Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn phối hợp giữa nhà trường với cộng đồng trong giáo dục phòng chống các t...

Tài liệu Luận văn phối hợp giữa nhà trường với cộng đồng trong giáo dục phòng chống các tệ nạn xã hội xâm nhập vào các trường thpt thành phố vĩnh long

.PDF
115
464
87

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, xã hội Việt Nam chịu ảnh hưởng của cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. Cơ chế thị trường đã làm cho đời sống kinh tế xã hội ngày càng tăng trưởng, nhưng kéo theo đó là nhiều tệ nạn cũng tăng lên như nghiện ngập, cờ bạc, lô đề, trộm cướp, gian dối, lừa đảo, mại dâm… Các tệ nạn này như một bệnh dịch lan truyền cả vào chốn học đường và một số học sinh đã trở thành nạn nhân của nó. Các tệ nạn mà học sinh thường mắc phải là nói tục, chửi thề, hành xử có tính chất bạo lực, nghiện game, hút thuốc lá, nghiện ma túy, gian lận trong học tập, thậm chí cả cờ bạc. Trong các trường THCS tại thành phố Vĩnh Long, số học sinh vi phạm các tệ nạn nói trên có chiều hướng gia tăng. Điều đáng lo ngại là hiện tượng nói tục chửi thề khá phổ biến trong học sinh, cả nam lẫn nữ. Nhiều bạn có thói xấu khó bỏ: hễ mở miệng là phải chửi thề rồi nói gì mới nói, coi đó là chuyện bình thường, bất chấp phản ứng của mọi người xung quanh. Có khi còn cho đó là dấu hiệu, là đặc điểm của “dân chơi sành điệu”. Các bạn ấy thích “sáng tạo” ra những từ mới, cách phát âm mới không theo một chuẩn mực nào, cho dù nó chướng tai đến đâu cũng mặc. Tệ nạn gian dối trong học tập và thi cử hiện nay đã đến mức báo động. Số học sinh trung thực và có tính tự trọng trở thành “quý hiếm” và thường phải chịu bất công vì kẻ lười nhác, học dốt mà kết quả học tập, thi cử chẳng kém gì mình, có khi còn cao hơn nhờ những trò gian dối như mở tài liệu hay quay cóp… Tác hại của phim ảnh, sách truyện, băng đĩa… có nội dung không lành mạnh đối với lứa tuổi học trò cũng rất đáng sợ. Nếu thường xuyên đọc mục “Kí sự pháp đình” trên báo Tuổi trẻ hay theo dõi báo Pháp luật, chúng ta sẽ thấy có những học sinh phải đứng trước vành móng ngựa, bị kết án tù vì đánh bạn, thậm chí giết chết bạn vì những nguyên nhân chẳng đáng kể như: hỏi mượn một cái gì đó mà bạn không cho, đòi chép bài kiểm tra mà bạn không đưa cho chép, thậm 1 chí có khi chỉ vì một cái nhìn. Câu trả lời lạnh tanh của một phạm nhân là học sinh đã đánh bạn đến chết trước Tòa: “Thích thì đánh” là dấu hiệu cảnh báo nạn bạo lực trong học đường cần phải được ngăn chặn và loại trừ tận gốc. Học sinh THCS là lứa tuổi tò mò, hiếu động, thích khám phá, tìm hiểu nhưng chưa phân biệt nổi đúng sai nên dễ dàng trở thành đối tượng tấn công của các tệ nạn xã hội. Ban đầu, tệ nạn xã hội đến với tuổi thanh, thiếu niên một cách rất tình cờ. Học sinh thường bắt chước những điều mắt thấy tai nghe ngoài đời hay nhìn thấy trên phim ảnh, sách báo mà không phân tích, nhận xét đó là tốt hay là xấu. Thấy các anh thanh niên phì phèo điếu thuốc lá trên môi với vẻ sành điệu, thế là bắt chước. Bạn bè xấu rủ rê hút thử, hít thử “cho biết cảm giác lạ”, một lần, hai lần… thế là thích, là thèm, thiếu không chịu được, rồi nghiện lúc nào không hay. Tệ nạn xã hội gây ra những tác hại ghê gớm cho bản thân, gia đình và xã hội về nhiều mặt: tư tưởng, đạo đức, nhân cách, tình cảm, kinh tế, sức khỏe… Đây là nguy cơ trước mắt và lâu dài không chỉ của một cá nhân mà là của cả dân tộc và đất nước.Khi một ai đã nhiễm phải một tệ nạn nào đó thì rất khó từ bỏ hoặc muốn dứt bỏ nó thì phải mất rất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc.Nói tục, chửi thề làm mất danh dự của cá nhân, chứng tỏ mình là người thiếu giáo dục, vô văn hóa. Gian lận trong học hành thi cử dần dần làm thoái hóa nhân cách, không còn tính tự trọng, tự lập, tạo cho mình thói lười nhác, ỷ lại, đối phó, lừa mình,…và tất yếu trở thành kẻ bất tài, vô dụng. Chơi lô đề, cờ bạc là tự hủy hoại cuộc đời vì ông bà xưa đã đúc kết: Cờ bạc là bác thằng bần, cửa nhà bán hết tra chân vào cùm. Hết tiền thì đi vay, đi mượn, dối trá, lừa đảo… để rồi mắc vào vòng tù tội.Nghiện hút thuốc lá, hê-rô-in vừa tốn tiền bạc vừa hại sức khỏe, vừa dễ mắc các căn bệnh hiểm nghèo ảnh hưởng xấu tới giống nòi. Chúng ta cần phải có những biện pháp tích cực để ngăn chặn, đẩy lùi và tiến tới chấm dứt các tệ nạn xã hội trong xã hội nói chung, học đường nói riêng.Trước hết nhà trường cần kết hợp chặt chẽ với gia đình và xã hội, thường 2 xuyên tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của học sinh trong việc phòng chống tệ nạn.Sau đó là có các hình thức hoạt động vui chơi bổ ích, lành mạnh để cuốn hút và đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần phong phú của học sinh.Bên cạnh đó, mỗi học sinh phải biết cách giữ mình trước sự cám dỗ ghê gớm của các tệ nạn, chọn bạn tốt để chơi và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Nếu tất cả học sinh chúng ta cùng đồng thanh nhất trí nói “Không” với các tệ nạn thì chắc chắn môi trường học tập sẽ trong sáng và bản thân mỗi người sẽ giữ gìn được nhân phẩm cao quý của mình, vững bước tiến tới tương lai trên con đường đúng đắn mà mình đã chọn. Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, là một giáo viên, chúng tôi nhận thấy việc góp phần vào công tác giáo dục phòng chống các tệ nạn xã hội xâm nhập vào trường học nói chung, các trường THCS nói riêng ở thành phố Vĩnh Long là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của người làm công tác giáo dục. Đó là lý do tại sao chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài này. 2.Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực trạng của công tác phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng trong giáo dục phòng, chống tệ nạn xã hội xâm nhập vào các trường THCS vào các trường THCS thành phố Vĩnh Long, đề tài đề xuất một số biện pháp phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng trong giáo dục phòng chống tệ nạn xã hội xâm nhập vào các trường THCS thành phố Vĩnh Long. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Sự phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng trong giáo dục phòng chống tệ nạn xã hội xâm nhập vào các trường THCS thành phố Vĩnh Long. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Các biện pháp phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng trong giáo dục phòng chống tệ nạn xã hội xâm nhập vào các trường THCS thành phố Vĩnh Long. 4. Giả thuyết khoa học 3 Việc phối hợp giáo dục phòng chống các tệ nạn xã hội xâm nhập vào các trường THCS thành phố Vĩnh Long còn có những hạn chế. Nếu thực hiện được những biện pháp phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng trong giáo dục phòng chống các tệ nạn xã hội thông qua việc tuyên truyền; giáo dục có sự liên kết giữa nhà trường, gia đình và xã hội; xem giáo dục là quốc sách hàng đầu sẽ đẩy lùi được các tệ nạn xã hội xâm nhập vào các trường THCS thành phố Vĩnh Long. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về việc phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng trong giáo dục phòng chống tệ nạn xã hội xâm nhập vào học đường ở các trường THCS: Trường THCS Lê Quí Đôn, THCS Nguyễn Trường Tộ và THCS Nguyễn Trãi 5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng trong giáo dục phòng chống các tệ nạn xã hội ở các trường THCS thành phố Vĩnh Long. 5.3. Đề xuất một số biện pháp phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng trong giáo dục phòng chống tệ nạn xã hội xâm nhập vào các trường THCS thành phố Vĩnh Long. 6. Phạm vi nghiên cứu -Phạm vi địa bàn nghiên cứu: Trường THCS Lê Quí Đôn, THCS Nguyễn Trường Tộ và THCS Nguyễn Trãi thuộc thành phố Vĩnh Long. - Phạm vi thời gian nghiên cứu: Từ năm 2014-2016 - Phạm vi nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng trong giáo dục phòng chống các tệ nạn xã hội xâm nhập vào các trường THCS Thành phố Vĩnh Long. (Chủ yếu là các tệ nạn ma túy, cờ bạc, trộm cắp, đánh nhau, hút thuốc lá, quan hệ nam nữ tuổi vị thành niên, chơi điện tử). 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1.Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa...những tri thức lí luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu thông qua đọc các văn bản, tài liệu. Nghiên cứu hồ sơ, các số liệu cụ thể, các tổng kết đánh giá, các kết quả thu được qua các chương trình hành động của lực lượng công an, của các ban ngành liên quan, tình hình vi phạm các tệ nạn xã hội của học sinh (Tài liệu do Bộ công an, Bộ 4 giáo dục công bố). Qua đó thấy được những điều đã đạt được và chưa đạt được của xã hội trong công tác đấu tranh phòng chống các tệ nạn nói chung cũng như trong trường học nói riêng. 7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn 7.2.1. Phương pháp quan sát Quan sát thực trạng hoạt động học tập, vui chơi, giao lưu của học sinh THCS ở các trường Lê Quí Đôn, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Trãi trên địa bàn Thành phố Vĩnh Long để thấy rõ nguyên nhân mắc các TNXH, quan sát các đối tượng học sinh có nghi vấn, quan sát công tác phối hợp giữa nhà trường với cộng đồng trong giáo dục phòng, chống các tệ nạn xã hội xâm nhập vào các trường THCS nêu trên trong những năm học 2014-2015 và 2015-2016. 7.2.2. Phương pháp phỏng vấn Phương pháp này dùng để hỗ trợ cho kết quả nghiên cứu được chính xác hơn. Phỏng vấn chuyên viên phòng giáo dục phụ trách công tác ngoại khóa và thể chất, Hiệu trưởng, Tổng phụ trách đội ở các trường THCS nói trên, các cán bộ đoàn thể ở một số phường thuộc địa bàn Thành phố Vĩnh Long. 7.2.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi Sử dụng bảng hỏi với hệ thống câu hỏi đối với học sinh, hỏi những hiểu biết về TNXH.Sử dụng bảng hỏi đối với giáo viên và hiệu trưởng về các biện pháp phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng trong giáo dục phòng chống các TNXH xâm nhập vào nhà trường THCS. 7.2.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm Qua thực tế giáo dục học sinh về việc phòng chống các TNXH xâm nhập vào các trường THCS trên địa bàn Thành phố Vĩnh Long, trên cơ sở đó chúng tôi tổng kết kinh nghiệm về việc phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng trong giáo dục phòng chống các TNXH xâm nhập vào nhà trường THCS nói chung và đặc biệt cho các trường THCS Lê Quí Đôn, Nguyễn Trường Tộ và Trường THCS Nguyễn Trãi. 7.2.5. Phương pháp chuyên gia 5 Tham khảo ý kiến của các đồng chí cán bộ đoàn thể, chuyên viên phòng GD&ĐT, cán bộ quản lý ở các trường trên địa bàn Thành phố Vĩnh Long. 7.3. Phương pháp thống kê toán học Phương pháp này được sử dụng để xử lý số liệu thu được từ phương pháp phỏng vấn và điều tra. 8. Cấu trúc luận văn Luận văn có cấu trúc gồm các phần: Mở đầu Chương 1: Cơ sở lí luận về việc phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng trong giáo dục phòng chống tệ nạn xã hội xâm nhập vào các trường THCS. Chương 2: Thực trạng công tác phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng trong giáo dục phòng chống tệ nạn xã hội xâm nhập vào các trường THCS Thành phố Vĩnh Long. Chương 3: Biện pháp phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng trong giáo dục phòng chống tệ nạn xã hội xâm nhập vào các trường THCS thành phố Vĩnh Long. Kết luận và kiến nghị Tài liệu tham khảo Phụ lục 6 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỐI HỢP GIỮA NHÀ TRƯỜNG VÀ CỘNG ĐỒNG TRONG GIÁO DỤC PHÒNG CHỐNG TỆ NẠN XÃ HỘI XÂM NHẬP VÀO CÁC TRƯỜNG THCS 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề Tệ nạn xã hội (TNXH) là một căn bệnh xã hội làm cản trở bước tiến của loài người. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, ở mỗi quốc gia, TNXH đã gây ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội. Đặc biệt vào những thập niên cuối thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, khi nền kinh tế thị trường phát triển, cùng với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực thì tệ nạn xã hội càng có cơ hội phát sinh, phát triển và gây tác hại không nhỏ về kinh tế, chính trị, an ninh, sức khoẻ đạo đức, lối sống, thuần phong mỹ tục của các quốc gia trong đó có Việt Nam. Vì lẽ đó, vấn đề phòng chống TNXH đã trở thành mối quan tâm của các quốc gia, tổ chức trên thế giới. Liên hiệp quốc, tổ chức cảnh sát quốc tế ( INTERPOL ) và các tổ chức quốc tế khác đã tổ chức nhiều hội nghị quốc tế, nhiều hoạt động nghiên cứu khoa học và xuất bản nhiều ấn phẩm, công trình nghiên cứu liên quan vấn đề phòng chống TNXH. Không nằm ngoài tình hình chung của thế giới, trong những năm qua, Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về TNXH của các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu của Bộ Công an, Bộ Lao động,Thương binh và Xã hội, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia…đã có nhiều công trình nghiên cứu về phòng, chống NXH và tội phạm với nhiều nội dung, gốc độ và khía cạnh khác nhau về TNXH. Điển hình là các đề tài của các tổ chức và tác giả sau đây: 7 - Đề tài KX 0414 của Tổng cục Cảnh sát - Bộ Công an nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân và giải pháp phòng chống TNXH và tội phạm năm 2000; - TNXH và các giải pháp đấu tranh phòng chống (Phạm Văn Đức- năm 1993); - Tệ nạn xã hội ở Việt Nam: thực trạng, nguyên nhân và giải pháp (Lê Thế Tiệm và đồng nghiệp- năm 1994); - Mại dâm và phòng chống mại dâm ( Bùi Toản - Tạp chí Công an Nhân dân số 5- năm 1996 ); - Phòng chống tệ nạn cờ bạc, số đề trong tình trạng hiện nay (Nguyễn Xuân Yêm - Tạp chí Công an Nhân dân số 6 – năm 1996); - Phòng chống ma tuý trong nhà trường ( Vũ Ngọc Bừng, 1994 ); - Tăng cường đấu tranh phòng chống TNXH bằng pháp luật trong giai đoạn hiện nay ( Luận án Tiến sĩ Luật học, Phan Đình Khánh bảo vệ năm 2001 tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh ); - Quản lý giáo dục học sinh phòng chống ma túy tại các trường THCS huyện Kiến Xương, Tỉnh Thái Bình (Luận văn Thạc sĩ, Mai Thành Khởi bảo vệ tại trường Đại học Quốc gia- năm 2012). - Hiểm hoạ ma tuý và cuộc chiến mới (GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, TS. Trần Văn Luyện, Nguyễn Thị Kim Liên, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội- năm 2003). - Các tài liệu, băng hình, bài viết,.... trong các hội nghị, hội thảo đăng trên tạp chí của ngành Công an, Toà án, Kiểm sát, Viện nghiên cứu Nhà nướcvà Pháp luật thuộc Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Uỷ ban Quốc gia phòng chống AIDS; Vụ Công tác Học sinh, Sinh viên Bộ GD & ĐT; Các bài giảng trong một số Học viện, nhà trường. Các công trình nghiên cứu, các bài viết, các tài liệu trên đã tập trung đi sâu nghiên cứu những vấn đề xoay quanh TNXH, đặc biệt quan tâm tới nguyên nhân dẫn đến TNXH, thực trạng TNXH ở nước ta hiện nay, những tác hại về mọi mặt của TNXH đối với bản thân người mắc nói riêng và cả xã hội nói chung. Trên cơ 8 sở đó, các tác giả đã đưa ra các giải pháp nhằm ngăn chặn phòng ngừa, hạn chế sự xâm nhập, phát sinh, phát triển các TNXH. Những nghiên cứu này đã đóng góp không nhỏ trong việc trang bị những hiểu biết, những kiến thức cơ bản về TNXH, góp phần tuyên truyền, giáo dục nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên, HS phòng chống TNXH. Hiện nay TNXH đang xuất hiện len lỏi vào các lĩnh vực, các môi trường, các đối tượng,... của xã hội và GD cũng không nằm ngoài thực trạng ấy. Tuy nhiên các công trình kể trên hầu hết đi sâu nghiên cứu những vấn đề chung về TNXH, rất ít công trình dành riêng cho công tác phòng chống TNXH xâm nhập vào đời sống học đường, nhất là đề cập đến thực trạng TNXH xâm nhập vào nhà trường. Tại thành phố Vĩnh Long,trong những năm gần đây bên cạnh cái được là tốc độ đô thị hoá nhanh thì thực trạng TNXH cũng đang ở mức báo động.Đặc biệt là tình trạng TNXH xâm nhập vào các trường THCS thành phố Vĩnh Long và có nguy cơ xâm nhập vào các trường ngày càng cao. Một phần nguyên nhân của thực trạng trên là do đội ngũ làm công tác giáo dục học sinh ở các trường THCS thành phố Vĩnh Long chưa có cơ sở lí luận cũng như chưa đầu tư một cách đúng mức cho công tác giáo dục học sinh phòng chống các TNXH xâm nhập vào nhà trường. Đề tài của tôi là sự tiếp nối những nghiên cứu về sự phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng trong giáo dục phòng chống TNXH xâm nhập vào các trường THCS nhằm góp phần đưa ra những biện pháp hữu hiệu nhất trong công tác phòngchống TNXH xâm nhập vào các trường THCS của thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. 2. Giáo dục phòng chống tệ nạn xã hội 2.1. Khái niệm giáo dục phòng chống tệ nạn xã hội 2.1.1. Khái niệm về giáo dục Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử-xã hội của thế hệ loài người, nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh 9 hoa văn hóa dân tộc và nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó mà xã hội loài người không ngừng tiến lên”. Hoạt động giáo dục là quá trình tác động để hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ theo mục đích xã hội, quá trình này thực hiện qua các con đường: dạy học, các hoạt động, qua sinh hoạt tập thể và tự tu dưỡng. Giáo dục bao gồm dạy học và giáo dục theo nghĩa hẹp. Giáo dục theo nghĩa hẹp là quá trình tổ chức cuộc sống, hoạt động và giao lưu cho học sinh, nhằm giúp họ nhận thức đúng, tạo lập tình cảm và thái độ đúng, hình thành những thói quen, hành vi văn minh trong cuộc sống, phù hợp với chuẩn mực xã hội. Hiện nay, trên thế giới đang phải đối mặc với những vấn đề lớn của thời đại như: hòa bình, dân số, môi trường, tệ nạn xã hội, chất lượng cuộc sống,... Để giáo dục thế hệ trẻ thành những con người mới có khả năng và bản lĩnh thích ứng cao với những biến động của xã hội hiện đại, giáo dục trong nhà trường hiện nay đã được bổ sung những nội dung mới cho phù hợp, cần thiết như: Giáo dục môi trường, giáo dục dân số, giới tính, phòng chống ma túy, bạo lực học đường, giáo dục giá trị và giáo dục quốc tế. Như vậy, trong giai đoạn hiện nay, giáo dục phòng chống TNXH là một trong những nội dung không thể thiếu được nhằm mục đích định hướng và phát triển hoàn thiện nhân cách toàn diện cho học sinh. 2.1.2. Khái niệm về tệ nạn xã hội Theo từ điển bách khoa Công an Nhân dân Việt Nam: “Tệ nạn xã hội là một hiện tượng xã hội tiêu cực, có tính phổ biến, biểu hiện bằng những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo đức và gây hậu quả nghiêm trọng trong đời sống cộng đồng”. Tệ nạn xã hội là một hiện tượng xã hội bao gồm những hành vi sai lệch chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực xã hội có tính phổ biến thể hiện qua các phạm vi có tính nguyên tắc về lối sống, truyền thống, văn hóa, đạo đức, trái với thuần phong mỹ tục, và những quy tắc được thể chế hóa bằng pháp luật như:Thói hư, 10 tật xấu; Phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu; Nếp sống xa đoạ truỵ lạc, mê tín đồng bóng, bói toán... gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho đời sống kinh tế văn hóa và đạo đức xã hội. Xem xét khái niệm trên ta thấy, hành vi TNXH có những đặc điểm sau: - Hành vi sai lệch theo hướng tiêu cực so với những chuẩn mực xã hội về pháp luật, đạo dức, lối sống, phong tục, tập quán đang được xã hội tôn trọng và tuân theo. - Hành vi sai lệch có tính phổ biến, lặp lại nhiều lần, không phải là một hiện tượng đơn lẻ, cá biệt, có xu hướng phát triển, lây lan nhanh chóng trong xã hội. - Hành vi sai lệch thường có nhiều chủ thể, nhiều đối tượng tham gia ở các lĩnh vực của đời sống ( kinh doanh, dịch vụ, văn hóa, giáo dục, ...) - Hành vi thuộc TNXH gây ra những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng và tác động xấu đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ( kinh tế, chính trị, tư tưởng tình cảm, lối sống, đạo đức, an ninh trật tự, an toàn xã hội,...). 2.1.3. Khái niệm giáo dục phòng chống tệ nạn xã hội Giáo dục phòng chống TNXH là giáo dục cho con người hiểu và có ý thức trong việc đấu tranh loại trừ TNXH ra khỏi đời sống xã hội đồng thời đòi hỏi phải có sự tham gia của các cấp, các ngành, của toàn thể xã hội. Trong đó, lực lượng cơ sở có một vai trò, vị trí rất quan trọng. Đây là lực lượng chủ công, nòng cốt tuyên truyền, hướng dẫn quần chúng nhân dân và trực tiếp thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các biện pháp theo chức năng, nhiệm vụ của mình để phòng chống tệ nạn xã hội trên địa bàn. Giáo dục phòng, chống TNXH là việc các cơ quan của Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân bằng nhiều biện pháp nhằm khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của tình trạng mắc nhiễm TNXH nhằm ngăn chặn, hạn chế và làm giảm từng bước, tiến tới loại trừ TNXH ra khỏi đời sống xã hội. Giáo dục phòng chống TNXH là phương hướng chính là tư tưởng chỉ đạo trong công tác đấu tranh phòng, chống TNXH, ngăn chặn không để TNXH xảy 11 ra; thể hiện bản chất nhân đạo của chế độ xã hội mới, không để người dân bị mắc phải những TNXH và bị xử lý bằng pháp luật. Việc giáo dục phòng chống TNXH mang ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc, làm tốt công tác phòng chống TNXH giúp giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của xã hội, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, phẩm giá của mọi người dân. Làm tốt công tác giáo dục phòng chống TNXH cũng mang ý nghĩa kinh tế sâu sắc, tiết kiệm ngân sách Nhà nước, sức lao động của các nhân viên Nhà nước, của công dân trong các hoạt động điều tra tuy tố xét xử, cũng như trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến TNXH. 2.2. Một số thành tố cơ bản của quá trình giáo dục phòng, chống tệ nạn xã hội 2.2.1. Mục đích giáo dục phòng chống tệ nạn xã hội Giáo dục phòng chống tệ nạn xã hội là để mọi người hiểu và ngăn ngừa chặn đứng không để cho tệ nạn xã hội phát sinh, phát triển, lan rộng trên địa bàn, từng bước xoá bỏ dần những nguyên nhân điều kiện của tệ nạn xã hội, góp phần xây dựng đời sống văn hoá lành mạnh, bảo vệ thuần phong mỹ tục của dân tộc. Mặc khác phát hiện, đấu tranh, xử lý nghiêm minh những hành vi hoạt đông tệ nạn xã hội góp phần giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. 2.2.2. Nội dung giáo dục phòng chống tệ nạn xã hội Công tác phòng chống tệ nạn xã hội là quá trình Nhà nước cùng các ngành, các cấp, các đoàn thể, tổ chức xã hội và mọi công dân ( trong đó lực lượng công an là nòng cốt) tiến hành đồng bộ các biện pháp nhằm phát hiện, ngăn chặn, loại trừ các tệ nạn xã hội. Nghiêm cấm mọi hình thức hoạt động tệ nạn xã hội, xử lý thích đáng những tên hoạt động chuyên nghiệp, hoạt động có ổ nhóm, những tên cầm đầu hoặc tổ chức lôi kéo người khác đi vào con đường tệ nạn xã hội. Chủ động phòng ngừa ngăn chặn không để tệ nạn xã hội lây lan phát triển gây tác hại đến 12 đời sống nhân dân và trật tự, an toàn xã hội. Giáo dục cải tạo những người mắc tệ nạn xã hội làm cho trở thành công dân có ích cho xã hội Trong quá trình đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội, Nhà nước ta luôn chú trọng đến việc nâng cao vai trò, hiệu quả của pháp luật và đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh công tác này như: tội chứa mại dâm: tội môi giới mại dâm; tội mua dâm người chưa thành niên; tội đánh bạc; tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc; các tội phạm về ma tuý.. Để làm tốt công tác giáo dục phòng chống TNXH chúng ta cần thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục và xem đó là nhiệm vụ thường xuyên. Đảm bảo có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường với địa phương và gia đình học sinh. Phát huy hiệu quả vai trò, tấm gương đạo đức của CBGVNV và sự chủ động, tích cực của HS trong công tác phòng chống tệ nạn ma túy trong nhà trường và cộng đồng. Hình thức tuyên truyền phải đa dạng, phong phú, có sự đổi mới. Nội dung tuyên truyền phải đảm bảo sâu rộng, phù hợp với địa bàn, đối tượng, lứa tuổi và gắn với nội dung thực hiện cuộc vận động: “Xây dựng nhà trường văn hóa, nhà giáo mẫu mực, học sinh thanh lịch”. Nội dung tuyên truyền chủ yếu gồm: + Tuyên truyền nâng cao nhận thức của học sinh về phòng chống các TNXH. + Các văn bản quy phạm pháp luật về phòngchống TNXH và các quy định khác có liên quan. + Các khái niệm cơ bản về TNXH, tình hình phát triển, lây lan và tác hại của TNXH. + Giáo dục học sinh có lối sống lành mạnh, kỹ năng ứng xử, ý thức trách nhiệm và hành động kiên quyết không tham gia vào các TNXH. + Ý thức tự giác khai báo về những TNXH nhen nhóm trong nhà trườnghoặc các phần tử xấu bên ngoài nhà trường có ý định lôi kéo học sinh tham gia vào các TNXH. 13 + Ý thức trách nhiệm của CBGVNV và HS trong việc chống TNXH ngăn chặn TNXH xâm nhập vào nhà trường, gia đình và xã hội. 2.2.3. Phương pháp và hình thức giáo dục phòng chống tệ nạn xã hội Xây dựng kế hoạch và thường xuyên quan tâm quán triệt cho CB.CNV và quần chúng nhân dân chấp hành đúng mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước. Mọi hoạt động giáo dục và đào tạo của các nhà trường trên địa bàn thành phố thực hiện theo đúng quy định của Nhà nước; Phương pháp và hình thức giáo dục phòng, chống tệ nạn xã hội được tiến hành theo hai hướng cơ bản sau: + Hướng thứ nhất: Phát hiện, khắc phục, hạn chế và đi đến thủ tiêu các hiện tượng xã hội tiêu cực là những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến TNXH. Đây là hướng mang tính cơ bản, chiến lược và lâu dài. + Hướng thứ hai: Hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả, tác hại của TNXH. Đây cũng là một hướng quan trọng không thể xem nhẹ, bởi trong thực tế những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển TNXH vẫn tồn tại, hoạt động phòng chống TNXH còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết nên TNXH vẫn xẩy ra. Hướng này đòi hỏi các cơ quan chức năng phối hợp kịp thời phát hiện, điều tra, đề ra biện pháp khắc phục những TNXH. Phòng chống TNXH mang tính đồng bộ, hệ thống và có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân. Mục đích của công tác phòng chống TNXH là khắc phục, thủ tiêu các nguyên nhân, điều kiện của TNXH nhằm ngăn chặn, hạn chế, làm giảm từng bước tiến tới loại trừ TNXH này ra khỏi đời sống xã hội Có kế hoạch cụ thể và chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng, các tổ chức đoàn thể trong việc triển khai thực hiện chương trình phòng chống các TNXH; có nhiều biện pháp phòng ngừa phát hiện và ngăn chặn kịp thời những tác động tiêu cực trong việc sử dụng Internet, trò chơi điện tử, các tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, ghi đề hoặc các hoạt động xấu và không lành mạnh trong địa 14 bàn. Kịp thời kiến nghị với công an xã và chính quyền địa phương có biện pháp kiểm tra, giám sát, xử lý những biểu hiện phức tạp về các TNXH, gây tác động xấu đến quần chúng nhân dân, đặc biệt là lứa tuổi thanh thiếu niên, học sinh, nghiêm cấm tuyệt đối việc tham gia các trò chơi games bạo lực, hoạt động đánh bài trong và ngoài giờ học; Thường xuyên đẩy mạnh, tăng cường công tác giáo dục định hướng nắm bắt về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức lối sống cho toàn thể CB CNV và quần chúng nhân dân, nâng cao tinh thần cảnh giác cho CB CNV và quần chúng nhân dân đối với âm mưu và các hoạt động chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch, từ đó nâng cao nhận thức đúng đắn về các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước. Coi đây là nhiệm vụ quan trọng trong việc giáo dục phòng chống TNXH trên địa bàn . Chỉ đạo thường xuyên, nhắc nhở, động viên các đoàn thể, các tổ chức chính trị, xã hội trong địa bàn nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp, đấu tranh có hiệu quả trong phòng chống các TNXH. Đẩy mạnh hoạt động phòng chống các TNXH, tạo điều kiện tốt nhất cho việc tổ chức các hoạt động lành mạnh như: Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao trong địa bàn… Tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân ủng hộ và chăm sóc những người đã từng phạm tội và gia đình của họ, đồng thời tạo điều kiện cho mọi người dân tham gia vào các hoạt động phòng chống TNXH góp phần làm giảm kỳ thị và phân biệt đối xử đối với người đã từng mắc lỗi;Treo băng rôn, panô, khẩu hiệu về phòng chống TNXH tại các phường trong địa bàn Thành phố Vĩnh Long và các trường để tạo ra phong trào quần chúng sâu rộng, sự đồng tâm hợp lực của cả hệ thống chính trị và của toàn dân tham gia vào công cuộc phòng chống TNXH ở nước ta nói chung và “Phong trào toàn dân tham gia phòng, chống TNXH tại cộng đồng dân cư” nói riêng; Hàng năm có tổng kết để đánh giá kết quả thực hiện công tác phòng chống TNXH cũng như việc thực hiện Luật phòng chống các TNXH đồng thời 15 có sự định hướng cho công tác phòng chống TNXH trong thời gian tới. Khen thưởng, biểu dương các tập thể và cá nhân có thành tích trong công tác phòng chống các TNXH. 3. Giáo dục phòng chống tệ nạn xã hội xâm nhập vào các trường THCS 3.1. Các loại TNXH có thể xâm nhập vào nhà trường 3.1.1. Ma túy Theo từ điển Tiếng Việt: “Ma túy là tên gọi chung các chất có tác dụng gây trạng thái ngây ngất, đờ đẫn, dùng quen sẽ thành nghiện.” Năm 1982, Tổ chức y tế thế giới ( TWO ) định nghĩa: “ Ma túy theo nghĩa rộng là mọi thực thể hóa học hoặc là những thực thể hỗn hợp, khác với tất cả những cái được đòi hỏi để duy trì một sức khỏe bình thường, việc sử dụng những cái đó sẽ làm biến đổi chức năng sinh học.” Tại điều 2 Luật phòng chống ma túy được Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 8 nước ta thông qua ngày 9 tháng 2 năm 2000 quy định: 1. Chất ma túy là chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành. 2. Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, để gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng. 3. Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng. Theo tác giả Nguyễn Vũ Trung thì: “ Ma túy là một số chất tự nhiên hoặc chất tổng hợp ( hóa học ), khi đưa váo cơ thể người dưới bất cứ hình thức nào sẽ gây ức chế hoặc kích thích mạnh hệ thần kinh, làm giảm đau hoặc có thể gây ảo giác.” Từ những định nghĩa trên ta có thể tóm lược như sau: Ma túy là các chất tự nhiên hoặc nhân tạo khi đưa vào cơ thể người, nó tác dụng và làm thay đổi sức khỏe, trạng thái, ý thức, tâm lý đối với người sử dụng. Nếu lạm dụng việc sử dụng ma túy sẽ làm cho người đó lệ thuộc và gây ra những tổn hại đối với người sử dụng và cộng đồng. 3.1.2. Cờ bạc 16 Theo từ điển Tiếng Việt- NXB Khoa học Xã hội 1994 thì cờ bạc là trò chơi ăn thua bằng tiền. Hành vi “cờ bạc” được hiểu là bất kỳ hình thức nào được ăn thua bằng tiền mặt hoặc dùng hiện vật để gán nợ, hiện vật có thể là tài sản, hàng hóa như: vàng, bạc, đất đai, nhà cửa, xe cộ,…Các hình thức đánh bạc có thể là: đánh bài ba cây, tổ tôm, sóc đĩa, bi da, cá cược ăn tiền qua bóng đá, chọi gà,… Tại điều 10 của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam quy định những biện pháp cấp bách bài trừ một số TNXH nghiêm trọng đã chỉ ra các hành vi đánh bạc bao gồm: 1. Đánh bạc dưới mọi hình thức: sóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tu lơ khơ, ba cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế và các hình thức khác. 2. Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử, bóng tay, bi da hoặc dùng các hình thức phương tiện khác. 3. Tham gia cá cược ăn tiền trong các môn thể thao vui chơi, giải trí như: đua ngựa, chọi gà, bóng đá… và mọi hình thức cá cược ăn tiền khác. 4. Mua bán đề, lô số đề Tác hại của tệ nạn số đề: Người chơi cờ bạc dễ giảm sút sức khỏe do thức thâu đêm, suốt sáng, lười lao động, kinh tế gia đình, bản thân khánh kiệt, vỡ hạnh phúc, nảy sinh nhiều tệ nạn khác. 3.1.3. Trò chơi điện tử Trò chơi điện tử là những trò chơi được chơi trên thiết bị điện tử, thường gọi là “game”.Ngày nay trò chơi điện tử được đầu tư hết sức phong phú, đa dạng. Một loại trò chơi điện tử thật sự tạo nên một cơn “địa chấn” trong giới học sinh mà ta không thể không nói đến là “game online” (trò chơi trực tuyến) bởi hình ảnh đồ họa 3D sắc nét, người chơi có thể trực tiếp thi thố tài năng với nhau thông qua điều khiển các nhân vật ảo, vừa chơi game, vừa chat, có thể chuyển nhượng các món đồ trong game (đồ ảo). Chính bởi tính đa dạng của trò chơi điện tử mà nó lôi cuốn hấp dẫn mọi lứa tuổi, đặc biệt là thanh niên, học sinh. Những tác hại của trò chơi điện tử: 17 - Tốn thời gian: Để tiêu diệt một quái vật hay vượt qua một cửa ải trong trò chơi, người chơi phải mất một vài tiếng đồng hồ, nên nhiều học sinh đã bỏ học, trốn tiết, thậm chí bỏ nhà, quên cả ăn ngủ, sao nhãng học hành. - Tốn tiền bạc: Với giá trung bình là 3000đ/1 giờ, nếu một ngày chơi năm tiếng thì một năm sẽ tiêu hết 5.400.000đ nghĩa là một tháng cũng mất sắp xỉ 450.000đ. - Ảnh hưởng tới sức khỏe và trí óc: Chơi game liên tục khiến đầu óc mệt mỏi, bỏ ăn, quên ngủ, khiến cơ thể rã rời, đờ đẫn. Đã có không ít trường hợp vì quá mê game mà đột quỵ, suy nhược cơ thể,… - Chơi game ảnh hưởng tới nhân cách con người và các mối quan hệ xã hội: Nội dung các game bạo lực là cảnh các nhân vật tàn sát, tiêu diệt đồng loại, kích động hận thù. Vào 17/5/2010 “Sát thủ” Nguyễn Đức Nghĩa sinh viên trường Đại học Ngoại thương Hà Nội quê ở Kiên An, Hải Phòng đã giết bạn gái một cách dã man, hắn trả lời là học trên phim và game online. Ngày 12/462013 Toàn án Nhân dân Thành Phố Cần Thơ đã tuyên phạt bị cáo Phạm Văn Trọng(sinh 1993, sinh viên Ngành Khoa học cây trồng, thuộc Khoa Nông nghiệp và Khoa học ứng dụng, Đại học Cần Thơ mức án 7 năm tù về tội “giết người” để được tham gia Hội chơi game trên mạng. Đó là những bằng chứng về ảnh hưởng của chơi game. Như vậy, có thể nói rằng trò chơi điện tử, Internet, công nghệ thông tin hiện đại của nhân loại đã bị biến tướng trở thành một TNXH trong học sinh, sinh viên vào con đường tội lỗi, thất học. 3.1.4. Trộm cắp Là hành động lấy của cải vật chất của người khác hoặc của công một cách lén lút khi vắng người. Đây là một tệ nạn có từ xa xưa ở khắp nơi trên thế giới với những kẻ lười biếng, không chịu lao động nhưng lại muốn sống sung sướng, giàu có nhanh chóng. Trộm cắp là bạn đồng hành của ma túy, cờ bạc, số đề, trò chơi điện tử. 3.1.5. Bạo lực học đường 18 Trước đây bạo lực học đường chỉ xảy ra bình thường với các hình thức đơn giản như các hành động chửi bới hay xúc phạm lăng mạ, xỉ nhục hoặc chà đạp nhân phẩm,làm tổn thương về mặt tinh thần con người bằng những lời nói. Hoặc một hình thức khác là đánh đập tra tấn trực tiếp lên thân thể khiến sức khỏe bị tổn hại, và việc bạo lực chỉ xảy ra qua các hành động đấm đá hoặc gậy gộc. Nhưng hiện nay hình thức bạo lực học đường lại táo bạo hơn nhiều với những hung khí như dao kéo khiến khả năng thương tích lớn hơn gây ra xây xát, chảy máu, tinh thần hoảng loạn, chấn động tâm lý…Ngoài ra thì nữ sinh cũng có hình thức bạo lực vô cùng chà đạp nhân phẩm đó chính là lột áo, quay clip để xỉ nhục.. . Đây cũng chính là một hồi chuông cảnh báo cho nên giáo dục trong nước hiện nay. Cần có những biện pháp giáo dục tốt hơn đối với các em học sinh 3.2. Khái niệm giáo dục phòng chống tệ nạn xã hội xâm nhập vào học đường Ngày nay khi công nghệ thông tin có bước phát triển nhảy vọt, nền kinh tế thị trường phát triển mạnh kéo theo nhiều tệ nạn của xã hội hiện đại và chúng đang có nguy cơ xâm nhập ngày càng nhiều vào các nhà trường gây tâm lý lo lắng cho những người làm công tác giáo dục, đội ngũ giáo viên và các bậc phụ huynh. Thực tế cho thấy những năm gần đây, các tệ nạn xã hội đã xâm nhập học đường, các đối tượng xấu tìm mọi cách để lôi kéo học sinh, đã có những trường hợp học sinh sử dụng ma túy, chơi điện tử, hút thuốc lá, bạo lực học đường ( đánh nhau ), cờ bạc, trộm cắp, quan hệ nam nữ tuổi vị thành niên…… Nhằm giảm đến mức thấp nhất ảnh hưởng của các loại tệ nạn xã hội đến học sinh, ngành Giáo dục đã có nhiều biện pháp để ngăn chặn tệ nạn xã hội xâm nhập học đường. Trong nhà trường, việc giáo dục phòng, chống TNXH xâm nhập nhà trường là nâng cao nhận thức trong đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh về tác hại của TNXH đối với bản thân, gia đình và xã hội, để cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh có kỹ năng tự phòng ngừa, đồng thời nâng cao ý thức 19 trách nhiệm trong công tác đấu tranh phòng chống ma túy, kiên quyết không để ma túy có cơ hội xâm nhập vào trường học. Giáo dục phòng chống tệ nạn xã hội xâm nhập vào các trường THCS là giáo dục đến học sinh hiểu và phòng chống những hành vi vi phạm pháp luật, những hành vi sai lệch so với những chuẩn mực xã hội xảy ra trong trường học. Là chương trình giáo dục tác động vào nhận thức, thái độ, hành vi của mọi người, đặc biệt là học sinh lứa tuổi THCS nhằm giúp người học có những hiểu biết về các tệ nạn xã hội, về tác hại, nguyên nhân, về cách phòng ngừa. Trên cơ sở đó có những hoạt động tích cực góp phần ngăn chặn các TNXH, đảm bảo sức khỏe, nhân cách, đạo đức và sự phát triển, an toàn của mỗi người, mỗi gia đình và toàn nhân loại. 3.3. Các thành tố cơ bản của quá trình giáo dục phòng, chống tệ nạn xã hội xâm nhập vào học đường 3.3.1. Mục đích giáo dục phòng chống tệ nạn xã hội xâm nhập vào học đường Công tác phòng chống TNXH cho học sinh là một trong những công tác giáo dục pháp luật nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh. Lực lượng tham gia công tác giáo dục trong nhà trường không ai khác chính là các cấp quản lý giáo dục , những người làm công tác giáo dục và các tổ chức đoàn thể,chính trị xã hội trong nhà trường. Giáo dục phòng chống tệ nạn xã hội xâm nhập vào các trường THCS là xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện.. Tăng cường các biện pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng chống TNXH, thực hiện các buổi sinh hoạt chuyên đề nhằm nâng cao nhận thức, ý thức của học sinh trong việc “nói không với hành vi bạo lực và tệ nạn xã hội”; phát huy vai trò của học sinh trong việc ngăn chặn TNXH và hành vi bạo lực xảy ra đối với bản thân, bạn bè để có biện pháp xử lý kịp this; nhất là tệ nạn ma túy, cờ bạc, trộm cướp, gian dối,lừa đảo, … trong học sinh, kiên quyết không để các TNXH trên 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan