Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn quản lý bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên trường tiể...

Tài liệu Luận văn quản lý bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên trường tiểu học quận thanh xuân, hà nội trong bối cảnh đổi mới giáo dục

.PDF
118
1721
82

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Ở bất kì quốc gia nào, đội ngũ giáo viên luôn đóng vai trò là nòng cốt của sự nghiệp giáo dục, là lực lượng quan trọng hàng đầu trong đổi mới giáo dục, bởi vì họ là nhân tố biến các mục tiêu giáo dục thành hiện thực. UNESCO đã nói về vị thế quan trọng của nhà giáo như sau: “Sự tiến bộ trong giáo dục phụ thuộc phần lớn vào trình độ và năng lực của đội ngũ nhà giáo nói chung và phẩm chất về mặt nhân văn, sư phạm và kĩ thuật của cá nhân nhà giáo (109, Điều 4). Đảng và Nhà nước ta luôn đề cao vị trí, vai trò của đội ngũ giáo viên, xem giáo viên như là khâu then chốt để đổi mới hệ thống giáo dục. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI năm 2011 đã xác định: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lí giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục là khâu then chốt” [9]. 1.2. Bước vào thế kỉ 21, với sự phát triển nhanh chóng của tri thức nhân loại trên mọi lĩnh vực, người giáo viên cần phải được cập nhật kiến thức, kĩ năng để đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy học và dạy học có hiệu quả. Ở Việt Nam, việc bồi dưỡng nâng cao năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên lại càng cần hơn bao giờ hết khi đất nước đang tiến hành đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược phát triển giáo dục là nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí. Để đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục cần có đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, có đạo đức nghề nghiệp, có năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu mới. 1.3. Chất lượng đội ngũ giáo viên phụ thuộc vào chất lượng của quá trình đào tạo ở các trường sư phạm và phụ thuộc vào công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ trong quá trình giảng dạy. Tuy nhiên, được 1 đào tạo nghề nghiệp cơ bản trong các trường sư phạm mới chỉ là đào tạo ban đầu để có được những kiến thức và kĩ năng sư phạm cần thiết cho nhiệm vụ dạy học. Mặt khác, giáo dục và môi trường giáo dục luôn thay đổi, đòi hỏi người giáo viên phải có những kiến thức và kĩ năng mới. Bởi vậy, trong quá trình công tác họ cần thường xuyên phải tích lũy kinh nghiệm, nâng cao năng lực dạy học và giáo dục để thực hiện các mục tiêu giáo dục. Trong bối cảnh đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, giáo dục phổ thông đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực người học đòi hỏi người giáo viên không những chỉ có kiến thức, kĩ năng sư phạm cơ bản mà còn phải nắm vững sâu và rộng kiến thức và thành thạo các kĩ năng đó. 1.4. Thực tiễn giáo dục của nhà trường trong những năm qua cho thấy, đội ngũ giáo viên nói chung và giáo viên Tiểu học nói riêng, phần lớn có phẩm chất công dân tốt, có tinh thần trách nhiệm, kiên trì, vượt khó vì sự nghiệp giáo dục, đặc biệt là những giáo viên ở vùng khó khăn. Tuy nhiên, một số giáo viên đang chỉ dừng lại ở chức năng dạy chữ, dạy kiến thức, nắm được tinh thần, yêu cầu, logic của nội dung dạy học ở sách giáo khoa, nhưng chưa nắm vững tính chỉnh thể của chương trình, thiếu kĩ năng giúp học sinh vận dụng kiến thức môn học vào thực tế, chưa thành thạo trong việc sử dụng các phương pháp dạy học và sử dụng phương tiện dạy học hiện đại, nhất là phương pháp dạy học để phát triển năng lực người học; thiếu kiến thức và kĩ năng đánh giá kết quả giáo dục toàn diện theo tinh thần phát triển năng lực người học. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, đội ngũ giáo viên hiện nay cần được bồi dưỡng để hiểu được những yêu cầu của đổi mới giáo dục, nắm bắt được chương trình sách giáo khoa mới và đặc biệt là phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá mới nhằm phát triển năng lực của học sinh cũng như có được những kĩ năng cần thiết của giáo viên thế kỉ 21. 2 1.5. Cùng với sự phát triển của giáo dục cả nước, giáo dục của quận Thanh Xuân những năm gần đây có sự phát triển vượt bậc, luôn đứng trong “tốp đầu” thành phố Hà Nội về thành tích giáo dục và đào tạo. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác bồi dưỡng giáo viên, ngành Giáo dục Thanh Xuân căn cứ theo Quy chế bồi dưỡng thường xuyên giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên ban hành kèm theo Thông tư số 26/2012/TT-BGDĐT ngày 10 tháng 7 năm 2012, hàng năm đã triển khai thực hiện kế hoạch bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên các cấp. Nội dung chương trình bồi dưỡng đối với giáo viên Tiểu học đúng theo quy định trong Chương trình bồi dưỡng thường xuyên giáo viên Tiểu học ban hành kèm theo Thông tư số 32/2011/TT-BGDĐT ngày 8 tháng 8 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT. Nhìn chung, công tác bồi dưỡng giáo viên tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế. Nội dung bồi dưỡng chưa bám sát nhu cầu người học, mới tập trung vào một phần của kiến thức môn học, còn nhẹ về kĩ năng sư phạm. Hình thức bồi dưỡng vẫn nghe giảng với số lượng lớn học viên, phương pháp bồi dưỡng vẫn thuyết trình là chính. Vấn đề tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ, năng lực nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên chưa được tổ chức một cách có hệ thống. Đặc biệt, công tác quản lí bồi dưỡng chưa có những giải pháp mang tính đặc thù theo thực tế địa phương để mang lại hiệu quả bồi dưỡng như mong muốn. Xuất phát từ những lí do trên, tác giả chọn đề tài: "Quản lí bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên trường tiểu học quận Thanh Xuân, Hà Nội trong bối cảnh đổi mới giáo dục” để nghiên cứu, nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, chất lượng dạy học của các trường tiểu học quận Thanh Xuân nói riêng và thành phố Hà Nội nói chung. 2. Mục đích nghiên cứu 3 Trên cơ sở nghiên cứu lí luận về quản lí bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho giáo viên Tiểu học, đánh giá thực trạng quản lí bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên trường Tiểu học quận Thanh Xuân, luận văn đề xuất một số biện pháp quản lí bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho giáo viên trường Tiểu học nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên trường Tiểu học. 3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lí bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên trường Tiểu học quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. 4. Giả thuyết khoa học Trong thời gian qua công tác quản lí bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên trường Tiểu học đã được thực hiện có hiệu quả, nhưng đứng trước yêu cầu đổi mới giáo dục một cách toàn diện như hiện nay vẫn còn bộc lộ bất cập và hạn chế. Nếu nghiên cứu đề xuất và áp dụng các biện pháp quản lí bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho giáo viên trường Tiểu học phù hợp hơn với yêu cầu đổi mới giáo dục, phù hợp với điều kiện của cơ sở giáo dục sẽ nâng cao được chất lượng đội ngũ giáo viên, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục Tiểu học trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Nghiên cứu vấn đề lí luận về quản lí bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên trường Tiểu học. 5.2. Đánh giá thực trạng bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp của giáo viên Tiểu học và thực trạng quản lí bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên Tiểu học trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. 4 5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lí bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên trường Tiểu học quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay. 5.4. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của biện pháp quản lí bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên trường Tiểu học. 6. Phạm vi nghiên cứu 6.1. Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho giáo viên Tiểu học. 6.2. Về không gian: Đề tài nghiên cứu bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho giáo viên trường Tiểu học quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. 6.3. Về thời gian: Các giải pháp được đề xuất trong luận văn có ý nghĩa từ nay đến những năm trước mắt. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận - Nghiên cứu các tư liệu, các tài liệu; phân tích và tổng hợp tài liệu; phân loại, hệ thống hóa, khái quát hóa,...các tài liệu lí luận, các công trình nghiên cứu, các văn bản liên quan cho việc xây dựng cơ sở lí luận của đề tài. - Các văn bản pháp quy như: chỉ thị, thông tư, quy chế, hướng dẫn,... của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo về phát triển năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên. - Kinh nghiệm thực tế của các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà quản lí giáo dục đề cập đến công tác quản lí bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên. 7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn 5 - Phương pháp quan sát: Nghiên cứu thực trạng về trình độ chuyên môn, chất lượng và kết quả đánh giá năng lực nghề nghiệp của giáo viên tiểu học. - Phương pháp điều tra: Xây dựng các mẫu phiếu điều tra nhằm thu thập thông tin có liên quan đến công tác bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho giáo viên Tiểu học quận Thanh Xuân, từ đó xác định tính cần thiết, tính khả thi của các biện pháp đề xuất. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: nhằm xác định rõ hiện trạng (điểm mạnh và những hạn chế) về năng lực nghề nghiệp giáo viên Tiểu học từ đó đề xuất các biện pháp bồi dưỡng năng lực đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. 7.3. Nhóm phương pháp xử lí thông tin Sử dụng các công thức toán thống kê như số trung bình cộng, số trung vị, hệ số tương quan Spiec man, Pearson,... để xử lí kết quả nghiên cứu, trên cơ sở đó rút ra các nhận xét khoa học về bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp và hoạt động quản lí bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho giáo viên trường tiểu học. 8. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và các phụ lục, luận văn được trình bày trong 3 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận về quản lí bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên trường Tiểu học trong bối cảnh đổi mới giáo dục. Chương 2: Thực trạng quản lí bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho giáo viên trường Tiểu học quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Chương 3: Biện pháp quản lí bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên trường Tiểu học quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội trong bối cảnh đổi mới giáo dục. 6 Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÍ BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC NGHỀ NGHIỆP CHO ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRƯỜNG TIỂU HỌC TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC 1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề 1.1.1. Nghiên cứu về quản lí bồi dưỡng giáo viên phổ thông Công tác quản lí hoạt động bồi dưỡng giáo viên đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc quyết định hiệu quả và chất lượng bồi dưỡng. Hàng năm, Bộ GD&ĐT thực hiện các chương trình bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên để nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Thông tư số 26/2012/TT-BGDĐT ngày 10 tháng 7 năm 2012 về việc ban hành Quy chế bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên phổ thông [6], trong đó nhấn mạnh việc quản lí bồi dưỡng thường xuyên, cụ thể: Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên theo năm học, bao gồm: kế hoạch của giáo viên, nhà trường, phòng GD&ĐT, Sở GD&ĐT; Tổ chức biên soạn và cung ứng tài liệu bồi dưỡng thường xuyên với nội dung bồi dưỡng ở địa phương; Thực hiện việc thanh, kiểm tra; Bố trí kinh phí và tổng kết báo cáo kết quả bồi dưỡng thường xuyên hàng năm. Quy chế quy định việc phân cấp quản lí hoạt động bồi dưỡng, trong đó hiệu trưởng nhà trường đóng một vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn giáo viên xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai kế hoạch bồi dưỡng của nhà trường theo thẩm quyền và trách nhiệm được giao. Tác giả Hà Thế Truyền và Đặng Thị Thanh Huyền đã phân tích một trong những năng lực lãnh đạo trường học của hiệu trưởng đáp ứng yêu cầu đổi mới là: “Hiệu trưởng có kế hoạch tổ chức bồi dưỡng, hỗ trợ chuyên môn cho giáo viên; khuyến khích giáo viên tích cực học hỏi, thường xuyên dự giờ, trao đổi chia sẻ kinh nghiệm chuyên môn, thiết lập quy trình, công cụ giám sát, đánh giá khen thưởng hợp lí nhằm thúc đẩy giáo viên cải thiện, nâng cao chuyên môn” [32, tr.264-265]. 7 Theo Nguyễn Thị Bình cùng nhóm tác giả: “Công tác quản lí hoạt động bồi dưỡng phải được hoạch định về kế hoạch, mục tiêu, nội dung, phương thức tổ chức và các điều kiện triển khai hiệu quả. Hoạt động bồi dưỡng giáo viên phải được quản lí từ cấp Trung ương đến cấp tỉnh, huyện, trường học. Trong đó, cấp Trung ương có vai trò đề xuất chủ trương, hoạch định chính sách, chiến lược, kiểm tra đánh giá; cấp tỉnh, huyện là cấp trung gian; cấp trường quản lí thao tác” [8]. Các tác giả Thái Duy Tuyên và Nguyễn Hồng Sơn chỉ ra rằng: “Để hoạt động bồi dưỡng có hiệu quả cần thiết lập chính sách bồi dưỡng hợp lí nhằm tạo điều kiện khuyến khích giáo viên tự học, nâng cao trình độ, cần có chính sách khen thưởng để để động viên khuyến khích giáo viên tham gia bồi dưỡng” [30]. Tác giả Lục Thị Nga cho rằng: Tự bồi dưỡng là một trong những phương thức quan trọng nhất để nâng cao năng lực nghề nghiệp của giáo viên và đưa ra 5 nhóm giải pháp cơ bản để quản lí tốt hoạt động tự bồi dưỡng: “Nhóm 1: Đổi mới nhận thức, thái độ của giáo viên về vai trò chủ thể của họ trong hoạt động tự bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm; Nhóm 2: Chuyển giáo viên từ người bị quản lí chuyển thành người tự quản lí hoạt động tự bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm; Nhóm 3: Đa dạng hóa hình thức tổ chức tự bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm của giáo viên; Nhóm 4: Xây dựng điều kiện thuận lợi cho giáo viên tự bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm có hiệu quả; Nhóm 5: Tổ chức cho giáo viên tự giám sát, tự kiểm tra đánh giá hoạt động tự bồi dưỡng, tăng cường giám sát và động viên khen thưởng kịp thời” [26]. 1.1.2. Nghiên cứu về quản lí bồi dưỡng giáo viên tiểu học Phát triển đội ngũ giáo viên mạnh về số lượng và cả chất lượng là vấn đề cốt lõi của việc phát triển giáo dục. Chính vì lẽ đó, vấn đề xây dựng, phát triển đội ngũ luôn được các nhà nghiên cứu, các nhà quản lí giáo dục đề cập trong các công trình nghiên cứu khoa học. Giáo trình giảng dạy của trường 8 Đại học sư phạm Hà Nội, Học viện quản lí giáo dục, Viện khoa học giáo dục, …cũng đã có những công trình nghiên cứu giảng dạy về chuyên đề phát triển nhân sự trong ngành giáo dục. Bên cạnh những tác giả nghiên cứu sâu sắc về các hoạt động bồi dưỡng giáo viên phổ thông kể trên, có một số luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lí giáo dục cũng đã đề cập đến vấn đề phát triển đội ngũ, bồi dưỡng giáo viên ở các trường Tiểu học như: 1. Nguyễn Thị Thúy: Một số giải pháp quản lí nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên Tiểu học ở huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, luận văn Thạc sĩ QLGD – 2011. 2. Bùi Quang Vinh: Quản lí hoạt động bồi dưỡng giáo viên Tiểu học của Phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay, luận văn Thạc sĩ QLGD – 2012. 3. Lê Thị Hương: Biện pháp phát triển đội ngũ Cán bộ quản lí giáo dục trường Tiểu học tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020, luận văn Thạc sĩ QLGD – 2013. 4. Đào Xuân Thắng: Biện pháp quản lí phát triển đội ngũ giáo viên Tiểu học huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình đến năm 2020, luận văn Thạc sĩ QLGD – 2013. 5. Phạm Minh Thúy: Phát triển đội ngũ giáo viên Tiểu học trên địa bàn quận Ba Đình dựa trên chuẩn nghề nghiệp, luận văn Thạc sĩ QLGD – 2013. Trong 5 luận văn nghiên cứu về phát triển về đội ngũ giáo viên Tiểu học nói trên, mỗi đề tài nghiên cứu trên một phạm vi khác nhau, thời gian khác nhau, đối tượng cán bộ quản lí, giáo viên và học sinh khác nhau. Kết quả nghiên cứu của các đề tài trên đã phần nào làm sáng tỏ về vấn đề xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên các trường Tiểu học ở các địa phương khác nhau. Các biện pháp quản lí hoạt động bồi dưỡng giáo viên được các tác giả đề cập đến gồm:1) Lập kế hoạch thực hiện bồi dưỡng; thiết lập cơ chế bồi dưỡng thống nhất từ trung ương đến địa phương; có chính sách, cơ chế bồi dưỡng 9 hợp lí, kịp thời động viên khuyến khích, kiểm tra đánh giá hoạt động bồi dưỡng. 2) Quản lí bồi dưỡng của hiệu trưởng là hoạt động quản lí quan trọng vì hiệu trưởng trực tiếp tổ chức thực hiện hoạt động bồi dưỡng đến từng giáo viên. Vì vậy, người hiệu trưởng cần phải đề ra được các biện pháp quản lí bồi dưỡng phù hợp và hiệu quả để nâng cao phẩm chất và năng lực cho đội ngũ giáo viên của đơn vị mình. 3) Hoạt động tự bồi dưỡng của giáo viên là rất cần thiết. 4) Đổi mới công tác quản lí bồi dưỡng, đa dạng hóa các hình thức bồi dưỡng. Các giải pháp này có thể áp dụng nâng cao chất lượng bồi dưỡng giáo viên. Tuy nhiên hiện nay, hình thức bồi dưỡng vẫn chủ yếu tập trung qua các chu kì bồi dưỡng thường xuyên mà chưa chú ý đến hình thức bồi dưỡng bằng công nghệ và thiết bị thông tin hiện đại, cũng như tạo môi trường bồi dưỡng thuận lợi cho giáo viên, chưa chú trọng bồi dưỡng giáo viên các kĩ năng dạy học của thế kỉ 21 nhằm phát triển năng lực người học,… Những hạn chế nói trên đặt ra những yêu cầu nghiên cứu để cải tiến các hoạt động bồi dưỡng và công tác quản lí bồi dưỡng làm cho công tác này đạt được mục tiêu mong muốn và đặc biệt phù hợp với đặc thù địa phương. 1.2. Khái niệm cơ bản của đề tài 1.2.1. Quản lí Quản lí là một chức năng xuất hiện từ khi có xã hội loài người. Khi có một tổ chức – Tập hợp người có một mục tiêu chung kết hợp với nhau thông qua hợp tác và phân công lao động để đạt được mục tiêu đó một cách dễ dàng hơn – thì đã có các hoạt động quản lí và nhà quản lí. Marx đã đưa ra một ví dụ sinh động về quản lí một tổ chức qua hình ảnh của một dàn nhạc. Ở đây hoạt động chỉ huy của nhạc trưởng là hoạt động quản lí. 10 Để làm chủ được khái niệm rất rộng và trừu tượng của thuật ngữ “Quản lí” cần xem thêm các định nghĩa khác nhau của nó, theo những cách tiếp cận khác nhau. Theo quan điểm chính trị - xã hội: “Quản lí là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể (người quản lí, tổ chức quản lí) lên khách thể (đối tượng quản lí) về các mặt chính trị, văn hóa, kinh tế,…bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của các đối tượng.” Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng: Quản lí xã hội một cách khoa học là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lí đến từng bộ phận hay những hệ thống khác nhau của xã hội trên cơ sở vận dụng đúng đắn những quy luật và xu hướng khách quan vốn có của nó nhằm đảm bảo cho nó hoạt động và phát triển tối ưu theo mục đích đặt ra. Một số tác giả của Việt Nam cho rằng: “Cán bộ quản lí còn được hiểu với nghĩa tương đương như thuật ngữ Manager trong tiếng Anh, đó là người điều hành, nhà quản lí. Họ là những người có chức trách và nhiệm vụ điều khiển, tổ chức và phối hợp thực hiện hoạt động chuyên môn trong một khâu, một công đoạn, một chương trình, dự án…” Từ các định nghĩa trên ta có thể hiểu khái niệm “Quản lí” như sau: Quản lí bao giờ cũng là hoạt động hướng đích: có mục đích, có tổ chức, có các tác động tương ứng, phù hợp, nhằm hướng dẫn, điều khiển những đối tượng quản lí để đạt tới những mục tiêu định sẵn. Quản lí có thể là khoa học, là nghệ thuật sử dụng các nguồn lực sao cho hiệu quả nhất mà chi phí thấp nhất. Quản lí tạo ra mối quan hệ hữu cơ giữa chủ thể quản lí (người quản lí, tổ chức quản lí) và khách thể quản lí (hay còn gọi là đối tượng quản lí). Chủ thể quản lí tạo ra các tác động quản lí, còn khách thể quản lí tạo ra các sản phẩm 11 có giá trị sử dụng, thực hiện hóa mục tiêu đã định và thỏa mãn mục đích của nhà quản lí. Quản lí có phạm vi tác động lên khách thể rất rộng, do đó ngày nay nó được xem là nhân tố quan trọng nhất trong 5 nhân tố quyết định sự thành công của Sản xuất – Kinh doanh (vốn tài chính, nguồn lực lao động, khoa học kĩ thuật, tài nguyên, quản lí). Tóm lại, ta có thể quan niệm rằng: Quản lí được tiến hành trong một nhóm tổ chức hay một nhóm xã hội, tức là hoạt động quản lí chỉ cần thiết và tồn tại đối với một nhóm người. Quản lí là nghệ thuật thực hiện mục tiêu thông qua người khác. Quản lí là phương thức tốt nhất để đạt được mục tiêu chung của một nhóm người, một tổ chức hay một cơ quan. 1.2.2. Bồi dưỡng Theo quan niệm của UNESCO thì bồi dưỡng với ý nghĩa nâng cao năng lực nghề nghiệp, quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức hoặc kĩ năng chuyên môn nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp. Theo Từ điển Giáo dục học của Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa [20,tr.30] định nghĩa bồi dưỡng như sau: - Bồi dưỡng (theo nghĩa rộng): là quá trình giáo dục, đào tạo nhằm hình thành nhân cách và những phẩm chất riêng biệt của nhân cách theo hướng mục đích đã chọn. - Bồi dưỡng (theo nghĩa hẹp): Trang bị thêm kiến thức, kĩ năng nhằm mục đích nâng cao và hoàn thiện năng lực hoạt động trong các lĩnh vực cụ thể. Trong luận văn này, tác giả cho rằng: Bồi dưỡng là hoạt động tổ chức nhằm trang bị thêm kiến thức, kĩ năng giúp hoàn thiện và nâng cao năng lực nghề nghiệp trong công tác của người giáo viên tiểu học trong bối cảnh đổi mới giáo dục. 12 Tác giả Nguyễn Minh Đường cho rằng: “Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật kiến thức và kĩ năng còn thiếu hoặc đã lạc hậu trong một cấp học, một bậc học và thường được xác định bằng một chứng chỉ” [16,tr.13]. Từ các luận điểm trên, tác giả cho rằng khái niệm bồi dưỡng được nhìn nhận theo nhiều góc độ và mức độ rộng hẹp khác nhau, nhưng chung quy lại có thể coi Bồi dưỡng chính là quá trình bổ sung, cập nhật kiến thức và kĩ năng nhằm nâng cao tay nghề cho người lao động, đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của mỗi cá nhân gắn liền với sự phát triển của tổ chức. Như vậy, bồi dưỡng được hiểu là quá trình học tập của mỗi người diễn ra đồng thời với hoạt động nghề nghiệp, là quá trình đào tạo và tự đào tạo trong thời gian làm việc, gắn với ý nghĩa học tập suốt đời. Đây là một nhu cầu tất yếu để nâng cao năng lực của mỗi cá nhân đáp ứng yêu cầu công tác của mình. Việc đào tạo trong các nhà trường chỉ là đào tạo ban đầu, theo sự phát triển của xã hội, mỗi người lao động nghề nghiệp cần phải bổ sung thêm những kiến thức, kĩ năng còn thiếu hoặc những kiến thức, kĩ năng mới theo sự đòi hỏi trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của mỗi ngành, mỗi nghề gắn liền với sự phát triển của tổ chức. 1.2.3. Năng lực Năng lực (competency) là một thuật ngữ được dùng phổ biến ở trong khoa học và cả trong cuộc sống hàng ngày. Có nhiều cách tiếp cận khái niệm này, chẳng hạn: Theo Từ điển Tiếng Việt năm 1996: “Năng lực là phẩm chất tâm lí, sinh lí tạo ra cho con người khả năng hoàn thành một loạt hoạt động nào đó với chất lượng cao hay năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó”.[27]. Mỗi người có một năng lực riêng bắt nguồn từ tâm, sinh lí và quá trình rèn luyện, học tập mà tạo nên thể hiện qua kết quả hoạt động thể lực, trí lực và nghề nghiệp của mỗi cá nhân. 13 Theo Từ điển tâm lí học của Vũ Dũng năm 2008: “Năng lực là tập hợp các tính chất hay phẩm chất của tâm lí cá nhân, đóng vai trò là điều kiện bên trong, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tốt một dạng hoạt động nhất định” [11]. Năng lực là gắn liền với những đặc điểm riêng và khả năng của mỗi người. Điều kiện bên trong được hiểu gồm tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, kinh nghiệm, động cơ và ý chí của mỗi cá nhân. Năng lực mang dấu ấn cá nhân, khi nói đến năng lực một cách cụ thể đó là khả năng hoàn thành công việc tốt nhất. Tác giả Phạm Thị Minh Hạnh cho rằng “Người có năng lực là người đạt hiệu suất và chất lượng hoạt động cao trong các hoàn cảnh khách quan và chủ quan như nhau” [19]. Từ những nhận xét và phân tích trên, theo tác giả: Năng lực là tổng thể những phẩm chất tâm lí, sinh lí, tri thức, kĩ năng, thái độ và kinh nghiệm của một cá nhân có khả năng hoàn thành một hoạt động với chất lượng cao. 1.2.4. Năng lực nghề nghiệp Đặt trong bối cảnh hình thành và phát triển năng lực nghề nghiệp thì có thể xét đến các quan niệm sau: Theo Vũ Quốc Chung, Nguyễn Văn Cường [10], năng lực nghề nghiệp là khả năng thực hiện có hiệu quả và có trách nhiệm các hành động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay cá nhân trên cơ sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành động. Mô hình cấu trúc năng lực nghề nghiệp bao gồm bốn thành phần cơ bản: Năng lực chuyên môn, năng lực phương pháp, năng lực xã hội và năng lực riêng, hay nói cách khác: bốn thành phần năng lực này “gặp” nhau tạo thành năng lực nghề nghiệp. Tác giả Phạm Tất Dong định nghĩa: Năng lực nghề nghiệp là sự tương ứng giữa những đặc điểm tâm sinh lí của con người với những yêu cầu do nghề đặt ra [6, tr.72]. 14 Trong giáo dục, thuật ngữ “năng lực nghề nghiệp” dùng để mô tả khả năng thực hiện nhiệm vụ của nghề đạt các tiêu chuẩn về năng lực được xác định đối với vị trí làm việc. Quan niệm này đòi hỏi một nhà giáo dục/nhà sư phạm cần sử dụng hiệu quả các nguồn kiến thức, kĩ năng cùng với thái độ, giá trị, trách nhiệm bản thân để thực hiện thành công các nhiệm vụ dạy học, giáo dục học sinh và giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn triển khai hoạt động giáo dục trong điều kiện cụ thể của môi trường hoạt động và trong bối cảnh thay đổi. Năng lực của một nhà giáo dục là tổ hợp các kiến thức, kĩ năng và thái độ mà người đó tích lũy được trong quá trình được đào tạo và trải nghiệm nghề giáo viên và vận dụng để thực hiện một nhiệm vụ giáo dục hay triển khai các hoạt động sư phạm trong quá trình thực hiện giáo dục người học trong một bối cảnh nhất định. Để thực hiện một nhiệm vụ, một công việc của một nhà giáo dục có thể đòi hỏi nhiều năng lực khác nhau như: năng lực chuyên môn, năng lực dạy học,... để cá nhân đó khi giải quyết các vấn đề của hoạt động nghề giáo viên một cách có hiệu quả. Năng lực nghề nghiệp được xem như là sự tích hợp sâu sắc giữa các thành tố kiến thức – kĩ năng – thái độ làm nên khả năng để thực hiện một công việc hay nhiệm vụ trong thực tiễn hoạt động nghề nghiệp. Các thành tố này không tồn tại riêng lẻ mà chúng hòa quyện, đan xen vào nhau tạo nên một cấu trúc là một tổ hợp những thành tố quan hệ chặt chẽ với nhau để tạo ra một thể thống nhất toàn vẹn. Năng lực nói chung và năng lực nghề nghiệp nói riêng vốn không có sẵn trong con người, không phải là những phẩm chất bẩm sinh mà nó được hình thành và phát triển qua hoạt động học tập, lao động và trong hoạt động nghề nghiệp. Trong quá trình làm việc, năng lực này tiếp tục được phát triển và hoàn thiện. Như vậy, bất cứ năng lực nghề nghiệp nào cũng đều tích hợp kiến thức, kĩ năng và thái độ: các năng lực thực hành, giao tiếp, giải quyết vấn đề và các kĩ năng trí tuệ; thái độ lao động nghề nghiệp; khát vọng học tập và cải thiện; 15 khả năng thích ứng để thay đổi; khả năng áp dụng kiến thức vào công việc; ý thức và khả năng hợp tác, làm việc cùng với người khác trong tổ, nhóm... Trong đó các thành tố kĩ năng thực hành là biểu hiện cao nhất của năng lực nghề nghiệp. Quá trình hình thành năng lực nghề nghiệp phải gắn với luyện tập, thực hành theo các công việc thuộc nghề nào đó và đảm bảo thực hiện với chất lượng cao và có hiệu quả. Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau nhưng hầu hết các khái niệm đều có chung một số quan điểm: Năng lực nghề nghiệp bao gồm một loạt các kiến thức, kĩ năng, thái độ hay các đặc tính cá nhân khác cần thiết để thực hiện công việc thành công và sự áp dụng các kiến thức và kĩ năng đó trong việc thực hiện công việc đạt tiêu chuẩn theo yêu cầu. Từ những quan niệm ở trên, khái niệm “năng lực nghề nghiệp” dùng trong nghiên cứu của luận văn này được hiểu như sau: Năng lực nghề nghiệp là các tổ hợp của ba thành tố kiến thức, kĩ năng và thái độ nghề nghiệp mà mỗi cá nhân cần có để hoàn thành được những nhiệm vụ và công việc của mỗi nghề đạt chuẩn quy định trong những điều kiện nhất định. 1.2.5. Năng lực nghề nghiệp của giáo viên tiểu học Theo cách hiểu truyền thống, năng lực của giáo viên nói chung và giáo viên Tiểu học nói riêng được biểu hiện qua kết quả lao động sư phạm và được đánh giá theo các tiêu chuẩn, tiêu chí cơ bản của viên chức giáo viên phổ thông bao gồm: phẩm chất và năng lực (hay còn gọi là đức và tài) là hai bộ phận có quan hệ mật thiết với nhau, chúng tạo nên cấu trúc nhân cách của người giáo viên. Nói đến phẩm chất là nói đến hệ thống những thuộc tính tâm lí biểu hiện các mối quan hệ xã hội cụ thể của mỗi người, thường được biểu hiện ở thái độ, hành vi ứng xử. Khi nói đến năng lực là nói đến những thuộc tính cá nhân tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao. Phẩm chất và năng lực luôn hòa quyện vào nhau, chi phối lẫn nhau. Phẩm chất của người giáo viên bao gồm các thành tố: thế giới 16 quan (đó là thành tố nền tảng, định hướng thái độ, hành vi ứng xử của giáo viên trước các vấn đề của tự nhiên, xã hội, nghề nghiệp), lòng yêu mến học sinh (một phẩm chất đạo đức cao quý của con người và một phẩm chất đặc trưng trong cấu trúc nhân cách của người giáo viên) và lòng yêu nghề. Còn năng lực của Giáo viên Tiểu học bộc lộ trong các lĩnh vực hoạt động (giảng dạy, phát triển chuyên môn, phát triển nghề nghiệp) và gắn với một số kĩ năng tương ứng. Theo mô hình năng lực, năng lực nghề nghiệp giáo viên Tiểu học là một tổ hợp giữa các kiến thức, kĩ năng, thái độ (động lực, niềm tin, giá trị và lợi ích của mỗi cá nhân), chúng được chuyển hóa thành năng lực hoạt động cụ thể của cá nhân nhằm giúp cho giáo viên thực hiện các vai trò nhà sư phạm, nhà khoa học, chuyên gia qua việc tổ chức thành công, hiệu quả các hoạt động dạy học, giáo dục, hoạt động thực hành cho học sinh theo các yêu cầu đặt ra đối với từng nội dung hoạt động nhằm đạt được mục tiêu giáo dục cho học sinh trong nhà trường. Khác với quan niệm về năng lực giáo viên truyền thống cả hai nhân tố phẩm chất và năng lực hòa trộn vào nhau. + Kiến thức nghề (Knowledge): Hoạt động chủ đạo của người giáo viên là giảng dạy, truyền đạt kiến thức của mình tới học sinh, vì vậy người giáo viên phải nắm vững hệ thống kiến thức chuyên sâu về các môn học và chương trình lớp học được phân công giảng dạy, kiến thức về người học cũng như khả năng sư phạm và hiểu biết các lĩnh vực xã hội. + Kĩ năng nghề nghiệp (Skills): Kĩ năng nghề nghiệp là một thành phần quan trọng tạo nên năng lực sư phạm để giúp giáo viên đạt hiệu quả cao trong quá trình hoạt động sư phạm, bao hàm kĩ năng giảng dạy, kĩ năng giáo dục, kĩ năng ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, kĩ năng hoạt động xã hội và nhiều kĩ năng bổ trợ 17 khác. Kĩ năng nghề của người giáo viên được hình thành và phát triển trong quá trình đào tạo và hoạt động nghề nghiệp giáo viên. + Thái độ đối với nghề (Attitudes): Tác giả Nguyễn Minh Đường cho rằng “thái độ” của người giáo viên chính là phẩm chất (đạo đức nghề nghiệp) trong cấu trúc nhân cách của người giáo viên. Đạo đức nghề nghiệp là phẩm chất quan trọng hành đầu đối với người giáo viên, nó là nền tảng, động lực thôi thúc trách nhiệm, nhiệt huyết để mỗi nhà giáo phấn đấu hoàn thành sự nghiệp của mình với nghề cao quý trong xã hội, với nhiệm vụ cao cả là “dạy chữ” và “dạy người”. Người giáo viên cần có phẩm chất tốt. Đó là lòng yêu nghề, tâm huyết và trách nhiệm với những nhiệm vụ mà nghề nghiệp đặt ra, thương yêu, tôn trọng, đối xử công bằng với học sinh, công bằng trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng lực của người học, có tinh thần đoàn kết, hợp tác, chia sẻ và giúp đỡ đồng nghiệp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo; có ý thức xây dựng tập thể; có lối sống lành mạnh, có tác phong mẫu mực, làm việc khoa học. Thước đo về năng lực nghề nghiệp, hay “định lượng hóa” năng lực nghề nghiệp bằng Chuẩn nghề nghiệp. Trước bối cảnh đổi mới giáo dục đòi hỏi người giáo viên Tiểu học phải có thêm những năng lực mới để thực hiện dạy học, giáo dục theo hướng phát triển năng lực người học. Vì vậy, Chuẩn nghề nghiệp giáo viên Tiểu học (2007) cần phải được điều chỉnh và bổ sung những tiêu chuẩn, tiêu chí mới đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. 1.3. Giáo dục tiểu học trong hệ thống giáo dục quốc dân 1.3.1. Mục tiêu của giáo dục tiểu học Theo Khoản 2 Điều 27 Luật Giáo dục thì mục tiêu của Giáo dục Tiểu học là: “Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.” 18 Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục Tiểu học cần đạt một số mục tiêu cụ thể: Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở bậc Tiểu học bằng các giải pháp: - Chuẩn bị tốt cho học sinh Tiểu học tiến đến 100% học 2 buổi/ngày. - Thực hiện dạy học theo chương trình sách giáo khoa mới, đổi mới phương pháp dạy và học. - Dạy đủ các môn bắt buộc và tự chọn. - Xây dựng và đánh giá trường Tiểu học theo chuẩn quốc gia ở mức độ 1, tiến đến mức độ 2, xây dựng các điều kiện đảm bảo cho việc giáo dục – đào tạo học sinh về các mặt: đức, trí, thể, mĩ,… và các kĩ năng cơ bản. 1.3.2. Vai trò của giáo dục tiểu học trong hệ thống giáo dục quốc dân Điều 2 Luật phổ cập giáo dục đã nêu: “Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân…”. Bậc Tiểu học là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục, bậc học đào tạo những cơ sở ban đầu cơ bản và bền vững cho trẻ tiếp tục học lên bậc học trên, giúp trẻ hình thành những cơ sở ban đầu, những đường nét cơ bản của nhân cách. Do vậy giáo dục ở bậc Tiểu học có tính chất đặc biệt, có bản sắc riêng, với tính sư phạm đặc trưng. Theo Khoản a Điều 26 Luật Giáo dục thì: “Giáo dục Tiểu học được thực hiện trong năm năm học, từ lớp một đến lớp năm. Tuổi của học sinh vào học lớp một là sáu tuổi.” Đây là cấp học bắt buộc đối với mọi công dân. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, Giáo dục Tiểu học có một vị trí đặc biệt quan trọng, bởi đây là bậc học “nền móng” để xây dựng một “ngôi nhà mới - con người mới”. Đối tượng của bậc học này là trẻ em chập chững cắp sách đến trường để học những lễ nghi, ứng xử ở nhà trường, gia đình và xã hội; những kiến thức văn hoá và khoa học cơ bản đầu tiên. Các em đến trường với tuổi thơ tràn đầy sức sống và với tâm hồn trong trắng. Trách nhiệm của thầy cô và nhà trường là không chỉ giữ cho những tâm hồn ấy mãi trong sáng, 19 mà còn dạy dỗ, rèn luyện, hun đúc và ươm mầm ước mơ để mai sau các em sẽ trở thành những công dân có đức có tài phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân. Bậc Tiểu học - bậc học đầu tiên gánh vác nhiệm vụ lớn lao ấy. Thầy cô giáo Tiểu học là người thầy đầu tiên thực hiện sứ mạng rất đỗi thiêng liêng và vinh quang ấy nên phải là người tài đức vẹn toàn; có tình thương yêu, lòng tin và sự tôn trọng đối với các em; đối xử công bằng, dân chủ và tế nhị với tất cả các em. Với các em học sinh Tiểu học, thầy cô giáo là thần tượng, là tấm gương sáng soi đường cho các em đến tương lai. 1.3.3.Nội dung chương trình giáo dục Tiểu học Theo Khoản 1 Điều 28 Luật Giáo dục (2009) thì nội dung của Giáo dục Tiểu học là: “Giáo dục Tiểu học phải đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kĩ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mĩ thuật.” Chương trình giáo dục Tiểu học có các môn học bắt buộc sau: Toán, Tiếng Việt, Tự nhiên và xã hội (lớp 1, 2, 3), Khoa học (lớp 4, 5), Lịch sử và Địa lí (lớp 4, 5), Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể dục; Môn tự chọn gồm có: Tin học (lớp 3, 4, 5), Ngoại ngữ (lớp 3, 4, 5). Hiện nay, một số trường tổ chức các chương trình liên kết giảng dạy Ngoại ngữ có yếu tố nước ngoài cho học sinh từ lớp 1 đến lớp 5. Phân phối chương trình các môn ở Tiểu học theo quyết định số 16/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Kế hoạch giáo dục tiểu học trong 1 năm học gồm: (Đây là kế hoạch dạy học tối thiểu) + Biên chế năm học: 35 tuần. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan