Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu tại việt nam...

Tài liệu Luận văn quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu tại việt nam

.PDF
115
746
112

Mô tả:

DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT ADB Asia Development Bank BOD Biological Oxygen Demand COD Chemical Oxygen Demand GATT General Agreement on Tariffs and Trade ITC International Trade Central HS Harmonised System MOI Ministry of Industry MONRE Ministry of Natural Resources and Environment MFN Most Favoured Nation NT National treatment SPS Agreement on the Application of Sanitary and Phytosanitary Measures TBT Technical barriers to trade WTO World Trade organisation VND Vietnam dong VSC Vietnam Steel Cooperation WTO World Trade Organization MỞ ĐẦU Trong những năm qua, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển hết sức mạnh mẽ. Trong giai đoạn 2001 – 2006, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá cao, GDP tăng bình quân 7,5%, với khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản mức tăng trung bình là 3,3%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng 7%. Cơ cấu của nền kinh tế dịch chuyển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng của các ngành công nghiệp, xây dựng trong GDP tăng từ 36,7% năm 2000 lên mức 41% năm 2005. Kết quả này chứng tỏ tầm quan trọng của ngành công nghiệp, xây dựng trong sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp đối với quá trình trình phát triển kinh tế, sự phát triển nhanh chóng của các ngành sản xuất trong thời gian qua cũng gây ra những tác động tiêu cực nhất định, đặc biệt là tới vấn đề môi trường. Ô nhiễm từ nước thải công nghiệp, ô nhiễm đất, không khí cũng như chất thải công nghiệp .. đã gây những tác động không nhỏ đến môi trường. Nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước, thời gian qua chúng ta đã đưa ra chủ trương cho phép nhập khẩu phế liệu phục vụ sản xuất trong nước. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng và kịp thời của Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của các ngành sản xuất. Tuy nhiên, rất nhiều vấn đề phát sinh từ việc kiểm soát trong khâu nhập khẩu phế liệu còn thiếu chặt chẽ. Không chỉ nhập khẩu phế liệu, một lượng lớn rác thải đã được đưa vào nước ta, gây tác động không nhỏ tới kinh tế, đặc biệt là vấn đề môi trường. Bài toán kinh tế và môi trường được đặt ra và thực sự cần lời giải đáp từ phía các nhà quản lý. Hơn thế, trong giai đoạn tới, với nhu cầu mở rộng sản xuất, các nhà sản xuất sẽ cần một lượng lớn nguyên liệu đầu vào để đáp ứng, trong đó, nhập khẩu là một nguồn cung quan trọng. Chính vì vậy, việc nâng cao hiệu quả của các công cụ quản lý nhập khẩu là hết sức cần thiết. Việc nghiên cứu thực trạng vấn đề nhập khẩu phế liệu của Việt Nam giai đoạn vừa qua và hiệu quả các công cụ quản lý nhập khẩu hiện có trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động này trong 1 thời gian tới nhằm đảm bảo hài hoà giữa các lợi ích kinh tế và môi trường cho nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng là hết sức cần thiết. Đề tài “Quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu tại Việt Nam” được thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề nêu trên. 1. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài nghiên cứu nhằm hướng tới những mục tiêu sau: - Đánh giá thực trạng nhu cầu nhập khẩu phế liệu phục vụ sản xuất giai đoạn 2001 – nay; những tác động tới kinh tế và môi trường - Đánh giá thực trạng các công cụ quản lý nhập khẩu phế liệu phục vụ sản xuất tại Việt Nam thời gian qua. - Dự báo nhu cầu nhập khẩu phế liệu phục vụ sản xuất của Việt Nam trong giai đoạn tới. - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các công cụ quản lý, giám sát hoạt động nhập khẩu phế liệu cho sản xuất của Việt Nam trong thời gian tới. 2. Đối tượng Đối tượng: - Các nhóm phế liệu được phép nhập khẩu theo qui định của pháp luật: Tại thời điểm lựa chọn viết luận văn, Quyết định số 03/2004/QĐ-TTg đang có hiệu lực. Chính vì vậy, đối tượng được lựa chọn nghiên cứu của luận văn là các loại phế liệu được phép nhập khẩu theo qui định này, bao gồm 4 nhóm: Nhóm phế liệu kim loại và hợp kim, Nhóm phế liệu nhựa, Nhóm phế liệu giấy và bìa cattong và Nhóm thủy tinh. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, nhóm nghiên cứu đã tập trung vào các đối tượng: Sắt thép phế liệu (tại nhóm phế liệu); nhựa phế liệu và giấy và bìa cattong phế liệu. Sở dĩ có sự lựa chọn này là do những nguyên nhân sau: + Đối với nhóm kim loại và hợp kim: Theo Quyết định số 03/2004/TTg, các kim loại và hợp kim được phép nhập khẩu bao gồm: Gang, thép, đồng, 2 hợp kim đồng, nhôm, hợp kim nhôm, kẽm, hợp kim kẽm, ni ken, hợp kim ni ken phế liệu, tuy nhiên, ngoài sắt thép phế liệu các loại kim loại và hợp kim khác đều có lượng nhập khẩu rất ít trong thời gian qua. Trong nhóm này, phế liệu được nhập khẩu chủ yếu là sắt thép phế liệu. Vì vậy, đề tài lựa chọn việc phân tích đánh giá thực trạng nhập khẩu loại sắt thép phế liệu làm đại diện của nhóm phế liệu này. + Đối với nhóm thủy tinh phế liệu: Mặc dù theo qui định của nhà nước, đây là loại phế liệu được phép nhập khẩu, tuy nhiên, theo thống kê của Trung tâm thương mại quốc tế (ITC), trong thời gian qua, Việt Nam không tiến hành nhập khẩu mặt hàng này. Do vậy, trong luận văn của mình, tôi cũng loại bỏ việc thực hiện đối với thủy tinh phế liệu - Doanh nghiệp nhập khẩu và sử dụng phế liệu - Các văn bản, chính sách có liên quan đến hoạt động nhập khẩu phế liệu thời gian qua 3. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dung: Luận văn tập trung làm rõ thực tiễn của hoạt động nhập khẩu phế liệu thời gian qua cũng như thực tiễn công tác quản lý hoạt động này. Trên cơ sở đó, định hướng và giải pháp lớn nhằm quản lý, giám sát một cách hiệu quả hoạt động nhập khẩu phế liệu trong thời gian tới. - Phạm vi về không gian: trong phạm vi cả nước - Phạm vi về thời gian: + Trong khâu đánh giá, nghiên cứu chọn giai đoạn từ 2001 – 2006 (bắt đầu đánh giá tình trạng nhập khẩu phế liệu sau quyết định 65/2001/QĐBKHCNMT của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường về Về việc ban hành Danh mục các loại phế liệu đã được xử lý đảm bảo yêu cầu về môi trường được phép nhập khẩu để làm nguyên liệu sản xuất) +Về các giải pháp, kiến nghị: được áp dụng trong giai đoạn 2007 - 2010 3 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng nhiều phương pháp cụ thể khác nhau, trong đó tập trung chủ yếu vào các phương pháp sau: - Thu thập số liệu về tình hình nhập khẩu các thiết bị cũ và các sản phẩm có hại cho môi trường. - Phương pháp thống kê (phân tổ, phân tích...). Phương pháp thống kê được sử dụng trong tổng hợp và phân tích các số liệu có được từ việc điều tra thực tế. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng sử dụng phương pháp này nhằm thu thập một số số liệu và thông tin liên quan khác. Ngoài ra, các tài liệu tham khảo trong và ngoài nước cũng được thu thập thông qua phương pháp này. - Phương pháp phân tích tổng hợp. 5. Nội dung Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn được chia làm 3 chương chính: Chương I: Hoạt động nhập khẩu phế liệu phục vụ sản xuất trong nước giai đoạn 2001 – 2006 Chương II: Thực trạng các công cụ quản lý nhập khẩu phế liệu phục vụ sản xuất trong nước giai đoạn 2001 – 2006 Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả của các công cụ quản lý nhập khẩu phế liệu phục vụ sản xuất của Việt Nam trong thời gian tới 4 CHƯƠNG I HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU PHỤC VỤ SẢN XUẤT TRONG NƯỚC GIAI ĐOẠN 2001-2006 1.1. Sự cần thiết phải nhập khẩu phế liệu phục vụ sản xuất trong nước 1.1.1. Vài nét về phế liệu Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về phế liệu, tuy nhiên, trong khuôn khổ luận văn này, khái niệm phế liệu được căn cứ theo văn bản có hiệu lực tại thời điểm lựa chọn luận văn – Quyết định 03/2004/TTg. Theo Điều 3 của Quyết định này, phế liệu được hiểu là: Phế liệu là sản phẩm, vật liệu được loại ra trong sản xuất hoặc tiêu dùng nhưng đáp ứng yêu cầu làm nguyên liệu sản xuất, bao gồm: Nguyên liệu thứ phẩm là nguyên liệu không đáp ứng yêu cầu về quy cách, phẩm chất để sản xuất một loại sản phẩm nhất định nhưng có thể được gia công để sản xuất lại sản phẩm ấy hoặc để sản xuất các loại sản phẩm khác; Nguyên liệu vụn là nguyên liệu được loại ra của một quá trình sản xuất (đầu mẩu, đầu tấm, đầu cắt, phoi, sợi rối, mảnh vụn); Vật liệu tận dụng là vật liệu đồng nhất về chất được tháo gỡ, bóc tách, thu hồi từ sản phẩm đã qua sử dụng hoặc từ thứ phẩm, phế phẩm. Điều 3 – Quyết định số 03/2004/TTg Từ khái niệm này có thể thấy một số đặc điểm cơ bản của phế liệu như sau: - Được loại ra trong quá trình sản xuất, tiêu dùng nhưng vẫn có giá trị sử dụng – làm nguyên liệu sản xuất - Phế liệu có nhiều dạng khác nhau, bao gồm: nguyên liệu thứ phẩm; nguyên liệu vụn và vật liệu tận dụng. Bên cạnh việc hiểu khái niệm phế liệu, chúng ta cũng cần phân biệt khái niệm phế liệu với phế thải (hay chất thải) vì trên thực tế, sự không rõ ràng giữa 2 khái niệm này trở thành khe hở cho tình trạng nhập khẩu trái qui định, nhập khẩu chất thải vào Việt Nam. 5 Cũng theo Điều 3 của Quyết đinh số 03/2004/TTg, “Chất thải là chất được loại ra trong sản xuất, tiêu dùng hoặc trong các hoạt động khác mà không đồng nhất về chất với phế liệu nhập khẩu và dưới dạng khối, cục, bánh hoặc vật dụng cụ thể” Mặc dù tại định nghĩa này, sự khác biệt giữa chất thải và phế liệu chưa được làm rõ, tuy nhiên, có thể thấy điểm khác nhau cơ bản nhất giữa phế liệu và phế thải là: phế liệu có giá trị sử dụng, có thể làm nguyên liệu đầu vào của quá trình sản xuất, trong khi đó, chất thải thì không có giá trị sử dụng vì không thể sử dụng cho bất kỳ mục đích nào, bao gồm cả mục đích làm nguyên liệu sản xuất. Có 2 nguồn cung cấp phế liệu là thu mua trong nước và nhập khẩu từ nước ngoài. Ở Việt Nam, trước đây tỷ lệ thu gom trong nước chiếm đa số. Tuy nhiên, tới thời điểm hiện tại, đa số các phế liệu được nhập khẩu từ nước ngoài do việc thu gom trong nước không đáp ứng được nhu cầu của hoạt động sản xuất tại các ngành. Ví dụ như ngành thép, nếu trước đây việc thu mua trong nước cung ứng phần lớn cho các doanh nghiệp tái chế thì đến nay, nguồn cung ứng trong nước ngày càng chiếm tỷ lệ ít hơn do: Thứ nhất: nguồn sắt thép phế liệu chiến tranh đã dần dần bị khai thác hết; Thứ hai: do là một nước đang phát triển, đặc biệt là công nghiệp chưa phát triển, chính vì vậy, sắt thép phế liệu có nguồn gốc từ các vật liệu tận dụng là rất hạn chế. Chính bởi vậy, phế liệu có nguồn gốc nhập khẩu từ nước ngoài ngày càng chiếm tỷ lệ lớn hơn trong tổng lượng phế liệu cung cấp cho các nhà sản xuất. 1.1.2. Sự cần thiết phải nhập khẩu phế liệu Phế liệu nhập khẩu đang trở thành nguồn nguyên liệu ngày một quan trọng trong sự phát triển của các ngành, đồng thời có những lý do để tồn tại và phát triển mậu dịch phế liệu: - Thứ nhất, việc thu thập và sử dụng phế liệu rẻ hơn là khai thác, tuyển chọn và sử dụng nguyên liệu nguyên sinh. 6 - Thứ hai, nguồn nguyên liệu là phế liệu được loại ra ngày càng nhiều trên toàn thế giới do sự phát triển bùng nổ của các ngành công nghiệp. Đồng thời việc sử dụng phế liệu để tái sản xuất còn nhằm tiết kiệm nguyên, nhiên liệu ngày càng khan hiếm trên phạm vi toàn cầu. - Thứ ba, việc xử lý phế liệu còn góp phần cơ bản vào việc giữ gìn cảnh quan, môi trường sống, thực hiện công nghệ sạch, thân thiện với môi trường; - Thứ tư, một đặc điểm dễ nhận thấy ở cả 3 ngành: thép, nhựa, giấy là sự mất cân đối giữa năng lực sản xuất sản phẩm và khả năng cung ứng nguyên liệu. Chính vì vậy, để tận dụng công suất hiện có, các ngành đều phải nhập nguyên liệu từ thị trường bên ngoài (phôi thép, bột giấy, bột nhựa). Tuy nhiên, giá của nguồn nguyên liệu này luôn có những biến động hết sức phức tạp trên thị trường gây nên những khó khăn không nhỏ cho doanh nghiệp. Do đó, việc chủ động nguyên liệu là yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp. Trong khi đó, các nguồn nguyên liệu như: quặng (ngành thép), bột nhựa (ngành nhựa), bột giấy (ngành giấy) thường bị hạn chế do yếu tố tự nhiên và khả năng vốn, khả năng về công nghệ của doanh nghiệp thì việc sử dụng phế liệu đang dần giữ một vai trò quan trọng. Mặc dù vậy, nguồn phế liệu trong nước thường chỉ đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu, chính vì vậy việc nhập khẩu từ thị trường nước ngoài là một giải pháp ưu tiên của doanh nghiệp. - Thứ năm, lượng phế liệu nhập khẩu của doanh nghiệp ngày càng tăng. Từ những con số thống kê về thực trạng nhập khẩu phế liệu (sắt thép, giấy, nhựa) có thể thấy việc sử dụng phế liệu làm nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất có xu hướng ngày càng tăng. Với sự phát triển mạnh mẽ của các ngành và những chủ trương kịp thời của nhà nước, phế liệu trở thành nguồn nguyên liệu quan trọng của các ngành sản xuất. - Thứ sáu, việc sử dụng nguyên liệu là phế liệu nhập khẩu sẽ tạo việc làm cho số lao động không nhỏ, góp phần thực hiện chính sách xã hội của đất nước. 7 Như vây, tận dụng phế liệu là một trong những tiền đề góp phần giảm giá thành của sản phẩm. Nhà nước cho phép và tạo điều kiện hợp lý để nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất là việc làm cần thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm tháo gỡ khó khăn về nguyên liệu cho các ngành sản xuất. 1.2. Thực trạng sử dụng và nhập khẩu phế liệu Với những phân tích về thực trạng phát triển của các ngành, tình hình sử dụng và nhập khẩu phế liệu có thể rút ra một số nhận định sau: - Thứ nhất, mặc dù khối lượng nhập khẩu trong thời gian qua tăng nhưng còn ở mức thấp và có nhiều biến động. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này trước hết là do nhu cầu của các doanh nghiệp còn ở mức thấp. Ngoài ra, việc thu mua còn manh mún, chưa tập trung thành những đầu mối lớn, khả năng bốc dỡ tại các cảng biển cộng thêm những biến động về mặt cơ chế chính sách của doanh nghiệp đã gây nên tình trạng này. - Thứ hai, phế liệu nhập khẩu của các ngành chủ yếu phục vụ cho việc sản xuất các sản phẩm có chất lượng thấp, trung bình. Mặc dù có những ưu thế nhất định nhưng việc sử dụng phế liệu không thể thay thế cho các nguồn nguyên liệu khác do đa phần nguồn nguyên liệu này được sử dụng nhằm sản xuất các sản phẩm có chất lượng ở mức trung mình. Rất nhiều các sản phẩm đặc dụng của các ngành như: với ngành thép là thép phục vụ cho ngành cơ khí, giấy (các sản phẩm giấy có chất lượng cao) và ngành nhựa là nhựa sản xuất các sản phẩm kỹ thuật thì không thể tận dụng nguồn nguyên liệu này do yêu cầu về chất lượng. Chính vì vậy, có thể khẳng định rằng không thể thay thế toàn bộ nguyên liệu đầu vào của các ngành bằng nguồn phế liệu. Nói một cách khác, để phát triển các ngành sản xuất cần có một hệ thống chính sách đồng thời tác động tới tất cả các khả năng cung ứng nguyên liệu nhằm đảm bảo sự ổn định và tăng trưởng cho các ngành. - Thứ ba, ngoài việc đáp ứng nhu cầu của các nhà sản xuất lớn, một phần không nhỏ đối tượng sử dụng các loại phế liệu này là các làng nghề. Ở Việt Nam, hệ thống làng nghề phát triển rất mạnh mẽ. Với các làng nghề sản 8 xuất sản phẩm sắt thép, nhựa, giấy thì nguyên liệu đầu vào chủ yếu là phế liệu. Phần lớn phế liệu phục vụ cho các làng nghề này được thu mua từ nguồn trong nước, còn lại là được nhập khẩu từ nước ngoài. 1.2.1. Thực trạng sử dụng và nhập khẩu sắt thép phế liệu 1.2.1.1. Một số nét về ngành thép Ngành Thép Việt Nam được hình thành từ đầu những năm 60 của thế kỷ 20 sau sự ra đời của Công ty Gang Thép Thái nguyên. Mặc dù ra đời khá sớm, tuy nhiên, sự phát triển của ngành thép chỉ thực sự khởi sắc từ những 90 trở lại đây. Sau hơn 40 năm xây dựng và phát triển, ngành Thép đã trở thành một ngành công nghiệp quan trọng, góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Theo báo cáo từ Hiệp hội Thép Việt Nam, năm 2006, sản lượng thép xây dựng đạt 3,1 triệu tấn – đáp ứng 100% nhu cầu trong nước và tăng 15% so với năm 2005. Ngoài ra, sản phẩm thép của ngành còn đáp ứng một phần quan trọng cho việc phát triển ngành công nghiệp cơ khí. Trong giai đoạn 1996 – 2005, nhu cầu về các sản phẩm thép, đặt biệt là thép xây dựng tăng mạnh với tốc độ trung bình là 19,9%. Đến năm 2005, nhu cầu thép tăng gấp 7 lần so với năm 1995 Bảng 1.1- Tổng hợp tình hình tiêu thụ thép giai đoạn 1991 - 2005 Năm 1991 1995 2000 2001 2004 2005 1. Tổng tiêu thụ thép thành phẩm (Nghìn tấn) 497 1145 3171 4010 6094 7016 1.1. . Thép TP SX nội địa 149 470 1538 1914 3280 3888 - - 15 2 99 170 1.3. . Thép nhập khẩu 348 675 7603 2098 2913 3297 Tỷ lệ SX nội địa/tổng tiêu thụ % 30 42 50 48 54 55 1.2. Thép xuất khẩu Nguồn: Tổng cục Thống kê – Tổng cục Hải quan Từ những số liệu trên đây cho thấy, sản xuất thép trong nước đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu thụ nội địa. Nếu như năm 1991 sản xuất trong 9 nước mới chỉ đáp ứng khoảng 30% nhu cầu trong nước thì tới năm 2005 con số này đã vào khoảng hơn 55%. Bắt đầu từ năm 2000, thép thành phẩm của Việt Nam còn được xuất ra thị trường thế giới. Năm 2005, lượng thép xuất khẩu của Việt Nam đã lên tới con số 170.000 tấn với kim ngạch đạt 2,93 tỷ USD. Tuy nhiên, thị trường thép Việt nam hiện mất cân đối giữa cung và cầu: cung thép cán xây dựng vượt gấp đôi nhu cầu trong khi đó chúng ta lại phải nhập hoàn toàn các sản phẩm thép có chất lượng cao (phục vụ cho ngành cơ khí); ngoài ra, sản xuất thép của Việt Nam còn mất cân đối giữa sản xuất thép cán và sản xuất phôi thép. Sự phát triển mạnh mẽ của ngành thép thời gian qua cũng như khả năng đáp ứng nhu cầu trong nước ngày một tăng cao khiến nhu cầu sử dụng nguyên liệu cho ngành này cũng ngày càng lớn. Ngoài nguồn nguyên liệu từ quặng khai thác trong nước, phôi thép nhập khẩu thì sắt thép nhập khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng, trong đó, sắt thép nhập khẩu chiếm đa số nguồn cung ứng phế liệu này. 1.2.1.2. Thực trạng sử dụng sắt thép phế liệu Hiện nay, nguồn nguyên liệu phục vụ cho ngành thép được khai thác từ ba “kênh” chính: Khai thác và chế biến nguồn quặng trong nước: Tính đến nay, Việt Nam đã phát hiện được 216 mỏ, điểm quặng sắt khác nhau trong cả nước với tổng trữ lượng khoảng 1,2 tỷ tấn. Tuy nhiên, hầu hết các mỏ quặng của VN đều có trữ lượng thấp và chất lượng không cao. Với công suất luyện kim hiện nay khoảng 10-15triệu tấn thép/năm thì trữ lượng quặng sắt hiện có chỉ đủ duy trì sản xuất trong nước trong vài chục năm. Hiện tại, việc cung ứng nguyên liệu cho ngành thép từ quặng sắt chỉ chiếm một tỷ lệ thấp khoảng 20% nhu cầu so với các nguồn khác. Chính vì vậy, đây có thể coi là nguồn nguyên liệu không bền vững và ổn định cho sự phát triển của ngành thép, buộc ngành thép cần có 10 những điều chỉnh trong định hướng sử dụng đa dạng những nguồn nguyên liệu khác phục vụ sự phát triển của ngành. Nhập khẩu phôi thép: Đây là nguồn nguyên liệu chính phục vụ cho ngành thép Việt Nam thời gian qua. Do khả năng tự đáp ứng về phôi thép cho công đoạn cán thép vẫn còn ở mức thấp (20 – 25%), chính vì vậy, để tận dụng công suất cán thép của ngành, hàng năm, khối lượng phôi thép mà chúng ta phải nhập khẩu lên tới xấp xỉ 2 triệu tấn. Bảng 1.2 - Thực trạng nhập khẩu phôi thép giai đoạn 2001 – 2006 Năm Số lượng (1000 tấn) Giá trị (ngàn USD) 2001 2002 2003 2004 2005 2006 1.772 2.207 1.855 2.273 2.227 2.017 335.000 459.000 511.000 870.000 838.000 774.000 Nguồn: Tổng cục Thống kê Con số thống kê ở đây có thể cho thấy sự phụ thuộc rất lớn của ngành thép Việt Nam đối với nguồn phôi nhập khẩu. Với những biến động liên tục ở thị trường phôi thép trên thế giới, đây sẽ là một yếu tố bất lợi tác động tới sự ổn định của thị trường thép trong nước. Sắt thép phế liệu: 80% sản lượng phôi thép ở Việt Nam hiện nay được sản xuất từ phế liệu bằng công nghệ lò điện. Phế liệu được cung cấp từ hai nguồn chính là thu gom trong nước và nhập khẩu từ nước ngoài trong đó nguồn nhập khẩu chiếm đa số. Trong ba nguồn trên, thì sắt thép phế liệu đóng một vai trò quan trọng trong ngành sản xuất thép. Đây là nguồn nguyên liệu được hầu hết các đối tượng sản xuất thép sử dụng, các đối tượng này bao gồm hai nhóm chính: Doanh nghiệp luyện thép: Đây là đối tượng chính sử dụng phế liệu nhập khẩu với mục đích làm nguyên liệu đầu vào cho quá trình luyện thép. Theo thông tin từ Hiệp hội thép Việt nam, mặc dù số lượng các doanh nghiệp này không nhiều nhưng lượng sắt thép phế liệu nhập khẩu phục vụ cho nhóm đối tượng này thường chiếm tới 70%. 11 Các doanh nghiệp tư nhân, hộ cá thể hoạt động trong các làng nghề: số lượng các doanh nghiệp loại này tương đối lớn, tuy nhiên, hầu hết là các doanh nghiệp tư nhân, hộ gia định với qui mô sản xuất nhỏ. Phế liệu nhập khẩu được sử dụng trong các doanh nghiệp này chủ yếu với mục đích gia công trực tiếp. Lượng thép phế nhập khẩu sử dụng trong các doanh nghiệp loại này chiếm khoảng 30% tổng lượng nhập khẩu. Ngay khi phế liệu được tập kết tại cảng và kho của các thương nhân, chủ các doanh nghiệp này sẽ lựa chọn những phế liệu phù hợp để tiến hành gia công trực tiếp thành nhiều loại công cụ (chủ yếu là công cụ nông nghiệp) đơn giản. 1.2.1.3. Thực trạng nhập khẩu sắt thép phế liệu Sắt thép phế liệu đang đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong việc đảm bảo ổn định nguồn cung ứng nguyên liệu cho ngành thép. Với hai nguồn chính từ hoạt động thu gom phế liệu trong nước và nhập khẩu, 80% lượng phôi thép hiện nay là từ thép phế. Điều này có thể khẳng định tầm quan trọng của nguồn nguyên liệu này trong thời gian qua. Khối lượng và kim ngạch nhập khẩu sắt thép phế liệu giai đoạn 2001 – 2005 Theo số liệu thống kê từ ITC, từ năm 2001 đến năm 2005, lượng sắt thép phế liệu nhập khẩu của Việt Nam là 927.262 tấn với tổng trị giá là 182.420 triệu USD. Bảng số liệu dưới đây thể hiện xu hướng nhập khẩu phế liệu sắt thép cả về khối lượng và kim ngạch từ năm 2001 đến năm 2005. Bảng 1.3 - Khối lượng & kim ngạch NK sắt thép phế liệu giai đoạn 20012005 Năm 2001 2002 2003 2004 2005 Khối lượng (tấn) 229.173 214.049 140.295 131.727 212.018 Kim ngạch (tr USD) 30.245 29.816 26,914 37,943 57.502 Nguồn: ITC 12 Tuy nhiên, cần lưu ý rằng đây chỉ là những con số thống kê chính thức qua ITC. Ngoài ra, có một lượng không nhỏ phế liệu được nhập qua đường tiểu ngạch và vận chuyển xuyên biên giới từ Lào và Campuchia sang Việt nam. Theo thông tin từ Hiệp hội thép Việt Nam, lượng thép phế nhập khẩu vào Việt Nam cả chính ngạch lẫn tiểu ngạch vào khoảng gần 700.000 tấn. Điều này có thể chứng tỏ phần nào khối lượng nhập khẩu thực tế của thị trường - Về thị trường nhập khẩu Nếu như trước những năm 2000, sắt thép phế liệu của Việt Nam chủ yếu được nhập từ một số nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á thì trong giai đoạn này, các nhà cung cấp phế liệu đã tương đối đa dạng hơn. Đứng đầu là Nhật Bản với khối lượng nhập khẩu từ quốc gia này lên tới 128.018 tấn, chiếm trên 60% toàn bộ lượng sắt thép nhập khẩu vào Việt Nam, tiếp sau là Mỹ. Các nước còn lại trong nhóm 10 quốc gia xuất khẩu phế liệu nhiều nhất vào Việt Nam chủ yếu là những nước láng giềng như Thái Lan, Philipin, Hồng Kông, Đài Loan … Với xu hướng tiếp cận nhanh chóng với các thị trường xuất khẩu phế liệu lớn trên thế giới (chủ yếu là các quốc gia phát triển) sẽ là một tín hiệu đáng mừng cho các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước khi nhu cầu nhập khẩu loại mặt hàng này càng tăng cao. Bảng 1.4 - Tổng hợp các nhà xuất khẩu sắt thép phế liệu cho Việt nam Nhà xuất khẩu Giá trị NK 2005 (1000$) Thị phần của các nhà XK Lượng NK 2005 (tấn) Tốc độ gia tăng NK 2001-2005 (%) Tổng 57,502 100 212.018 -8 Nhật Bản 36.247 63 128,096 -10 Mỹ 7.571 13 26,194 44 Philipin 3.065 5 19,858 270 Đài Loan 2.851 5 7,341 -28 Sweden 1.091 2 2,502 178 13 Bỉ 770 1 2,539 Camarun 766 1 5,062 Thái Lan 735 1 2,539 132 Hồng Kông 518 1 2,219 50 Nga 269 0 2,120 -40 Nguồn: ITC 1.2.2. Thực trạng sử dụng và nhập khẩu nhựa phế liệu 1.2.2.1. Một số nét về ngành nhựa Ngành công nghiệp nhựa là một ngành có tốc độ phát triển nhanh chóng và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế do đây là một loại nguyên liệu mới với khả năng ứng dụng rất cao, trở thành nguyên liệu đầu vào cho rất nhiều ngành sản xuất khác. Ngành nhựa Việt Nam thực sự có những bước phát triển mạnh mẽ từ cuối những năm 80 với sự đánh dấu bởi mức sản lượng gấp đôi những năm 1975 vào năm 1989. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành trong thời gian qua ở mức 25 – 30%. Điều này được thể hiện một cách rõ nét ở khả năng đáp ứng nhu cầu trong nước ngày càng cao và việc mở rộng xuất khẩu tại hầu hết các nhóm sản phẩm. Cụ thể: Bao bì nhựa: sản phẩm này phục vụ nhu cầu trong nước là chủ yếu và một phần tham gia xuất khẩu, trong đó, xuất khẩu mặt hàng này chủ yếu là xuất khẩu gián tiếp. Hàng năm giá trị xuất khẩu của bao bì nhựa ước tính khoảng 300 - 350 tỷ đồng/năm. Thị trường khu vực TP.HCM chiếm gần 80% thị trường ngành bao bì cả nước. Vật liệu xây dựng bằng nhựa: Phần lớn các loại sản phẩm trong nhóm vật liệu xây dựng bằng nhựa phục vụ cho ngành xây dựng tiêu thụ trên thị trường nội địa. Đối với việc xuất khẩu, mặt hàng này có nhiều khó khăn lớn như: trình độ công nghệ đi sau các nước trong khu vực, qui mô nhỏ, chi phí vận chuyển lớn và thật sự chưa có tính cạnh tranh về giá. Thị trường xuất khẩu chủ yếu là Lào và Campuchia. 14 Sản phẩm nhựa gia dụng: Nhìn chung trong 5 năm qua, sản phẩm nhựa gia dụng sản xuất trong nước đã hầu như chiếm lĩnh hoàn toàn thị trường nội địa. Ngoài ra, một phần không nhỏ các sản phẩm này được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài như: Campuchia, Lào, các nước Châu Phi, Trung Cận Đông. Bên cạnh đó là thị trường tiêu dùng rộng lớn ở các nước công nghiệp phát triển như các nước Âu châu, Bắc Mỹ, Nga, Nhật,... Nhựa kỹ thuật và các loại khác: Đã bắt đầu được đầu tư sản xuất theo chính sách nội địa hoá của Nhà nước gồm phần lớn các chi tiết lắp ráp của các sản phẩm điện, điện tử, điện lạnh, xe hơi, xe máy, tuy nhiên lượng nhập khẩu đến nay vẫn nhiều. Tuy nhiên, cần thấy rằng với xu thế phát triển nhanh chóng của các ngành nói trên, nhóm sản phẩm nhựa kỹ thuật sẽ dần chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu sản phẩm của ngành. Bảng 1.5 - Sản lượng nhựa năm 2005 theo 3 miền Loại sản Sản lượng Nghìn tấn % Nghìn tấn % Nghìn tấn % Bao bì 660 547,8 83 92,4 14 19,8 3 Tiêu dùng 640 531,2 83 89,6 14 19,2 3 Xây dựng 228 155,6 77 45,6 20 6,8 3 Kỹ thuật 122 93,9 77 25,6 21 24 2 Tổng 1650 1328,5 phẩm Bắc Nam 253,2 Trung 68,3 Nguồn: Hiệp hội nhựa Việt Nam Về xuất khẩu nói riêng có thể thấy, trong năm 2005, tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nhựa đạt 350 triệu USD, năm 2006 đạt 478 triệu USD (tăng 36,6% so với năm 2005), kế hoạch xuất khẩu năm 2007 là 580 triệu USD. Các thị trường xuất khẩu chính bao gồm: Mỹ, EU, Nhật có tốc độ xuất khẩu cao, thị trường Asean, Trung Quốc tăng chậm, Campuchia, Đài Loan, Philipine tăng khá cao. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu gồm túi nhựa, túi 15 xốp, vải bạt, bao bì khác, tấm nhựa, màng nhựa, găng tay, ống nhựa, sản phẩm văn phòng,… chiếm 79,2% tổng kim ngạch xuất khẩu. 1.2.2.2. Thực trạng sử dụng phế liệu nhựa: Cũng tương tự như ngành thép, nguyên liệu của ngành nhựa được cung cấp từ 3 nguồn chính, trong đó có nhựa phế liệu. Cụ thể: Bột nhựa sản xuất trong nước: Với ngành công nghiệp hóa dầu mới trong giai đoạn đầu phát triển, chính vì vậy khả năng đáp ứng nguyên liệu tại chỗ của ngành còn thấp. Tuy nhiên, với trữ lượng dầu tương đối lớn và nhiều luận văn hóa dầu lớn đang trong giai đoạn đầu tư, trong tương lai, chúng ta hy vọng tỷ lệ nguyên liệu cung cấp trong nước được tăng cao. Hiện nay, mới giải quyết được khoảng 20% - 30% nguyên liệu tại chỗ. So với các nước trên thế giới, con số này là rất thấp: Mỹ: giải quyết được gần 100% nguyên liệu; Châu Âu: Phần lớn các nước Châu Âu như Đức, Pháp, Anh, Italia, ngành hoá dầu phát triển mạnh nên con số này ở mức khoảng 60-70% ; Các nước khác như Nhật, Hàn Quốc, Nga, Trung Quốc đều có bức tranh tương tự. Bột PVC nhập khẩu: đây vẫn đang là nguồn nguyên liệu chủ yếu cho ngành nhựa hiện nay. Với khả năng cung ứng trong nước còn thấp, việc nhập khẩu nguyên liệu từ bên ngoài là không thể tránh được. Thị trường nhập khẩu chủ yếu là các nước trong khu vực ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Phế liệu nhựa: Hiện nay nhu cầu nhựa nguyên liệu của các nhà sản xuất rất lớn. Theo thống kê năm 2006 cả nước sử dụng 700.000 tấn nhựa PE, 600.000 tấn PP, 500.000 tấn PVC, 66.000 tấn PS... và phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nhập khẩu. Trong ba nguồn nguyên liệu nêu trên, nhựa phế liệu được coi là nguồn nguyên liệu quan trọng. Các cơ sở sản xuất nhựa đều sử dụng nguồn nguyên liệu này. Bao gồm: 16 Các doanh nghiệp sản xuất nhựa của Nhà nước: Đây là đối tượng chính sử dụng nhựa phế liệu nhập khẩu với mục đích làm nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất. Các doanh nghiệp tư nhân, hộ cá thể hoạt động trong các làng nghề: số lượng các doanh nghiệp loại này tương đối lớn, tuy nhiên, hầu hết là các doanh nghiệp tư nhân, hộ gia đình với qui mô sản xuất nhỏ. Phế liệu nhập khẩu được sử dụng trong các doanh nghiệp này chủ yếu nhằm sản xuất các sản phẩm nhựa gia dụng có chất lượng trung bình hoặc thấp. 1.2.2.3 Thực trạng nhập khẩu nhựa phế liệu Mỗi năm Việt Nam tái chế 100.000 tấn nhựa phế liệu thành nhựa thành phẩm. Việc sử dụng nhựa phế liệu sẽ giúp DN giảm 50% giá thành sản phẩm so với sử dụng hạt nhựa chính phẩm. Nguồn nhựa phế liệu trong nước chỉ đủ đáp ứng 50% số còn lại phải nhập ngoại. Chính vì vậy, nhập khẩu các phế liệu nhựa được coi là giải pháp tối ưu, đáp ứng nguồn nguyên liệu cho sản xuất nhựa. Bảng 1.6 - Số liệu nhập khẩu phế liệu nhựa giai đoạn 2001-2005 Năm Tình hình thực hiện Mức độ tăng Số lượng Trị giá Số lượng Trị giá (Tấn) (Nghìn USD) (%) (%) 2001 7.112 2,237 - - 2002 5.623 1,625 79,06 72,64 2003 6.797 2,362 120,88 145,35 2004 46.811 14,396 688,70 609,48 2005 74.442 25,364 159,03 176,19 Nguồn: ITC Nhìn vào số liệu trên, từ khi chính sách của Chính phủ cho phép các doanh nghiệp được nhập khẩu phế liệu nhựa làm nguyên liệu sản xuất đã thúc đẩy nhanh chóng số lượng và kim ngạch nhập khẩu phế liệu nhựa trong 2 năm 2004 và 2005. 17 Bảng 1.7 - Một số thị trường xuất khẩu phế liệu sang Việt Nam Nước Kim ngạch Số lượng 2005 2005 (nghìn USD) (nghìn tấn) Error! Hyperlink reference not valid.Kim ngạch Số lượng Kim ngạch Số lượng Kim ngạch Số lượng Kim ngạch Số lượng 2004 2003 2003 2002 2002 2001 2001 2004 Tổng 25,364 14,396 2,362 1,625 2,237 Mỹ 8,858 29,388 4,095 11,077 92 263 57 225 192 Canada 5,719 9,070 516 1,159 5 22 3 23 0 Hongkong 2,820 11,389 3,800 16,966 45 175 81 235 33 121 Hàn Quốc 1,492 6,105 2,831 8,381 1,173 4,229 1,087 4,219 1,555 6,177 Mexico 1,272 4,226 0 0 0 0 Hà Lan 816 2,178 0 0 0 0 Malaysia 756 1,247 188 501 358 447 171 154 207 Australia 755 2,293 509 1,142 4 0 8 23 0 Nhật Bản 752 2,265 591 1,680 123 476 70 251 51 164 Đài Loan 663 1,753 370 879 276 593 90 254 63 133 199 152 Nguồn: ITC Việt Nam chủ yếu nhập phế liệu nhựa từ một số nước phát triển như Mỹ, Canada, Nhật, Úc, Anh ..và nhóm NICs như Hồng Kông, Mehico, Hàn Quốc, Đài Loan ... Trong khi đó ba thị trường xuất khẩu phế liệu nhựa sang Việt Nam nhiều nhất đó là Mỹ, Canada và Hồng Kông. Mỹ là thị trường xuất khẩu phế liệu nhựa sang Việt Nam lớn nhất chiếm gần 40% về cả số lượng và kim ngạch nhập khẩu phế liệu nhựa của Việt Nam năm 2005. Chính phủ đã cho phép nhập khẩu phế liệu nhựa và coi đây là giải pháp hữu hiệu nhằm giảm thiểu sức ép tăng giá sản phẩm. Tuy nhiên, để nhập được nguồn nguyên liệu này đòi hỏi phải có những quy định cụ thể và rõ ràng của Bộ Tài nguyên & Môi trường về việc nhập nguyên liệu nhựa phế phẩm, loại nào nhập và loại nào không được nhập. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp 18 ngành nhựa cần nhập các sản phẩm nhựa bị loại ở các nhà máy nước ngoài không đạt thông số kỹ thuật, đã ép thành khối và giá chỉ bằng 10-20% so với giá nguyên liệu nhựa chính phẩm và một nguồn khác nữa là rác thải nhựa công nghiệp sau khi đã được phân loại, xử lý sạch và ép thành kiện (giá khoảng 300 USD/tấn)… Chỉ có điều, để nhập được nguồn nguyên liệu này, đòi hỏi phải có những quy định mới cụ thể của Bộ Tài nguyên - Môi trường, chẳng hạn vấn đề phân loại nguyên liệu nhựa phế phẩm. 1.2.3. Thực trạng sử dụng và nhập khẩu giấy và catông 1.2.3.1. Một số nét về ngành Giấy Ngành giấy Việt Nam trong 20 năm qua đã đạt tốc độ tăng trưởng hàng năm 15%-16%, sản lượng từ 80.000 tấn/năm đã tăng lên tới 824.000 tấn/năm. Tuy nhiên, chủng loại giấy sản xuất trong nước vẫn rất nghèo nàn, chỉ có giấy in báo, giấy in và viết, giấy bao gói (không tráng), giấy lụa. Dù đã đầu tư tới 112.000 tấn/năm cho sản xuất giấy tráng, nhưng đến nay hầu như chỉ sản xuất giấy không tráng. Năm 2005 khả năng đáp ứng tiêu dùng trong nước của toàn ngành giấy là 61,92%, trong đó giấy in báo đáp ứng 68,42%, giấy in và viết 89,29%, giấy bao bì (không tráng) 71,50%, giấy tráng 5,75% và giấy lụa 96,97%. Cũng trong năm này, mức tăng trưởng của sản xuất giấy chỉ đạt 9,32%, nguyên nhân là do giấy bao bì sản xuất ra không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng. Xét các yếu tố kinh doanh, ngành giấy vẫn thua thiệt nhiều mặc dù chí phí về lao động rẻ, nhưng năng suất lao động lại thấp. Hiện nay sản xuất bột giấy ở Việt Nam mới đáp ứng được 37% nhu cầu, còn lại vẫn phải nhập khẩu. Trước đây chỉ nhập bột tẩy trắng, nay bột giấy không tẩy trắng ngày càng được nhập nhiều, vì các cơ sở phải ngừng sản xuất do không có khả năng xử lý nước thải và quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu.Với khả năng rừng đủ để sản xuất bột giấy đáp ứng cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu, rõ ràng phương thức phân bổ nguồn lực cho phát triển kém hiệu quả. Nếu chỉ cần khoảng 400 -500 triệu USD (một khoản đầu tư khiêm tốn so 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan