Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng việt cho trẻ em 5 6 tuổi dân tộc ê đ...

Tài liệu Luận văn phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng việt cho trẻ em 5 6 tuổi dân tộc ê đê qua hoạt động khám phá môi trường xung quanh ở trường mầm non

.PDF
122
561
89

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG GIAO TIẾP TIẾNG VIỆT CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI DÂN TỘC Ê ĐÊ QUA HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ MÔI TRƯỜNG XUNG QUANH Ở TRƯỜNG MẦM NON Người hướng dẫn: TS: Đinh Văn Vang Học viên: Chương H' Viên Niê Chuyên ngành: Giáo dục Mầm non Mã số chuyên ngành: 60140101 MỞ ĐẦU Hà Nội, tháng năm 2017 MỞ6 ĐẦU 1 1. Lí do chọn đề tài Giai đoạn từ 0 - 6 tuổi là giai đoạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cả đời người, là giai đoạn quan trọng đặt nền móng cho sự phát triển nhân cách toàn diện của trẻ. Tâm lí học Mácxít chỉ ra rằng, cuộc sống của con người là một chuỗi các hoạt động đan xen và kế tiếp nhau. Thông qua hoạt động và giao tiếp, con người tiếp thu, lĩnh hội những tri thức, kĩ năng, phát triển nhân cách. Vì vậy, muốn tồn tại và phát triển, con người phải tham gia vào hoạt động đa dạng trong thực tiễn cuộc sống. Trẻ em được xem là nhân vật trung tâm trong các hoạt động học ở trường mầm non. Quan hệ giữa giáo viên và trẻ em là quan hệ hợp tác, chia sẻ cùng học, cùng chơi, cùng khám phá. Cô tạo cơ hội, tạo điều kiện khích lệ trẻ tích cực, chủ động khám phá, phát hiện, giải quyết nhiệm vụ đặt ra và chỉ giúp đỡ trẻ khi thật cần thiết (hướng dẫn hành động, thao tác ban đầu hoặc khi trẻ còn lúng túng, vướng mắc...), nhờ vậy mà trẻ tích cực, độc lập, chủ động, tự tin và sáng tạo hơn trong quá trình hoạt động. Việt Nam có 54 dân tộc, mỗi dân tộc có ngôn ngữ riêng của dân tộc mình, nhưng tiếng Việt (ngôn ngữ của dân tộc Kinh) là ngôn ngữ phổ thông - ngôn ngữ chính dùng để giao tiếp xã hội. Khi vào trường phổ thông, trẻ em phải sử dụng tiếng Việt để học tập và sinh hoạt. Vì vậy muốn học tập có kết quả ở trường phổ thông, các em cần phải có vốn từ tiếng Việt phong phú, kĩ năng giao tiếp tiếng Việt vững vàng. Tiếng Việt ngoài chức năng là công cụ học tập và sinh hoạt ở trường phổ thông nó còn hỗ trợ đắc lực cho học sinh trong việc chiếm lĩnh những tri thức trong cuộc sống, thiết lập các mối quan hệ xã hội. Do vậy, trẻ em các dân tộc thiểu số, ngoài thành thạo tiếng mẹ đẻ, các em cần phải biết tiếng Việt và biết giao tiếp tiếng Việt. Những kiến thức sơ đẳng về tự nhiên, xã hội và cuộc sống xung quanh, ngay từ khi học ở trường mầm non trẻ em dân tộc thiểu số cần phải được học tiếng Việt và rèn kĩ năng giao tiếp tiếng Việt thông qua nhiều hoạt động trong đó hoạt động khám phá MTXQ. Khám phá MTXQ là một hoạt động có nhiều lợi thế trong việc giúp trẻ phát triển ngôn ngữ 2 và kĩ năng giao tiếp. Khi khám phá MTXQ, dưới sự tổ chức - hướng dẫn của cô, trẻ cùng nhau tìm hiểu, trao đổi với nhau về đối tượng khám phá, do vậy không chỉ giúp trẻ có những hiểu biết nhất định về MTXQ mà vốn từ, kĩ năng giao tiếp của trẻ cũng được phát triển. Trong thực tế ở các vùng dân tộc thiểu số nước ta, trình độ tiếng Việt của trẻ nhiều hạn chế. Điều này thể hiện rất rõ ở vốn từ tiếng Việt và kĩ năng giao tiếp tiếng Việt của trẻ em dân tộc thiểu số: vốn từ tiếng Việt nghèo nàn, phát âm còn ngọng, chưa có kĩ năng giao tiếp tiếng Việt... Nguyên nhân của sự hạn chế này có thể là do trẻ không được thường xuyên giao tiếp tiếng Việt và người lớn chưa thực sự quan tâm đến vấn đề giao tiếp tiếng Việt của trẻ. Đây là rào cản lớn trong việc tiếp thu, lĩnh hội tri thức cũng như sự tự tin, mạnh dạn trong sinh hoạt của trẻ. Như chúng ta đã biết, Đăk Lăk là một trong những tỉnh miền núi có 16 dân tộc anh em cùng sinh sống. Sau dân tộc Kinh, dân tộc Ê-đê là dân tộc có nhiều người cư trú ở Đăk Lăk, ngay trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột cũng có bốn buôn làng là người dân tộc Ê-đê. Năm học 2016 - 2017, thành phố Buôn Ma Thuột có khoảng 46 trường mẫu giáo. Trong đó tỉ lệ trẻ 5 - 6 tuổi người dân tộc Ê-đê chiếm khoảng 10%. Phần lớn trẻ đều gặp khó khăn trong việc giao tiếp tiếng Việt. Do vậy việc dạy trẻ dân tộc thiểu số nói chung, dân tộc Ê-đê nói tiếng Việt, giao tiếp tiếng Việt là rất cần thiết, giúp các em tự tin bước vào trường phổ thông. Từ những lí do trên, chúng tôi chọn thực hiện đề tài: Phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê qua hoạt động khám phá MTXQ ở trường mầm non. Hi vọng kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần làm phong phú thêm cơ sở lí luận và thực tiễn về việc phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số nói chung, trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc E-đê nói riêng. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và đánh giá thực trạng kĩ năng giao tiếp tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê ở trường mầm non tại thành phố Buôn Ma Thuột - tỉnh Đăk Lăk, đề xuất một số biện pháp tổ chức hoạt động khám phá 3 MTXQ nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Êđê ở trường mầm non, góp phần chuẩn bị cho trẻ vào Lớp 1. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Quá trình tổ chức hoạt động khám phá MTXQ cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Êđê ở trường mầm non. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu xây dựng một số biện pháp tổ chức hoạt động khám phá MTXQ nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê ở trường mầm non. 4. Giả thuyết khoa học Hoạt động khám phá MTXQ ở trường mầm non là một phương tiện cơ bản để phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê. Nếu xây dựng được những biện pháp tổ chức hoạt động khám phá MTXQ theo hướng tạo cơ hội cho trẻ được sử dụng tiếng Việt để giao tiếp với cô và với bạn trong quá trình khám phá MTXQ thì kĩ năng giao tiếp tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê sẽ được phát triển. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về biện pháp phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê qua hoạt động khám phá MTXQ ở trường mầm non. 5.2. Khảo sát thực trạng biện pháp phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê trong hoạt động khám phá MTXQ ở trường mầm non. 5.3. Đề xuất một số biện pháp tổ chức hoạt động khám phá MTXQ nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê. 5.4. Thực nghiệm sư phạm nhằm xác định hiệu quả và tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất. 6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 6.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu 4 Trong khuôn khổ của luận văn này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu những biện pháp tổ chức hoạt động khám phá MTXQ ở trường mầm non nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê. 6.2. Giới hạn về chọn mẫu nghiên cứu - Mẫu khảo sát thực trạng: Khảo sát 30 giáo viên mầm non và 100 trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê (50 trẻ em trai, 50 trẻ em gái). - Mẫu thực nghiệm: 4 giáo viên mầm non và 40 trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê. 6.3. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành ở 3 trường mầm non Tân Lập, Tân Lợi, Ea Tu thành phố Buôn Ma Thuột – Đắk Lắk. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận Nghiên cứu, phân tích, hệ thống hoá, khái quát hoá các vấn đề lí luận có liên quan nhằm xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài. 7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp quan sát: Quan sát những biểu hiện kĩ năng giao tiếp tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê trong hoạt động khám phá MTXQ ở trường mầm non và việc giáo viên sử dụng biện pháp tổ chức hoạt động khám phá MTXQ nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ. - Phương pháp đàm thoại: + Trò chuyện, trao đổi với giáo viên, cán bộ quản lí chuyên môn, để tìm hiểu các thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu. + Trò chuyện trực tiếp với trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê để tìm hiểu về đặc điểm giao tiếp; hứng thú, tính tích cực giao tiếp và kĩ năng giao tiếp tiếng Việt của trẻ; những khó khăn trong quá trình giao tiếp tiếng Việt của trẻ. - Phương pháp điều tra viết: Điều tra bằng phiếu Ankét các giáo viên mầm non dạy các lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê về nhận thức của họ về sự cần thiết phải phát triển kĩ năng 5 giao tiếp tiếng Việt cho trẻ và thực trạng sử dụng biện pháp tổ chức hoạt động khám phá MTXQ nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê của giáo viên. - Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: Nghiên cứu các sản phẩm hoạt động của cô và trẻ ở trường mầm non. (Kế hoạch tổ chức hoạt động khám phá MTXQ nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê của giáo viên và mức kĩ năng giao tiếp tiếng Việt của trẻ) - Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong các lĩnh vực tâm lí học, giáo dục học, dân tộc học và một số giáo viên có kinh nghiệm đang trực tiếp dạy các lớp có trẻ Ê-đê tại một số trường mầm non về những biện pháp tổ chức hoạt động khám phá MTXQ nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Khái quát hóa lí luận từ các văn bản tổng kết thực tiễn về các vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tổ chức thực nghiệm các biện pháp đã xây dựng trên trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê nhằm đánh giá hiệu quả và tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất trong đề tài nghiên cứu. 7. 3. Phương pháp xử lí số liệu Sử dụng một số công thức toán học thống kê (công thức tính tỉ lệ %, tính điểm trung bình cộng, xác định độ lệch chuẩn, kiểm định giá trị kết quả thống kê,… ) để lượng hoá kết quả nghiên cứu thực tiễn của đề tài. 8. Đóng góp mới của đề tài 8.1. Về lí luận - Hệ thống hóa cơ sở lí luận về vấn đề phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê qua hoạt động khám phá MTXQ ở trường mầm non và làm phong phú cơ sở lí luận về giáo dục trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê. 6 - Xác định được những tác động của giáo viên trong quá trình tổ chức hoạt động khám phá MTXQ cho trẻ ở trường mầm non đến việc phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê. - Xây dựng được một số biện pháp tổ chức hoạt động khám phá MTXQ ở trường mầm non nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê. 8.2. Về thực tiễn - Trên cơ sở điều tra, khảo sát thực tiễn, luận văn đã đánh giá một cách toàn diện, khách quan về thực trạng kĩ năng giao tiếp tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê, tìm ra những khó khăn khi trẻ giao tiếp tiếng Việt và các biện pháp giáo viên sử dụng để phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê khi tổ chức cho trẻ khám phá MTXQ ở trường mầm non. - Những biện pháp phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt được đề xuất và kiểm chứng qua thực nghiệm sư phạm có giá trị trong việc phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê. Đây có thể là tài liệu tham khảo hữu ích cho giáo viên, phụ huynh dân tộc thiểu số trong việc phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ em lứa tuối mầm non. 9. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, kết luận và kiến nghị, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê qua hoạt động khám phá MTXQ ở trường mầm non Chương 2: Thực trạng biện pháp tổ chức hoạt động khám phá MTXQ ở trường mầm non nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê Chương 3: Một số biện pháp tổ chức hoạt động khám phá MTXQ ở trường mầm non nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê và thực nghiệm - Danh mục tài liệu tham khảo. - Phụ lục. 7 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG GIAO TIẾP TIẾNG VIỆT CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI DÂN TỘC Ê - ĐÊ QUA HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ MÔI TRƯỜNG XUNG QUANH Ở TRƯỜNG MẦM NON 1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề Giao tiếp là một hiện tượng đặc trưng của xã hội loài người, nó là điều kiện tất yếu không thể thiếu trong cuộc sống, không có giao tiếp thì xã hội loài người không thể tồn tại với đúng nghĩa của nó. Chính vì vậy mà vấn đề giao tiếp đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước 1.1.1. Những nghiên cứu về giao tiếp và kĩ năng giao tiếp 8 Từ trước đến nay đề tài về giao tiếp luôn là đề tài hấp dẫn lôi cuốn nhiều nhà nghiên cứu, các nhà khoa học trong và ngoài nước thuộc các lĩnh vực khác nhau như: tâm lí học, giáo dục học, xã hội học, triết học.v.v… 1.1.1.1. Trên thế giới Từ thời cổ Hy Lạp, vấn đề giao tiếp được con người chú ý nghiên cứu như Xôcrat (470 - 399 TCN) và Platon (428 – 347 TCN) đã nói: “Đối thoại như là sự giao tiếp trí tuệ phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người”.[29; tr7] Tuy nhiên, trước thế kỉ XIX giao tiếp chưa được nghiên cứu như một môn chuyên ngành tâm lí học. Từ thế kỉ XIX, giao tiếp đã được đánh giá có tầm quan trọng đặc biệt trong sự hình thành và phát triển bản chất xã hội con người. Với các công trình: “Vấn đề giao tiếp, những đặc trưng của nó trong công việc của con người” của A.A.Bodalivo (1972) “Tâm lí học giao tiếp” của A.A.Lêonchiev (1974) “Giao tiếp là vấn đề của tâm lí học đại cương” (1978) của A.Ph.Lomov, Ở giai đoạn này, vấn đề giao tiếp được nghiên cứu và phân tích khá chi tiết dưới góc độ tâm lí học đại cương của A.Ph.Lomov trong chuyên thảo “Vấn đề giao tiếp trong tâm lí học” (1981). Và tiếp sau đó có hàng loạt những công trình nghiên cứu khác về giao tiếp. Và các công trình nghiên cứu đó chủ yếu đi theo hai hướng chủ đạo sau: + Hướng thứ nhất: Nhấn mạnh các khía cạnh thông tin trong giao tiếp: Đại diện cho các hướng này là các nhà khoa học, các nhà tâm lí: M.A.Acgain, K.K.Platonov, I.A.L.Kolominxki, L.P.Bueva, Laswell (1948), G.Thines(1975), V.N.Panpherov, N.Wiener (1971), G.Perdonici (1963)... Chẳng hạn như: K.K.Platonov và G.G.Golubev đã liệt giao tiếp vào một trong những “loại hình hoạt động” cho rằng: “Giao tiếp là sự trao đổi thông tin giữa con người với nhau” và “giao tiếp là sự tác động lẫn nhau trên cơ sở phản ánh tâm lí lẫn nhau” [29] 9 I.A.L.Kolominxki lại mô tả: “Giao tiếp là sự tác động qua lại có đối tượng và thông tin giữa con người với con người trong đó những quan hệ liên quan đến nhân cách được thực hiện, bộc lộ và hình thành” [Dẫn theo 3] Còn nhà nghiên cứu L.P.Bueva lại cho rằng: “Giao tiếp không chỉ là một quá trình tinh thần mà còn là quá trình vật chất, quá trình xã hội, trong đó diễn ra sự trao đổi các hoạt động, kinh nghiệm, sản phẩm của hoạt động” [Dẫn theo 33] B.D. Pasughin: “Giao tiếp là quá trình tác dụng lẫn nhau, trao đổi thông tin, ảnh hưởng lẫn nhau, hiểu biết và nhận thức lẫn nhau” [Dẫn theo 33] Gần đây, G.M.Andreva trong cuốn “Tâm lí học xã hội” đã cho rằng giao tiếp có ba mặt quan hệ hữu cơ với nhau: mặt thông tin, mặt tri giác của con người với nhau, mặt tác động qua lại của con người với nhau. [2] Tuy nhiên các nhà nghiên cứu theo hướng này chưa chỉ ra đặc điểm của đối tượng giao tiếp của con người được biểu hiện trong truyền thông, làm cho truyền thông trở nên tích cực hơn, và trở thành nội dung cơ bản của giao tiếp. + Hướng thứ 2: Nhìn nhận bản chất giao tiếp trong hệ thống các khái niệm, phạm trù tâm lí học Đại diện cho hướng này là các nhà tâm lí, giáo dục học A.A.Lêonchiev và B.Ph.Lomov. Hai nhà tâm lí học này đưa giao tiếp song song với hoạt động. Quan điểm xem giao tiếp là một dạng đặc biệt của hoạt động, hoặc có thể là điều kiện, phương thức của hoạt động bao gồm đầy đủ các thành phần trong sơ đồ cấu trúc của hoạt động: chủ thể- hoạt động- đối tượng. Đại diện tiêu biểu cho quan điểm này là A.A.Lêonchiev, thuộc trường phái hoạt động trong tâm lí học Xô viết. Quan điểm thứ hai xem giao tiếp là một phạm trù đồng đẳng với phạm trù hoạt động. Đại diện cho quan điểm này là B.Ph.Lomov. Ông định nghĩa: “Giao tiếp là một hệ thống những quá trình có mục đích và động cơ đảm bảo sự tương tác giữa người này với người khác trong hoạt động tập thể, thực hiện các quan 10 hệ xã hội và nhân cách, các quan hệ tâm lí và sử dụng các phương tiện đặc thù mà trước hết là ngôn ngữ.” [22] Tuy nhiên, đa số các nhà tâm lý học như G.M. Andreeva, D.B.Enconhin, K.K. Platonov, A.A. Bodalev… Cho rằng hai quan điểm nêu trên đều có mặt hợp lí và chưa hợp lí, chưa thỏa đáng. Hoạt động và giao tiếp gắn chặt với nhau, không thể hiểu đúng bản chất của giao tiếp nếu tách rời hoạt động. Đồng thời nếu tuyệt đối hóa bất cứ phạm trù nào đều dẫn đến sai lầm. 1.1.1.2. Ở trong nước Đến nay, giao tiếp đã trở thành nội dung nghiên cứu phổ biến trong nhiều lĩnh vực khác nhau và được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Khái quát các nghiên cứu về giao tiếp ở Việt nam có thể chia làm ba hướng như sau: + Hướng thứ nhất: Xem giao tiếp là một tiến trình truyền đạt thông tin: Các tác giả đã đề cập như: Nguyễn Văn Lê (1992), Nguyễn Khắc Viện (1995), Nguyễn Thị Phượng và Dương Quang Huy (1997), Trần Thị Minh Đức. Theo “Từ điển tâm lí học” của Nguyễn Khắc Viện. “Giao Tiếp là quá trình truyền đi, phát đi một thông tin từ một người hay một nhóm cho một người hay một nhóm khác, trong mối quan hệ tác động lẫn nhau (Tương tác). Thông tin hay thông điệp được phát mà người nhận phải giải mã, cả hai bên đều vận dụng một mã chung” [41]. Theo Trần Thị Minh Đức (chủ biên): “Giao tiếp là quá trình tiếp xúc giữa con người với con người nhằm mục đích nhận thức thông qua sự trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, sự ảnh hưởng tác động qua lại với nhau”[8]. + Hướng thứ 2: Xem giao tiếp là sự tiếp xúc tác động ảnh hưởng lẫn nhau: Theo hướng này có các tác giả: Phạm Minh Hạc (1988), Trần Trọng Thủy, Nguyễn Ngọc Bích (1995), Ngô Công Hoàn (1992), Nguyễn Thạc - Hoàng Anh (1992), Nguyễn Quang Uẩn (1998)… Tác giả Ngô Công Hoàn với vấn đề nghiên cứu: “Vấn đề giao tiếp” trong tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kì 92 - 96 cho GV tiểu học. 11 “Một số vấn đề tâm lí học về giao tiếp sư phạm” (1992) [14]; năm 1997 “Giao tiếp và ứng xử sư phạm” [13] đã đưa ra những đánh giá về vai trò của hoạt động giao tiếp trong giáo dục, đặc biệt tác giả này đã đưa ra những nhận định, phương pháp nhằm hình thành kĩ năng giao tiếp sư phạm cơ bản giúp cho giáo viên có thể tiếp cận và dạy học có hiệu quả hơn. 1.1.2. Những nghiên cứu về giao tiếp của trẻ mầm non 1.1.2.1. Trên thế giới Trước hết, trong tâm lí học Xô viết, L.X.Vugotxki đã đề cập từ những năm 30 trong chương trình: “ Sự phát triển của những chức năng tâm lí bậc cao”. Đặc biệt là từ những năm 70 đến nay, giao tiếp đã trở thành vấn đề quan trọng được nhiều nhà nghiên cứu tâm lí học quan tâm như: A. N. Leonchiev, DB. Enconin, A. V. Daparogiet. M. Lisana với cuốn “ Nguồn gốc của sự hình thành giao tiếp trẻ em” -1978, A.V. Daparogiet và M. Lisana “Sự phát triển giao tiếp ở trẻ mẫu giáo” – 1974, A. Uxova với “Vai trò của trò chơi trong giao dục trẻ em” - 1976, E.I. Chikiepva “Sự phát triển của trẻ trước tuổi học trò”- 1975…. Nhìn chung, hầu hết các công trình nghiên cứu kể trên đều đi sâu vào những vấn đề cơ bản của giao tiếp đó là: - Khẳng được vị thế, vai trò, ý nghĩa mang tính chất quyết định của giao tiếp trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. - Tìm ra được các chức năng quan trọng đặc biệt của giao tiếp đó là: Thông báo và tiếp nhận thông tin, giúp trẻ tiếp thu và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của loài người, giúp trẻ tìm hiểu khám phá thế giới xung quanh mình, thể hiện cảm xúc của mình với người khác, và hỗ trợ trong quá trình phối hợp hoạt động cùng nhau… - Kể ra được các dạng giao tiếp trẻ em. - Những con đường giao tiếp trẻ em. - Cách thức tổ chức hoạt động giao tiếp cho trẻ em. - Phương pháp nâng cao chất lượng hoạt động giao tiếp. 1.1.2.2. Ở trong nước 12 Vấn đề khái niệm giao tiếp, hình thành nhu cầu và kĩ năng giao tiếp của trẻ được phản ánh trong các công trình nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Ánh Tuyết, Nguyễn Thạc, Ngô Công Hoàn, Lê Xuân Hồng. Các tác giả đã cho thấy rằng giao tiếp có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển nhân cách toàn diện của trẻ. Đồng thời trong các tác phẩm đó, các tác giả cũng nêu lên được nhu cầu giao tiếp của trẻ em như thế nào, và đặc điểm về giao tiếp trẻ em qua từng độ tuổi khác nhau. Bên cạnh đó các tác giả cũng chỉ ra được các đối tượng giao tiếp của trẻ và tầm ảnh hưởng của các đối tượng đối với sự hình thành nhân cách của một đứa trẻ như trẻ giao tiếp với người lớn, với bạn cùng tuổi, bạn khác giới và với thế giới đồ vật. Mỗi đối tượng trẻ thể hiện một cách giao tiếp riêng biệt. Đặc biệt các tác giả này đều đề cao vai trò sư phạm của người giáo viên mầm non, đây là một đối tượng có sự ảnh hưởng trực tiếp rất lớn đến quá trình giao tiếp của đứa trẻ. Để từ đó các tác giả xây dựng nên các hình thức, phương pháp, môi trường…. nhằm góp phần hình thành cho trẻ kĩ năng giao tiếp (KNGT) tốt nhất có thể. Cùng chủ đề nghiên cứu về giao tiếp ở lứa tuổi trẻ em, năm 2003, tác giả Hoàng Thị Phương, nghiên cứu một số biện pháp giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa cho trẻ 5 đến 6 tuổi, giao tiếp được khai thác dưới góc độ hành vi văn hóa sơ đẳng nhưng là cơ bản, phổ biến, đặc trưng cho lứa tuổi mẫu giáo lớn. Đó là những kĩ năng mang tính nền tảng làm cơ sở để giáo dục và phát triển sau này cho trẻ thơ ở tuổi học tiểu học. [27] Nguyễn Ánh Tuyết cũng xuất bản cuốn “Giáo dục trẻ em trong nhóm bạn bè”, (1987) [37] “Sự hình thành xã hội trẻ em trước tuổi học” (1988) [38] với hai tác phẩm này thì tác giả đề cao vai trò của hoạt động nhóm, hoạt động tập thể trong đó hoạt động giao tiếp nắm vai trò chủ đạo có ý nghĩa quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách xã hội cho trẻ em trong suốt cuộc đời. Trong luận án PTS của Lê Xuân Hồng “Một số đặc điểm giao tiếp của trẻ mẫu giáo trong nhóm chơi không cùng độ tuổi” (1996) [16] và Nguyễn Xuân Thức: “Nghiên cứu tính tích cực về giao tiếp của trẻ 5 - 6 tuổi trong hoạt động 13 vui chơi” (1997) đã nêu được những đặc điểm cơ bản của giao tiếp của trẻ 5 - 6 tuổi khi tham gia các hoạt động nhóm và tập thể ở trường mầm non. Đề tài “Tính chủ động giao tiếp của trẻ em 5 - 6 tuổi” (1995) của hai tác giả Nguyễn Xuân Thức và Nguyễn Thạc cũng đã trình bày thực trạng mức độ tính chủ động giao tiếp của trẻ mẫu giáo và những biểu hiện cơ bản của tính chủ động giao tiếp. Từ đó tác giả đã xây dựng nên hệ thống một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực chủ động giao tiếp cho trẻ mầm non. [32]. 1.1.3. Những nghiên cứu về giao tiếp tiếng Việt của trẻ em dân tộc thiểu số Nhận thức rõ việc trang bị tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số (DTTS) có ảnh hưởng lớn tới kết quả học tập của trẻ ở lớp một và những năm học tiếp theo, vì vậy các địa phương đang tìm những giải pháp cụ thể để tăng cường dạy tiếng Việt ngay từ bậc học mầm non. Qua đó, chất lượng học tập của trẻ em DTTS ngày càng chuyển biến tích cực, học sinh mạnh dạn, tự tin và thích đến trường. Từ năm 2009, để góp phần khắc phục tình trạng bất đồng ngôn ngữ của học sinh khi đến trường, Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam đã thực hiện chương trình Bà mẹ trợ giảng (BMTG) tại hai huyện Tủa Chùa và Tuần Giáo của tỉnh Điện Biên. Là mô hình dạy trẻ mẫu giáo DTTS học tiếng Việt thông qua cầu nối tiếng mẹ đẻ, dưới sự hỗ trợ của những “bà mẹ”, trẻ được giải thích kiến thức mới của bài học, có cơ hội trao đổi suy nghĩ, nhận thức về môi trường chung quanh bằng tiếng mẹ đẻ. Từ đó, trẻ sẽ học được tiếng Việt một cách hiệu quả. Ở trường, giáo viên người Kinh không nói chuyện được với các em, vì vậy, với vai trò vừa là người giúp giáo viên truyền tải bài học sang tiếng dân tộc để cho các em hiểu, vừa hỗ trợ giáo viên khi gặp tình huống khó xử trong lớp và dạy trẻ tăng cường tiếng Việt. Theo Nguyễn Thị Hiếu, để nâng cao chất lượng dạy tiếng Việt cho trẻ em DTTS, đối với giáo dục mầm non, Bộ GD và ĐT đã xây dựng, ban hành một số tài liệu hỗ trợ giáo viên chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ. Hiện tại, Bộ GD và ĐT đang phối hợp các chuyên gia, các trường sư phạm và địa phương xây dựng tài liệu hướng dẫn tăng cường tiếng Việt dành cho cán bộ quản lí, giáo viên mầm non 14 cốt cán ở tất cả các tỉnh, thành phố có trẻ em người DTTS trên cả nước và nhân viên hỗ trợ ngôn ngữ, nhằm hỗ trợ về nội dung, phương pháp tăng cường giao tiếp tiếng Việt. 1.2. Những vấn đề chung về giao tiếp và kĩ năng giao tiếp 1.2.1. Giao tiếp 1.2.1.1. Khái niệm giao tiếp Giao tiếp là một hiện tượng tâm lí phức tạp và có nhiều mặt, nhiều cấp độ khác nhau. Có nhiều định nghĩa khác nhau về giao tiếp. Mỗi định nghĩa đều được dựa trên một quan điểm riêng và có hạt nhân hợp lí của nó. Dưới góc độ thông tin học, có tác giả cho rằng: Giao tiếp là một quá trình trao đổi và truyền đạt thông tin. Người đầu tiên đề cập đến vấn đề này là Weiner - nhà tâm lí học người Anh (1947), tiếp theo là nhà Xã hội học người Mỹ Laswell (1948), Georgen Thines và các cộng sự (1975) đã nêu “Giao tiếp được coi là sự truyền đạt thông tin, qua đó các trạng thái của hệ thống phát thông tin phát huy ảnh hưởng tới hệ thống nhận thông tin”. Thậm chí J. P Gruere (1982) đã đưa ra một định nghĩa mang tính vật lí về giao tiếp như sau: “Sự giao tiếp là một quá trình chuẩn trong đó một thông điệp được chuyển tải từ một bộ phát tới một bộ thu, thông qua một chuỗi các yếu tố được gọi là nguồn, kênh, địa chỉ” [Dẫn theo 34] “Là một tin nào đó được truyền từ điểm này sang điểm khác” G.A.Miller (1956) [Dẫn theo 34] Hạn chế của các định nghĩa trên là coi hoạt động giao tiếp như một chương trình được mã hóa, xem nhẹ yếu tố chủ thể, xem nhẹ mối liên hệ nhân cách của quá trình giao tiếp và hạn chế hoạt động sáng tạo của nhân cách. Dưới góc độ tâm lí học, giao tiếp được hiểu là hoạt động xác lập và vận hành các mối quan hệ người và người, hiện thực hóa quan hệ giữa người với nhau. Hiểu theo góc độ này có nhiều nhà tâm lí định nghĩa giao tiếp như sau: - K.K. Platonov định nghĩa: “Giao tiếp là những mối liên hệ có ý thức của con người trong cộng đồng xã hội loài người” [29] 15 - A.N. Lêonchiev - nhà tâm lí học Liên Xô cũ cho rằng: “Giao tiếp là một dạng đặc biệt của hoạt động nó có đầy đủ các đặc điểm cơ bản của hoạt động như tính mục đích, vận hành theo nguyên tắc gián tiếp”. [21] - B. PH. Lomov - nhà tâm lí học người Nga trong cuốn “Những vấn đề giao tiếp trong tâm lí học đại cương” coi giao tiếp là một phạm trù cơ bản và định nghĩa “Giao tiếp là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người với tư cách là chủ thể” [22] Ở Việt Nam, từ những năm 70 của thế kỉ XX trở lại đây, các nhà tâm lí học cũng rất quan tâm đến lĩnh vực giao tiếp, xem đó là một đối tượng quan trọng trong tâm lí học và lấy nó làm cơ sở hình thành nên chuyên ngành khoa học riêng về giao tiếp. - Phạm Minh Hạc định nghĩa: “Giao lưu là hoạt động xác lập và vận hành các quan hệ người - người để hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa người ta với nhau”. Giao lưu ở đây được tác giả dùng đồng nghĩa với giao tiếp. Đây chính là điều kiện, là nguồn gốc nảy sinh và phát triển tâm lí người. [10] - Theo tác giả Ngô Công Hoàn “Giao tiếp là sự tiếp xúc giữa con người với con người nhằm mục đích trao đổi tư tưởng, tình cảm, vốn sống kinh nghiệm, kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp” [13] - Nguyễn Quang Uẩn định nghĩa “Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lí giữa người với người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau” [43] - Nguyễn Thạc và Hoàng Anh định nghĩa về giao tiếp như sau: “giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ giữa con người với con người qua đó nảy sinh sự tiếp xúc tâm lí, được biểu hiện ở các quá trình thông tin, hiểu biết, rung cảm, ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau” [30] Từ điển tâm lí, do bác sĩ Nguyễn Khắc Viện chủ biên, Trung tâm Nghiên cứu tâm lí trẻ em, Hà Nội – 1991: “Giao tiếp là sự trao đổi giữa người với người thông qua ngôn ngữ nói, viết, cử chỉ. Ngày nay từ này hàm ngụ sự trao đổi thông 16 qua một bộ mã (code). Người phát tin mã hóa một số tín hiệu, người nhận tin giải mã, một bên truyền một ý nghĩa nhất định để bên kia hiểu được.” [41] Như vậy, dưới góc độ tâm lí học, các tác giả tuy chưa có sự đồng nhất về định nghĩa giao tiếp nhưng nhìn chung tất cả các khái niệm đều có nói lên được một số đặc điểm chung như sau: “Giao tiếp là sự tiếp xúc giữa người với người trong cộng đồng xã hội qua đó xác lập và hiện thực hóa các mối quan hệ xã hội của họ nhằm giúp họ thỏa mãn nhu cầu nhất định” Dưới góc độ ngôn ngữ học cũng có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về giao tiếp. - Theo từ điển tiếng Việt:“Giao tiếp là sự tiếp xúc trao đổi với nhau giữa con người với con người bằng ngôn ngữ” (1992), “Từ điển tiếng Việt”, Trung tâm từ điển Ngôn ngữ, Hà Nội. - Trong Đại từ điển tiếng Việt, tác giả Nguyễn Như Ý giải thích giao tiếp là “Sự thông báo hay truyền đạt thông báo nhờ một hệ thống mã nào đó” [44] - Theo Berge (1994), giao tiếp được hiểu như một “quá trình thông tin diễn ra giữa ít nhất là hai người giao tiếp trao đổi với nhau, gắn với một ngữ cảnh và một tình huống nhất định”. Như vậy giao tiếp cũng có thể định nghĩa như một thuật ngữ chỉ loại, bao trùm tất cả các thông điệp được phát ra được hiểu là tin đã được mã hóa thành lời nói hoặc lời viết, được truyện đi từ người phát đến người nhận. [Dẫn theo 33] - Diệp Quang Ban, Đinh Trọng Lạc (1991) cho rằng: “Giao tiếp là sự tiếp xúc với nhau giữa cá thể này với các thể khác trong một cộng đồng xã hội. Loài động vật không làm thành một xã hội vì chúng không có giao tiếp với nhau như loài ong, loài kiến” định nghĩa này cho thấy rằng giao tiếp chỉ xuất hiện trong cộng đồng người làm cho cộng đồng đó mang tính xã hội còn những loài khác không có giao tiếp thì bản thân nó chỉ được xem như là một quần thể, không hề có tính xã hội. [Dẫn theo 31] Hai tác giả Trần Trọng Thủy, Nguyễn Sinh Huy coi: Giao tiếp của con người là một quá trình có chủ định hay không chủ định, có ý thức hay không có 17 ý thức mà trong đó có các cảm xúc và tư tưởng được biểu đạt trong các thông điệp bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.” Trong định nghĩa này tác giả không chỉ đề cập đến đối tượng dùng để giao tiếp mà còn nêu lên cả phương tiện giao tiếp để tiến hành giao tiếp. Với định nghĩa này thì ngay cả khi trẻ không có ý thức (trẻ thiểu năng, bị hội chứng down) hay trẻ chưa có ý thức (trẻ dưới ba tuổi) vẫn có thể tham gia vào quá trình giao tiếp [34] . Tóm lại, có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau tùy theo từng góc độ về giao tiếp tuy nhiên các nhà nghiên cứu đều nêu bật lên được đặc điểm chung về giao tiếp như sau: Giao tiếp là hoạt động xác lập và vận hành các mối quan hệ giữa người với người nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định. Từ những định nghĩa trên đây chúng tôi hiểu: “Giao tiếp là sự tương tác giữa các cá nhân với nhau bằng phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ nhằm mục đích xác lập các mối quan hệ giữa người với người, qua đó các cá nhân trao đổi thông tin, biểu đạt và tiếp nhận thông tin, cảm xúc, tình cảm, các trạng thái, nhu cầu cá nhân với nhau và ảnh hưởng đến nhau, góp phần cho sự phát triển trí tuệ và nhân cách”. 1.2.1.2. Các chức năng của giao tiếp Có rất nhiều cách tiếp cận, phân tích chức năng của giao tiếp. Theo các nhà tâm lí học cá nhân giao tiếp thực hiên các chức năng sau: - Chức năng định hướng hoạt động. - Chức năng nhận thức (chức năng phản ánh). - Chức năng đánh giá và điều chỉnh Theo các nhà tâm lí học xã hội thì giao tiếp có hai chức năng cơ bản sau: - Chức năng liên kết. - Chức năng hòa nhập. Theo các nhà tâm lí học Xô viết B. F. Lomov & A.A.Bodaliov thì giao tiếp có ba chức năng cơ bản sau: - Chức năng nhận thức: Thông tin, thông báo. - Chức năng đánh giá thái độ. 18 - Chức năng điều chỉnh, điều khiển. Nhưng các nhà ngôn ngữ học cấu trúc thì cho rằng giao tiếp thực hiện các chức năng sau: - Chức năng nhận thức: Nhờ có chức năng này mà con người có thể truyền đạt, lĩnh hội các sự kiến, khái niệm, những giá trị trong quá trình giao tiếp. - Chức năng duy trì sự tiếp xúc: chức năng này giúp người giao tiếp có thể lấp chỗ trống khi tiến hành đối thoại. - Chức năng siêu ngôn ngữ: là chức năng rút gọn- nói ít, hiểu nhiều trong quá trình giao tiếp. - Chức năng quy chiếu: đòi hỏi chủ thể giao tiếp phải hiểu được đặc điểm, tâm lí của đối tượng giao tiếp để đảm bảo hiệu quả giao tiếp. - Chức năng thơ mộng: thể hiện trong các cuộc giao tiếp có tính chất văn hóa nghệ thuật. Theo Ngô Công Hoàn: nếu coi giao tiếp là một phạm trù của Tâm lí học hiện đại thì bản thân quá trình giao tiếp thực hiện các chức năng: - Chức năng định hướng hoạt động của con người. - Chức năng điều chỉnh, điều khiển hành vi của con người. Các quan điểm trên xuất phát từ những quan điểm khác nhau, những hướng nghiên cứu khác nhau nên cũng có những điểm khác nhau. Song các quan điểm trên đều đã nêu ra được các chức năng cơ bản của giao tiếp theo nhiều hướng tiếp cận khác nhau. Trong đề tài này, chúng tôi có cùng quan điểm với Ngô Công Hoàn. Đó là giao tiếp có hai chức năng cơ bản: - Chức năng định hướng hoạt động của con người. Đây chính là chức năng bao quát nhất, bất kì một sự tiếp xúc nào giữa con người với con người đều cần phải biết mục đích giao tiếp để làm gì? Như vậy cần chú ý đến những thay đổi nhỏ những biểu hiện của hành vi, cử chỉ, thái độ…. của chủ thể và đối tượng giao tiếp, để có những hành vi đáp lại phù hợp. 19 - Chức năng điều chỉnh, điều khiển hành vi của con người. Đây là chức năng hết sức quan trọng bởi lẽ nó hình thành ở trẻ những đức tính tốt, giúp trẻ biết cách điều khiển điều chỉnh hành vi của mình một cách phù hợp nhất. 1.2.1.3. Phương tiện giao tiếp Các phương tiện giao tiếp là cách thức để biến những mục đích giao tiếp thành hiện thực trong thực tế. * Phương tiện ngôn ngữ: Giao tiếp ngôn ngữ là sự giao tiếp được tiến hành thông qua hệ thống tín hiệu thứ hai: lời nói và chữ viết. Đây là hình thức giao tiếp đặc trưng cơ bản nhất trong hệ thống giao tiếp xã hội bởi nó có những chức năng: chức năng thông báo, chức năng diễn cảm và chức năng tác động. Giao tiếp ngôn ngữ có thể được biểu hiện qua nhiều hình thức. Trong giao tiếp, tuỳ vào đối tượng, mục đích, hoàn cảnh… mà người ta sử dụng các hình thức biểu đạt ngôn ngữ khác nhau. Theo như cách chia của trường phái Palo Alto thì có giao tiếp chỉ định và giao tiếp loại suy, hay bác sĩ Nguyễn Khắc Viện thì lại gọi là giao tiếp nói chỉ (chỉ định) và giao tiếp nói ví (loại suy). Trong tiếng Việt, tương ứng với các cách gọi như trên ta còn có thể gọi là hiển ngôn (nói chỉ) hay hàm ngôn (nói ví). - Kiểu nói chỉ theo những quy ước rõ ràng ngôn ngữ nói hay viết với từ vựng, ngữ nghĩa nhất định. Ngôn ngữ toán học, vi tính, chữ người mù thuộc kiểu này. - Kiểu nói ví vận dụng giọng nói, tư thế, cử chỉ tức những kênh cận ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ diễn tả tình cảm, và những yếu tố chủ quan, quan hệ cảm xúc giữa hai bên đối thoại. Ở đây không có những chỉ báo nói rõ mạch lạc, khung cảnh, bối cảnh. Giữa hai kiểu này có thể ăn khớp hay không và mọi sự giao tiếp đều diễn ra trong một bối cảnh nhất định. - Ngôn ngữ tình thái (Ngôn ngữ biểu cảm về trạng thái tình cảm của người nói) nhằm phản ánh khía cạnh tâm lí, xã hội của chủ thể, giúp cho đối tượng hiểu được tốt hơn ý nghĩa của nội dung thông tin. Ngôn ngữ tình thái phản ánh thái độ của người nói đối với thông tin mình nói ra, cách người đó đánh giá tính 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan