ngữ " năng lực cạnh tranh" dù đã được sử dụng rộng rãi nhưng vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về nó, dẫn đến cách thức đo lường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vẫn chưa được xác định một cách thống nhất và phổ biến. Tuy thế, từ các quan điểm trên, có thể đúc kết lại như sau: Năng lực cạnh tranh là khả năng khai thác, huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực giới hạn như nhân lực, vật lực, tài lực,… để tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn so với đối thủ cạnh tranh; đồng thời, biết lợi dụng các điều kiện khách quan một cách có hiệu quả để tạo ra lợi thế cạnh tranh trước các đối thủ, xác lập vị thế cạnh tranh của mình trên thị trường; từ đó, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập và lợi nhuận cao, đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại, tăng cường và phát triển bền vững. Năng lực cạnh tranh được phân biệt thành 4 cấp độ như sau: - Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa: là khả năng sản phẩm đó bán được nhanh với gái tốt khi có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó trên thị trường. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, tốc độ cung cấp, dịch vụ đi kèm, thương hiệu, quảng cáo, uy tín của người bán, chính sách hậu mãi, … Nguyễn Thị Hồng Tâm (Khoá 2009) 12 Viện Kinh tế và Quản lý Luận văn thạc sĩ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội - Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: Là khả năng doanh nghiệp tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có năng suất và chất lượng sản phẩm cao hơn của đối thủ, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập và lợi nhuận cao để tồn tại và phát triển bền vững. - Năng lực cạnh tranh của ngành: Là khả năng ngành phát huy được những lợi thế cạnh tranh và có năng suất so sánh coa hơn giữa các ngành cùng loại. - Năng lực cạnh tranh của quốc gia: Là năng lực của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế và các đặc trưng kinh tế, xã hội khác. Năng lực cạnh tranh quốc gia có thể hiểu là việc xây dựng một môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo có hiệu quả phân bố nguồn lực, để đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững. Năng lực cạnh tranh ở bốn cấp độ trên có mối tương quan mật thiết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét, đánh giá và đề ra các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, cần thiết phải đặt nó trong mối tương quan chung giữa các cấp độ cạnh tranh nêu trên. Ngoài ra, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng cần phải được tiếp cận đồng thời trên hai góc độ: 1.2.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh Nguyễn Thị Hồng Tâm (Khoá 2009) 13 Viện Kinh tế và Quản lý Luận văn thạc sĩ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Các tiêu chí đo lường NLCT của doanh nghiệp dịch vụ bao gồm: Hệ thống tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh doanh nghiệp dịch vụ Năng lực duy trì nâng cao hiệu quả kinh doanh Khả năng thu hút nguồn nhân lực Thị phần của sản phẩm trên thị trường Khả năng duy trì và mở rộng thị phần Năng lực cạnh tranh của sản phẩm Khả năng liên kết và hợp tác Giá thành, giá cả sản phẩm Chất lượng và uy tín sản phẩm Các dịch vụ kèm theo Khả năng thích ứng và đổi mới Tính đa dụng và đa dạng của sản phẩm Hình 1.1: Hệ thống tiêu chí đánh giá NLCT của doanh nghiệp dịch vụ a. Năng lực duy trì, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp dịch vụ Tiêu chí này thể hiện qua chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp dịch vụ là một chỉ tiêu tổng hợp được tính bằng trị số tuyệt đối hoặc chỉ số tương đối. Đối với doanh nghiệp, lợi nhuận không chỉ là mục tiêu chủ yếu mà còn là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển nên đây là tiêu chí thể hiện mức độ đạt được mục tiêu hoạt động, phản ánh chất lượng của NLCT. b. Khả năng thu hút nguồn nhân lực Khả năng thu hút nguồn nhân lực không chỉ nhằm đảm bảo điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp dịch vụ được tiến hành bình thường mà còn thể hiện NLCT thu hút đầu vào của doanh nghiệp. Nhờ việc thu hút các đầu vào có trình độ và có kinh nghiệm, công nghệ cao, nguồn vốn… mà doanh nghiệp có thể nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả kinh doanh. Nguyễn Thị Hồng Tâm (Khoá 2009) 14 Viện Kinh tế và Quản lý Chỉ tiêu tổng hợp về năng Luận văn thạc sĩ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội c. Khả năng duy trì và mở rộng thị phần Thị phần là chỉ tiêu tổng hợp, quan trọng phản ảnh NLCT theo kết quả đầu ra của doanh nghiệp, cho dù là cạnh tranh trong nước hay cạnh tranh quốc tế. Thị phần thể hiện vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng phần trăm thị trường mà một mặt hàng hay doanh nghiệp chiếm lĩnh được. Độ lớn của chỉ tiêu này nói lên mức độ chiếm lĩnh thị trường, vai trò, vị trí của doanh nghiệp. Nếu một sản phẩm có thị phần đáng kể hoặc tốc độ tăng thị phần cao tức là mặt hàng đó đáp ứng được yêu cầu của một số lượng khách hàng lớn. Điều đó chứng tỏ sản phẩm đó có sức cạnh tranh cao. Một sản phẩm có thị phần nhỏ hay thị phần sút giảm sút thường là những sản phẩm có sức cạnh tranh kém. + Thị phần tuyệt đối: Là tỷ lệ phần trăm doanh số của công ty so với toàn ngành. Thị phần tuyệt đối cho biết khả năng chấp nhận của thị trường với mặt hàng doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh thế nào. + Thị phần tương đối: Biểu thị quan hệ tỷ lệ giữa thị phần tuyệt đối của doanh nghiệp với thị phần tuyệt đối của đối thủ cạnh tranh lớn nhất. Thị phần tương đối càng cao chứng tỏ khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao. Chỉ tiêu thị phần là chỉ tiêu quan trọng tuy nhiên không phải lúc nào cũng tính toán được, đặc biệt trong tường hợp doanh nghiệp có mức thị phần quá nhỏ hoặc các doanh nghiệp xuất khẩu rất khó xác định thị phần của mình trên thị trường nước ngoài. Hơn nữa, chỉ tiêu này mang tính chất “tĩnh”, phản ánh NLCT tại một thời điểm trong quá khứ. Do vậy để thấy được sự chuyển biến của NLCT theo thời gian, cần xem xét sự biến đổi chỉ số thị phần trong một giai đoạn (thường 3–5 năm) d. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm Là tiêu chí phản ánh kết quả hoạt động của doanh nghiệp gồm các yếu tố: + Thị phần của sản phẩm trên thị trường Nguyễn Thị Hồng Tâm (Khoá 2009) 15 Viện Kinh tế và Quản lý
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan