TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
PHẠM THỊ NGỌC HUYỀN
RÚT QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ TẠI PHIÊN TÒA THEO
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Giảng viên hướng dẫn: Th.S ĐINH VĂN ĐOÀN
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
RÚT QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ TẠI PHIÊN TÒA THEO
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
SINH VIÊN THỰC HIỆN: Phạm Thị Ngọc Huyền
Khóa: 42
MSSV: 1753801013076
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Th.S Đinh Văn Đoàn
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận “Rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam” là công trình nghiên cứu khoa học do cá nhân tôi thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của Th.S Đinh Văn Đoàn. Trong quá trình nghiên cứu,
khóa luận cũng có sự kế thừa quan điểm, ý kiến khoa học của những nhà nghiên cứu
đã từng thực hiện các đề tài có liên quan. Những quan điểm, ý kiến này, cũng như
những thông tin mà khóa luận có tham khảo, khi được sử dụng đều được thể hiện một
cách trung thực và có trích dẫn nguồn đầy đủ.
Do chưa có nhiều kinh nghiệm tiếp xúc thực tế, cũng như vốn kiến thức còn
hạn hẹp, nên sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Chính vì vậy, tác giả rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ Quý Thầy, Cô và bạn đọc, để có thể rút kinh
nghiệm tốt hơn.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2021
Sinh viên
Phạm Thị Ngọc Huyền
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận “Rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo
luật tố tụng hình sự Việt Nam”, tác giả đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của Th.S
Đinh Văn Đoàn. Do đó, tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Thầy đã hỗ
trợ, định hướng cho tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu. Sự tận tâm của Thầy là
động lực rất lớn giúp tác giả hoàn thiện tốt hơn khóa luận này.
Đồng thời, tác giả cũng xin chân thành cảm ơn Quý Thầy, Cô khoa Luật Hình
sự, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã truyền đạt kiến thức quý báu
cho tác giả trong suốt quá trình học tập tại trường, để có thể vận dụng những kiến
thức đó vào khóa luận này.
Sinh viên
Phạm Thị Ngọc Huyền
MỤC LỤC
Phần mở đầu .............................................................................................................. 1
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ RÚT QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ
TẠI PHIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ........................................................... 8
1.1. Khái niệm rút quyết định truy tố tại phiên tòa ................................................... 8
1.2. Đặc điểm của rút quyết định truy tố tại phiên tòa............................................ 12
1.3. Cơ sở của việc quy định rút quyết định truy tố tại phiên tòa ........................... 14
1.4. Lược sử quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về rút quyết định
truy tố tại phiên tòa .................................................................................................. 17
1.5. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự một số nước về rút quyết định truy tố
tại phiên tòa .............................................................................................................. 22
1.5.1. Rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo pháp luật tố tụng hình sự nước
Anh …………………………………………………………………………... 23
1.5.2. Rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo pháp luật tố tụng hình sự Liên
Bang Nga ............................................................................................................ 24
1.5.3. Rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo pháp luật tố tụng hình sự Nhật
Bản …………………………………………………………………………... 25
1.5.4. Rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo pháp luật tố tụng hình sự Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa ................................................................................... 26
CHƯƠNG II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ RÚT QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ TẠI PHIÊN TÒA ... 30
2.1. Quy định về thẩm quyền rút quyết định truy tố tại phiên tòa ......................... 30
2.2. Quy định về thời điểm và phạm vi rút quyết định truy tố tại phiên tòa .......... 32
2.3. Quy định về hình thức rút quyết định truy tố tại phiên tòa............................. 36
2.4. Quy định về căn cứ rút quyết định truy tố tại phiên tòa .................................. 40
2.5. Quy định về hậu quả rút quyết định truy tố tại phiên tòa ............................... 41
CHƯƠNG III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ RÚT QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ TẠI PHIÊN
TÒA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ...... 51
3.1. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về rút
quyết định truy tố tại phiên tòa ................................................................................ 51
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật về rút quyết
định truy tố tại phiên tòa .......................................................................................... 72
3.2.1. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt
Nam về rút quyết định truy tố tại phiên tòa........................................................ 72
3.2.2. Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả của hoạt động rút quyết định
truy tố tại phiên tòa. ........................................................................................... 79
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 85
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Số thứ tự
Ký hiệu chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
1
BLHS
Bộ luật Hình sự
2
BLTTHS
Bộ luật Tố tụng hình sự
3
HĐXX
Hội đồng xét xử
4
KSV
Kiểm sát viên
5
TAND
Tòa án nhân dân
6
TTHS
Tố tụng hình sự
7
VKS
Viện kiểm sát
8
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
Phần mở đầu
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với việc tiến hành cải cách kinh tế, cải cách xã hội, Đảng và Nhà nước
ta luôn chú trọng đến công tác cải cách tư pháp. Đây là một yêu cầu khách quan và
tất yếu của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, song song đó đáp ứng tình hình
thực tiễn trong giai đoạn hiện nay cần phải tăng cường công tác đấu tranh phòng ngừa
tội phạm trong toàn xã hội, hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia. Chủ trương và ý
tưởng công tác cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Trung ương khóa
8 lần VIII, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX, … Theo đó, Đảng
đã đặt ra cho các cơ quan tư pháp nhiệm vụ phải xây dựng được một nền tư pháp
công bằng, dân chủ, nghiêm minh, phục vụ nhân dân. Đặc biệt, Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã nêu rõ “Viện kiểm sát nhân dân các
cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tư pháp… Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên tại
phiên tòa, đảm bảo tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác… Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa…”, Nghị quyết đã đề ra những định hướng, quan điểm chỉ
đạo, biện pháp cụ thể đối với công tác tư pháp. Cụ thể hóa tinh thần của Nghị quyết,
công tác tư pháp bước đầu đã có những chuyển biến tích cực. Phát huy và kế thừa
những thành quả đạt được, ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng tiếp tục ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020. Nghị quyết số 49 đã nhấn mạnh “… Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét
xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh;
nâng cao tính tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt
động tư pháp…”, Nghị quyết đã chỉ rõ một trong những nhiệm vụ cải cách tư pháp
là xác định rõ vị trí, quyền hạn, trách nhiệm và hoàn thiện tổ chức, hoạt động của bộ
máy các cơ quan tư pháp.
1
Để thực hiện việc thể chế các chủ trương và quan điểm trong hai Nghị quyết
nêu trên, Đảng và Nhà nước ta trong thời gian vừa qua đã tiến hành đẩy mạnh cải
cách pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. Đây được xem là
công cụ sắc bén, hữu hiệu giúp Đảng và Nhà nước trong công cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm, góp phần bảo vệ pháp quyền xã hội chủ nghĩa, củng cố và duy trì
trật tự pháp luật, ổn định kinh tế xã hội. Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng không ngừng nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thừa hành quyền lực của Quốc hội, chức
năng của Viện kiểm sát nhân dân được quy định tại khoản 1 Điều 107 Hiếp pháp năm
2013 và khoản 1 Điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, theo đó
“Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Hiện nay ở nước ta, Viện kiểm sát là cơ
quan duy nhất có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Khi thực hành quyền công tố tại
phiên tòa, Kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa có các nhiệm vụ, quyền hạn khác
nhau như đọc bản cáo trạng, tham gia xét hỏi, thực hiện việc luận tội và bảo vệ bản
cáo trạng, phát biểu quan điểm tranh luận, đối đáp với bên bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác, trong đó có quyền rút quyết định truy tố tại phiên tòa.
Việc rút quyết định truy tố tại phiên tòa là hoạt động có ý nghĩa quan trọng.
Việc Kiểm sát viên có quyết định rút quyết định truy tố hay không phụ thuộc rất lớn
vào quá trình tranh tụng tại phiên tòa. Nếu như trước đó, Viện kiểm sát đã ban hành
bản cáo trạng nhằm quyết định truy tố đối với một hay nhiều người về một hay một
số tội phạm nào đó và yêu cầu Tòa án có thẩm quyền đưa ra xét xử thì tại phiên tòa,
sau quá trình xét hỏi, nếu những căn cứ kết tội ban đầu không còn, không đủ cơ sở
để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó hoặc quyết định truy tố ban đầu có
sai sót thì Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa có quyền rút quyết
định truy tố đối với quyết định truy tố không đúng ban đầu, điều này có nghĩa là
không còn lời luận tội và yêu cầu xét xử đối với quyết định truy tố mà Kiểm sát viên
2
đã rút. Khi Kiểm sát viên rút một phần hay rút toàn bộ quyết định truy tố sẽ dẫn đến
những hậu quả khác nhau.
Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đã có những quy định chặt chẽ về thẩm
quyền, thời điểm, phạm vi, thủ tục và hậu quả pháp lý của việc rút quyết định truy tố
tại phiên tòa. Các quy định này đã tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động của các chủ thể
có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong thực tiễn. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy hoạt
động rút quyết định truy tố tại phiên tòa còn một số hạn chế, bất cập nhất định. Để
nâng cao hơn nữa chất lượng của hoạt động này trên thực tế, góp phần bảo vệ quyền
con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự, tác giả đã chọn vấn đề “Rút quyết
định truy tố tại phiên tòa theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp cử nhân luật.
2.
Tình hình nghiên cứu
Trong khoa học pháp lý, vấn đề rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam được nhiều nhà khoa học cũng như những người làm công tác
thực tiễn quan tâm nghiên cứu với nhiều phương diện, cấp độ khác nhau.
Đối với cấp độ luận văn, luận án, khóa luận gồm có: Luận văn Thạc sĩ Luật
học năm 2020 “Rút quyết định truy tố và một số giải pháp hoàn thiện” của tác giả
Quan Tuấn Nghĩa; Luận văn Thạc sĩ Luật học năm 2012 “Tranh luận tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm lý luận và thực tiễn” của tác giả Trần Đình Toản; Luận văn Thạc sĩ
Luật năm 2007 “Thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong điều
kiện cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Nhứt; Khóa luận tốt nghiệp năm 2003
“Vấn đề rút quyết định truy tố của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự” của tác giả
Nguyễn Thanh Nhàn.
Bên cạnh đó, còn nhiều bài viết, bài nghiên cứu của các tác giả và các nhà
nghiên cứu trên những tạp chí khoa học về vấn đề rút quyết định truy tố theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam như: Bài viết “Rút quyết định truy tố và một số giải pháp hoàn
thiện” của tác giả Quan Tuấn Nghĩa, đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 02/2021; Bài viết
“Bàn về hậu quả khi Viện kiểm sát rút quyết định truy tố” của tác giả Đỗ Xuân Tựu,
3
đăng trên tạp chí Kiểm sát số 13/2016; Bài viết “Hoàn thiện các quy định về rút quyết
định truy tố trong Bộ luật Tố tụng hình sự” của tác giả Phạm Thị Hồng Hương được
đăng trên tạp chí Khoa học kiểm sát số 03/2014; Bài viết “Cần sửa đổi, bổ sung quy
định về rút quyết định truy tố” của tác giả Đỗ Văn Chính được đăng trên tạp chí Tòa
án nhân dân số 05/2012; Bài viết “Trường hợp Viện kiểm sát rút quyết định truy tố”
của tác giả Đinh Thế Hưng được đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số
12(213)/2009; Bài viết “Một số đề xuất sửa đổi, bổ sung chế định Viện kiểm sát rút
quyết định truy tố trong Bộ luật Tố tụng hình sự” của tác giả Hồ Đức Anh, được đăng
trên tạp chí Kiếm sát số 19/2008.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu và các bài viết nêu trên cũng đã đề cập
các nội dung liên quan đến rút quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, các
công trình nghiên cứu và các bài viết nêu trên đề cập đến vấn đề rút quyết định truy
tố của Viện kiểm sát trong suốt quá trình tố tụng hình sự, bao gồm trước khi mở phiên
tòa và tại phiên tòa. Các tác giả tiếp cận vấn đề ở nhiều khía cạnh khác nhau với
những mục đích khác nhau, chưa có một công trình nghiên cứu hay một bài viết nào
đề cập chuyên sâu đối với vấn đề rút quyết định truy tố tại phiên tòa. Vì vậy, việc kế
thừa và tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện, đa chiều nhằm làm sáng
tỏ các vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về rút
quyết định truy tố tại phiên tòa, qua đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự là một định hướng nghiên cứu
mới và phù hợp của tác giả.
3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.
Mục đích nghiên cứu
Tác giả chọn đề tài này với mục đích làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cũng như
các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về rút quyết định truy tố tại phiên tòa, đánh
giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về rút quyết định truy tố tại phiên tòa.
Từ đó, tác giả đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng của hoạt động rút quyết
định truy tố tại phiên tòa.
4
3.2.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu như trên, khóa luận có nhiện vụ nghiên cứu là:
+ Phân tích những vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động rút quyết định truy
tố tại phiên tòa trong luật tố tụng hình sự Việt Nam; đồng thời,
+ Phân tích quy định của pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới về
rút quyết định truy tố tại phiên tòa, qua đó rút ra bài học kinh nghiệm cho nước ta
trong tiến trình hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về
rút quyết định truy tố tại phiên tòa;
+ Phân tích các quy định của pháp luật hình sự hiện hành liên quan đến hoạt
động rút quyết định truy tố tại phiên tòa;
+ Thu thập số liệu, vụ án điển hình để xử lý, phân tích thực tiễn hoạt động rút
quyết định truy tố tại phiên tòa theo pháp luật tố tụng hình sự. Trên cơ sở đó xây dựng
những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về vấn đề nghiên cứu.
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.
Đối tượng nghiên cứu
Dựa vào mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, đối tượng nghiên cứu của
đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận chung về hoạt động rút quyết định truy tố tại phiên
tòa; phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện
hành và pháp luật của một số nước trên thế giới về rút quyết định truy tố tại phiên
tòa; nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về rút quyết định truy tố tại phiên tòa ở
Việt Nam.
4.2.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về pháp luật, khóa luận tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, quy định
của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành và các nước Anh, Liên Bang Nga,
Nhật Bản, Trung Quốc về hoạt động rút quyết định truy tố tại phiên tòa.
5
Phạm vi về thời gian, khóa luận nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định của
pháp luật về rút quyết định truy tố tại phiên tòa từ năm 2015 đến năm 2020, nhằm
đảm bảo tính toàn diện, khách quan cho việc nghiên cứu.
Phạm vi về không gian, khóa luận nghiên cứu việc áp dụng pháp luật, các số
liệu và những vụ án điển hình về rút quyết định truy tố tại phiên tòa trên phạm vi toàn
quốc.
5.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu các nội dung liên quan đến đề tài dựa trên quan điểm
của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về
Nhà nước và pháp luật, về hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân trong hoạt động tư pháp.
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau như: phân tích, tổng
hợp, so sánh, đối chiếu, phương pháp lịch sử … để nghiên cứu đề tài. Việc sử dụng
các phương pháp này trong việc nghiên cứu đề tài cho phép tác giả xem xét vấn đề từ
nhiều khía cạnh khác nhau và tổng hợp lại để có cái nhìn khách quan, toàn diện về
hoạt động rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo luật tố tụng hình sự Việt Nam.
6.
Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của khóa luận
Khóa luận góp phần làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, pháp lý về rút quyết định
truy tố tại phiên tòa theo luật tố tụng hình sự Việt Nam. Một số kiến nghị của khóa
luận có giá trị tham khảo cho các nhà lập pháp trong việc hoàn thiện pháp luật về rút
quyết định truy tố tại phiên tòa.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo
phục vụ cho công tác nghiên cứu, học tập của sinh viên ngành Luật và những ai quan
tâm đến hoạt động rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam.
6
7.
Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục các từ viết tắt, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung của khóa luận được trình bày trong 3 chương:
Chương I. Những vấn đề lý luận về rút quyết định truy tố tại phiên tòa trong
tố tụng hình sự.
Chương II. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về rút
quyết định truy tố tại phiên tòa.
Chương III. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam về rút quyết định truy tố tại phiên tòa và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật.
7
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ RÚT QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ TẠI PHIÊN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1.
Khái niệm rút quyết định truy tố tại phiên tòa
Tố tụng hình sự bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau như khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử, … đây là các giai đoạn kế tiếp nhau của quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Trong đó, giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra các hành
vi, quyết định tố tụng của giai đoạn trước. Nếu không có việc truy tố của VKS trong
giai đoạn truy tố thì sẽ không có giai đoạn xét xử của Tòa án.
Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thông qua thủ tục tố tụng hình
sự thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền công
tố được thể hiện ra bên ngoài bằng hoạt động cụ thể của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, người có thẩm quyền trong cơ quan đó gọi là thực hành quyền công tố. Nội
dung của quyền công tố có thể được liệt kê gồm: kiểm sát tính hợp pháp của hoạt
động tố tụng hình sự, truy tố bị can ra trước Tòa án và thực hiện quyền buộc tội, bảo
vệ cáo trạng tại phiên tòa. Ở nước ta, quyền công tố được giao cho cơ quan là Viện
kiểm sát nhân dân thực hiện.
Truy tố là một trong những chức năng của quyền công tố, là hoạt động đặc
trưng nhất thể hiện chức năng thực hành quyền công tố của VKS nhằm xem xét, quyết
định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội ra trước Tòa án có thẩm
quyền để xét xử. Tại giai đoạn này, VKS căn cứ vào các quy định của pháp luật, trọng
tâm là pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, sử dụng các quyền năng pháp lý của mình
do pháp luật quy định tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm kiểm tra, đánh giá một
cách chính xác, khách quan, toàn diện những chứng cứ, tài liệu đã thu thập được trong
hồ sơ vụ án, trên cơ sở đó đưa ra một trong các quyết định: truy tố bị can; trả hồ sơ
điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án hình sự. Có thể hiểu rằng, truy tố
là quyền năng đặc trưng mà Nhà nước trao cho VKS và chỉ có VKS mới có quyền
8
đưa ra bản cáo trạng truy tố một người về một hay một số tội nào đó trước Tòa án có
thẩm quyền xét xử.
Trong giai đoạn truy tố, VKS quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án
bằng bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố (theo thủ tục rút gọn). Bản cáo trạng phải
dựa vào bản kết luận điều tra để nêu rõ: ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra tội
phạm; ai là người đã thực hiện hành vi phạm tội, thủ đoạn, mục đích, hậu quả của tội
phạm và những tình tiết quan trọng khác; những chứng cứ xác định tội trạng của bị
can, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân
của bị can và mọi tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Phần kết luận của cáo trạng
ghi rõ tội danh và điều khoản Bộ luật Hình sự được áp dụng. Bản cáo trạng phải được
giao cho bị can.
Bản cáo trạng là văn bản pháp lý chính thức của VKS buộc tội bị can thuộc
thẩm quyền của Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS. Tại phiên tòa, KSV là người
thừa ủy quyền Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS để công bố và bảo vệ bản cáo
trạng, do vậy phải đọc nguyên văn, sau đó mới bổ sung nếu thấy cần thiết. Việc bổ
sung của KSV trong trường hợp này là nhằm làm rõ thêm nội dung của bản cáo trạng
chứ không làm thay đổi bất cứ nội dung nào của cáo trạng1.
Như vậy, việc truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng được VKS
thực hiện trong giai đoạn truy tố vụ án. Sau khi ra quyết định truy tố bằng bản cáo
trạng, VKS sẽ chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án và bản cáo trạng sang Tòa án có thẩm
quyền xét xử. Về mặt nguyên tắc, khi hồ sơ vụ án và cáo trạng đã chuyển sang giai
đoạn xét xử thì thẩm quyền giải quyết vụ án (xem xét và ra bản án, quyết định) thuộc
về Tòa án. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án sẽ tiến hành các hoạt động tố tụng
để tạo ra các tiền đề cần thiết cho hoạt động xét xử tại phiên tòa. Tại phiên tòa, trên
cơ sở việc kiểm tra, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ các chứng cứ và nghe các
bên tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án sẽ ra bản án, quyết định về việc giải quyết vụ án.
Nguyễn Nhứt (2007), Thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong điều kiện cải cách tư
pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.44-48.
1
9
Tuy nhiên, trong giai đoạn xét xử pháp luật tố tụng hình sự vẫn cho phép VKS rút lại
quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và tại phiên tòa. Việc rút quyết định truy tố
của VKS trong các giai đoạn này sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý khác nhau. Để
nghiên cứu về chế định rút quyết định truy tố tại phiên tòa thì điều tiên quyết là phải
làm sáng tỏ khái niệm về đối tượng nghiên cứu. Mặc dù, việc rút quyết định truy tố
tại phiên tòa đã được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự và chế định này có vị
trí, vai trò quan trọng về mặt lý luận, pháp lý và thực tiễn. Tuy nhiên, đến nay pháp
luật tố tụng hình sự chưa đưa ra khái niệm pháp lý của chế định này. Trong khoa học
pháp lý cũng rất ít quan điểm khoa học đưa ra khái niệm về rút quyết định truy tố tại
phiên tòa.
Theo từ điển Tiếng Việt thì, “rút” có nghĩa là “thu lại, lấy ra, thu về”2. Như
vậy có thể hiểu rút quyết định truy tố là thu lại, thu về việc truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với bị can đã nêu trong bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố (theo thủ tục rút
gọn).
Theo tác giả Quan Tuấn Nghĩa: “Rút quyết định truy tố là thu lại việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với bị can đã nêu trong bản cáo trạng hoặc quyết định truy
tố theo thủ tục rút gọn hoặc quyết định khác, nghĩa là thu lại việc buộc tội3”. Quan
điểm này được đưa ra trên cơ sở kết hợp thuật ngữ “rút” theo từ điển Tiếng Việt và
bản chất của quyết định truy tố. Quan điểm này chưa xây dựng khái niệm về rút quyết
định truy tố dựa trên các dấu hiệu đặc trưng của đối tượng nghiên cứu như chủ thể,
căn cứ, pháp luật điều chỉnh, giai đoạn rút.
Theo tác giả Trần Đình Thắng: “Rút quyết định truy tố chính là rút cáo trạng.
Rút toàn bộ quyết định truy tố tức là rút toàn bộ cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy
tố người phạm tội; rút một phần quyết định truy tố tức là Kiểm sát viên đề nghị Hội
đồng xét xử không xét xử người phạm tội về một tội hoặc về một số tội nào đó hoặc
không áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đã nêu trong cáo trạng.
Từ điển Tiếng Việt (1994), Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
Quan Tuấn Nghĩa (2021), “Rút quyết định truy tố và một số giải pháp hoàn thiện”, Kiểm sát, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Số 02, tr.31-37.
2
3
10
Việc rút quyết định truy tố thường được thực hiện ở hai giai đoạn: giai đoạn từ khi
nhận hồ sơ vụ án đến trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử; giai đoạn từ khi
có quyết định đưa vụ án ra xét xử tới khi mở phiên tòa4”. So với quan điểm trên, quan
điểm này tương đối đầy đủ và toàn diện hơn khi tiếp cận khái niệm rút quyết định
truy tố ở phạm vi rút (một phần hoặc toàn bộ), giai đoạn rút quyết định truy tố và chủ
thể rút quyết định truy tố. Tuy vậy, trong quan điểm này căn cứ rút quyết định truy tố
chưa được đề cập. Bên cạnh đó, việc đồng nhất rút quyết định truy tố chính là rút cáo
trạng là chưa toàn diện bởi vì ngoài việc truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo
trạng thì VKS còn ra quyết định truy tố (theo thủ tục rút gọn). Vì vậy, trong luật sử
dụng thuật ngữ “rút quyết định truy tố” chứ không dùng thuật ngữ “rút cáo trạng”.
Về mặt lô gic của quá trình nhận thức, để xây dựng khái niệm về một đối tượng
hoặc sự việc cụ thể thì cần dựa trên các dấu hiệu đặc trưng của chúng. Vì vậy, để xây
dựng khái niệm về rút quyết định truy tố tại phiên tòa thì cần dựa trên bản chất của
việc rút, chủ thể, phạm vi, căn cứ pháp lý, giai đoạn rút quyết định truy tố. Trên cơ
sở những dấu hiệu đặc trưng về rút quyết định truy tố tại phiên tòa, tác giả đưa ra khái
niệm như sau:
“Rút quyết định truy tố tại phiên tòa là việc Viện kiểm sát có thẩm quyền rút
một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố khi có các căn cứ luật định tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm”.
Như vậy, rút quyết định truy tố là nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự.
Thực tiễn hoạt động truy tố của VKS ở một số địa phương cho thấy, với nhiều lý do
khác nhau như điều kiện về thời gian, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tinh
thần trách nhiệm, ... Do đó, việc thay đổi hay rút quyết định truy tố tại phiên tòa là
một hoạt động hoàn toàn có khả năng xảy ra trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Trần Đình Thắng, “Rút quyết định truy tố theo quy định của BLTTHS năm 2015”,
[https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/rut-quyet-dinh-truy-to-theo-quy-dinh-cua-bltth-2015] (truy cập
ngày 10/6/2021).
4
11
1.2.
Đặc điểm của rút quyết định truy tố tại phiên tòa
Trên cơ sở khái niệm về rút quyết định truy tố tại phiên tòa đã được trình bày
trên, có thể rút ra các đặc điểm của rút quyết định truy tố tại phiên tòa, như sau:
- Về bản chất: rút quyết định truy tố tại phiên tòa phải là việc - là hoạt động
được thực hiện dưới dạng hành động. VKS không thể rút quyết định truy tố dưới dạng
không hành động. Về mặt nguyên tắc, đây là một hoạt động, hành vi tố tụng được
pháp luật tố tụng hình sự quy định. Vì vậy, việc rút quyết định truy tố là một hoạt
động mang tính chủ động, có mục đích của VKS được thực hiện dưới những hình
thức cụ thể.
- Về hình thức rút quyết định truy tố: rút quyết định truy tố là hoạt động mang
ý nghĩa đặc biệt, nếu như quyết định truy tố là cơ sở để truy tố một người hay nhiều
người về một hay nhiều hành vi phạm tội và là cơ sở để Tòa án có thẩm quyền đưa
vụ án ra xét xử thì rút quyết định truy tố là hoạt động mang ý nghĩa làm chấm dứt
việc truy tố trong phạm vi được rút và đồng nghĩa với việc chấm dứt yêu cầu xét xử
của VKS đối với một hay nhiều người về một hay nhiều hành vi phạm tội. Đây là một
trong những hoạt động tố tụng quan trọng của VKS tại phiên tòa nên phải được thực
hiện dưới một hình thức nhất định. Nếu như quyết định truy tố được thể hiện dưới
dạng văn bản chính thức của VKS là bản cáo trạng thì đối với rút quyết định truy tố
tùy vào thói quen trong cách làm việc cũng như mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà
nước với nhau mà hoạt động rút quyết định truy tố có thể được thể hiện bằng văn bản
(Quyết định rút quyết định truy tố đối với giai đoạn trước khi mở phiên tòa) hoặc
bằng lời nói (thể hiện bằng lời nói trực tiếp tại phiên tòa).
- Thẩm quyền rút quyết định truy tố: VKS nhân dân là cơ quan hoạt động theo
chế độ thủ trưởng, người lãnh đạo cao nhất là Viện trưởng VKS. Viện trưởng VKS
là người đứng đầu, điều hành và chỉ đạo các hoạt động của cơ quan mình. Theo đó,
các quyết định tố tụng của VKS phải do Viện trưởng ban hành. Khi vắng mặt, Viện
trưởng có thể ủy quyền cho một Phó Viện trưởng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện trưởng và Phó Viện trưởng được ủy quyền phải chịu trách nhiệm trước Viện
trưởng về nhiệm vụ được ủy quyền. Quyết định truy tố là quyết định tố tụng đặc trưng
12
của VKS, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS là chủ thể có thẩm quyền ban hành. Để
đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất trong quản lý, điều hành cũng như để đảm
bảo tính đồng bộ trong hoạt động ban hành quyết định tố tụng thì về nguyên tắc quyết
định truy tố do chủ thể nào ban hành thì chủ thể đó mới có thẩm quyền rút quyết định
truy tố đó. Do đó, nếu như trong giai đoạn chuẩn bị xét xử việc rút quyết định truy tố
do Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS quyết định. Tuy nhiên, tại phiên tòa, khi thực
hành quyền công tố tại phiên tòa, nếu xét thấy có căn cứ rút quyết định truy tố thì
KSV là chủ thể có thẩm quyền rút quyết định truy tố, bởi lẽ, KSV là người đại diện
cho quyền lực Nhà nước, được sự phân công của Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình về việc giải quyết vụ án
tại phiên tòa. Đối với trường hợp vụ án do VKS cấp trên thực hành quyền công tố,
kiểm sát điều tra và truy tố, phân công VKS cấp dưới thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử sơ thẩm, quyết định truy tố trong trường hợp này do VKS cấp trên
ban hành, phân công cho VKS cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
tại phiên tòa. Do đó, nếu tại phiên tòa có căn cứ rút quyết định truy tố của VKS cấp
trên thì KSV của VKS cấp dưới không được quyền rút quyết định truy tố mà phải báo
cáo VKS cấp trên xem xét, quyết định.
- Cơ sở pháp lý điều chỉnh việc rút quyết định truy tố: rút quyết định là hoạt
động tố tụng được thực hiện bởi chủ thể có thẩm quyền trong quá trình tố tụng hình
sự. Vì vậy, hoạt động này được điều chỉnh bởi các quy định của Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2015 (sau đây gọi tắt là BLTTHS năm 2015). Bản chất của hoạt động tố tụng
hình sự là các cơ quan tư pháp nhân danh quyền lực Nhà nước thực hiện hoạt động
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và xử lý trách nhiệm hình sự đối với một hoặc nhiều
người về hành vi vi phạm pháp luật hình sự của người đó. Cơ sở để điều tra, truy tố
và xét xử một người là hành vi phạm tội của người đó và hành vi đó phải được quy
định trong Bộ luật Hình sự. Theo đó, cơ sở để VKS ra quyết định truy tố đối với một
người là những căn cứ về hành vi bị coi là tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình
sự. Nếu như cơ sở cho việc ra quyết định truy tố ban đầu không còn thì VKS phải rút
lại quyết định truy tố ban đầu, có nghĩa là không còn căn cứ để buộc tội đối với người
13
- Xem thêm -