Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn tiểu thuyết viết về nông thôn của hoàng minh tường...

Tài liệu Luận văn tiểu thuyết viết về nông thôn của hoàng minh tường

.PDF
123
649
116

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI -------------- NGUYỄN ĐỖ TOÁN TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN CỦA HOÀNG MINH TƢỜNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN HÀ NỘI – 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI -------------- NGUYỄN ĐỖ TOÁN TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN CỦA HOÀNG MINH TƢỜNG CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC MÃ SỐ : 60 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Tôn Thảo Miên HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bản luận văn này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu và tài liệu được trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu này không trùng với bất cứ công trình nào đã được công bố trước đó. Tôi chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình. Hà Nội, tháng 5 năm 2017 Tác giả Nguyễn Đỗ Toán MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................3 2.1. Những nghiên cứu chung về tiểu thuyết đương đại viết về nông thôn .....3 2.2. Những nghiên cứu về tác phẩm của Hoàng Minh Tường .........................7 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................11 3.1. Đối tượng nghiên cứu..............................................................................11 3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................12 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................12 5. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................12 6. Đóng góp của luận văn ..................................................................................12 7. Cấu trúc luận văn ...........................................................................................13 Chƣơng 1 TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI VIẾT VỀ NÔNG THÔN VÀ TÁC GIẢ HOÀNG MINH TƢỜNG..............................................................................14 1.1. Vài nét về tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới .......................................14 1.2. Tiểu thuyết viết về nông thôn và tác giả Hoàng Minh Tường ...................25 1.2.1. Khái quát tiểu thuyết viết về nông thôn ...............................................25 1.2.2. Hoàng Minh Tường và những tác phẩm viết về nông thôn của ông ...33 Chƣơng 2 CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT HOÀNG MINH TƢỜNG .................................................................................................................41 2.1. Cốt truyện ...................................................................................................41 2.1.1. Khái niệm .............................................................................................41 2.1.2. Các kiểu cốt truyện cơ bản ...................................................................42 2.2. Nhân vật ......................................................................................................49 2.2.1. Khái niệm nhân vật ..............................................................................49 2.2.2. Các kiểu nhân vật cơ bản .....................................................................50 2.2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .............................................................66 Chƣơng 3 KIẾN TẠO KHÔNG GIAN – THỜI GIAN, NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU TRONG TIỂU THUYẾT HOÀNG MINH TƢỜNG ...................................................................................... 75 3.1. Không gian nghệ thuật ................................................................................75 3.1.1. Khái niệm .............................................................................................75 3.1.2. Kiến tạo không gian nghệ thuật ...........................................................76 3.2. Thời gian nghệ thuật ...................................................................................90 3.2.1. Khái niệm .............................................................................................90 3.2.2. Kiến tạo thời gian nghệ thuật ...............................................................90 3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật ..................................................................................93 3.3.1. Ngôn ngữ đối thoại ...............................................................................98 3.3.2. Ngôn ngữ độc thoại ............................................................................100 3.4. Giọng điệu nghệ thuật ...............................................................................101 3.4.1. Khái niệm ...........................................................................................101 3.4.2. Giọng điệu xót xa, chua chát ..............................................................102 3.4.3. Giọng điệu giễu nhại ..........................................................................104 KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 108 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Điều đầu tiên khiến cho luận văn này xuất hiện là câu hỏi: Người ta đã tạo nên một nông thôn Việt Nam như thế nào trong tiểu thuyết? Hoàng Minh Tường, trong tư cách là một tác giả tiêu biểu của mảng tiểu thuyết viết về nông thôn, ông đã tạo nên một nông thôn của riêng mình như thế nào? Những tiêu điểm nhỏ hơn, nhưng lại sẽ chụm vào nhau trong một nỗ lực làm hiện diện một cái nhìn tổng thể về nông thôn như: Cốt truyện (Tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường kể chuyện gì ở nông thôn?), Nhân vật (Con người trong tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường là ai? Như thế nào?), Không gian – thời gian (Nông thôn trong những kiến tạo, quy chiếu của Hoàng Minh Tường?), Ngôn ngữ - Giọng điệu (Những phương diện có tính khu biệt tạo nên sắc thái nghệ thuật riêng của nông thôn trong tác phẩm Hoàng Minh Tường?),… Những bận tâm đó đòi hỏi một câu trả lời có tính hệ thống và cặn kẽ. Nông thôn, dĩ nhiên không chỉ xuất hiện trong tiểu thuyết. Trong các thể loại khác, nông thôn vẫn chiếm được địa vị quan trọng bởi lịch sử dày dặn của nó trong ký ức và thực hành sáng tạo của nghệ sĩ Việt Nam. Tuy vậy, theo M. Bakhtin, tiểu thuyết là thể loại tiêu biểu cho thời đại mới, tiêu biểu cho thế giới quan đối thoại. Tiểu thuyết là thể loại duy nhất còn trẻ, đang biến chuyển, chưa định hình, nòng cốt chưa rắn lại, chúng ta chưa thể dự đoán hết khả năng uyển chuyển của nó. Tiểu thuyết thay đổi hình tượng không gian, thời gian so với sử thi, thay đổi trong nguyên tắc tư duy và cấu trúc hình tượng. Đặc biệt là sự tiếp xúc giữa tiểu thuyết và cái đương đại đang tiếp diễn, tính vấn đề của tiểu thuyết, 1 tính đa ngữ của tiểu thuyết đã hấp dẫn chúng tôi nghiên cứu nông thôn trong thể loại tiểu thuyết, tập trung vào trường hợp Hoàng Minh Tường. Từ năm 1975 tới nay, đề tài nông thôn trong tiểu thuyết được tái hiện đầy đủ, sinh động hơn qua các tác phẩm của: Lê Lựu, Đào Thắng, Nguyễn Khắc Trường, Dương Hướng, Trịnh Thanh Phong, Vũ Xuân Tửu, Nguyễn Quang Thiều, Tạ Duy Anh,… và Hoàng Minh Tường là một trong số đó. Hơn ba mươi năm cầm bút, Hoàng Minh Tường đã có một sự nghiệp văn chương khá lớn với mười ba tiểu thuyết, chín tập truyện ngắn, năm tập bút ký, phóng sự. Trong số những tiểu thuyết đã được xuất bản, tiểu thuyết Thủy hỏa đạo tặc, tập 1 trong bộ tiểu thuyết Gia phả của đất (gồm 2 tập) là tác phẩm được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1997 và được tái bản nhiều lần. Hiện thực nông thôn với những biến đổi phức tạp trong đời sống của người nông dân trong bối cảnh đổi mới đã được Hoàng Minh Tường diễn tả một cách chân thực và sâu sắc. Những đổi mới, cách tân trong tiểu thuyết trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật đã góp phần khẳng định vị trí và đóng góp của Hoàng Minh Tường vào đời sống văn chương Việt Nam đương đại nói chung và vào dòng văn học viết về nông thôn nói riêng. Chính điều này đã thôi thúc người viết tìm hiểu sáng tác của Hoàng Minh Tường, đặc biệt là tiểu thuyết Gia phả của đất – tác phẩm đã được chuyển thể thành bộ phim cùng tên, tạo nên hiệu ứng tích cực trong đời sống xã hội. Nông thôn, Nông dân, Nông nghiệp vốn dĩ là những phạm trù quen thuộc nhưng cũng đầy lạ lẫm với bất kỳ một xúc tiến thâm nhập, nghiên cứu nào. Những truyền thống nông thôn và những kiến tạo nông thôn mới, sự dịch chuyển của nông thôn trong quá trình vận động của văn hoá, lịch sử, sự hiện diện trong thể loại tiểu thuyết, qua từng tác giả, từng thời kỳ lịch sử,… là điều khiến cho 2 những câu hỏi không phải đã được trả lời một cách triệt để. Do vậy, những nghiên cứu của chúng tôi ở đây, nếu có chút đóng góp nào đó là ở chỗ nhận ra một lát cắt, một trường hợp, đặt trong cái nhìn tổng thể của truyền thống nông thôn đang đi tới hiện tại, đó là Tiểu thuyết viết về nông thôn của Hoàng Minh Tường. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Những nghiên cứu chung về tiểu thuyết đƣơng đại viết về nông thôn Tiểu thuyết viết về nông thôn là một bộ phận khá tiêu biểu của văn học Việt Nam. Dường như, người ta có thể nhận ra dòng chảy liên tục của mảng văn chương này từ trước đổi mới, hoặc sớm hơn nữa, trước 1945. Nghĩa là, đề tài nông thôn luôn chiếm được rất nhiều sự chú ý của nghệ thuật. Nói thế để thấy rằng, sự phát triển của văn học viết về nông thôn và nghiên cứu về văn học viết về nông thôn – tiểu thuyết, là một hướng nghiên cứu rộng mở, có tiền đề, lịch sử và tương lai. Trước khi có những khái quát chung về việc nghiên cứu tiểu thuyết đương đại viết về nông thôn, có thể điểm lại những gương mặt sáng giá của dòng văn chương này. Ở điểm nhìn đương đại, không thể không nhắc đến Lê Lựu với Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Dương Hướng với Bến không chồng, Nguyễn Khắc Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma, Đỗ Minh Tuấn với Thần thánh và bươm bướm, Đào Thắng với Dòng sông Mía, Nguyễn Quang Thiều với Kẻ ám sát cánh đồng, Trịnh Thanh Phong với Ma làng, Dương Duy Ngữ với Người giữ đình làng, Tạ Duy Anh với Lão Khổ, Hoàng Minh Tường với Thuỷ hoả đạo tặc, Đồng sau bão, Thời của Thánh Thần,… Còn những tên tuổi tác giả và tác phẩm khác mà sự nhắc lại họ đương nhiên làm dầy dặn hơn những gì đã nói ở đây. Dẫu 3 thế, việc điểm lại những nghiên cứu về tiểu thuyết đương đại với đề tài nông thôn không đặt ra quá quan thiết ở đây. Trên tinh thần đó, có thể thấy, ở những gương mặt tác giả, tác phẩm trên, họ được giới nghiên cứu, phê bình chú ý, tạo nên các phạm vi, không gian nghiên cứu riêng từ khá sớm. Năm 1986, tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu ra mắt bạn đọc. Thời điểm 1986 là một mốc luôn cần được nhắc lại bởi tính mở và đóng của nó. Dĩ nhiên, khi mở ra một thời kỳ mới, có những điều cần phải khép lại. Thời xa vắng khép lại một thời có lẽ chưa thật xa, nhưng cần phải được xem là đã xa, hướng đến một hoàn cảnh mới cho con người trong tinh thần đổi mới. Tiểu thuyết này lập tức được chú ý, được xem là một trong những cái mốc của văn chương đổi mới nói chung và văn chương viết về nông thôn nói riêng. Trong đó, đáng lưu ý là những bài viết của Nguyễn Hoà: Suy tư từ một “Thời xa vắng” [30]; Nguyễn Văn Lưu: Nhu cầu nhận thức lại thực tại qua một “Thời xa vắng” [38]; Vương Trí Nhàn: Một đóng góp vào việc nhận diện con người Việt Nam hôm nay [43]; Hoàng Ngọc Hiến: Đọc Thời xa vắng của Lê Lựu [29]. Những bài viết đã đặt ra vấn đề nhận thức lại thực tại, những ứng xử mới trên tinh thần Đổi mới để từ đó có những bước đi hiệu quả hơn trong chặng đường phía trước. Sau Thời xa vắng của Lê Lựu, tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng ra đời (1990). Tác phẩm này cũng thu hút được sự chú ý của độc giả và lập tức được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Giới nghiên cứu, phê bình cũng chú ý để đưa ra những thẩm định về tác phẩm này. Trong dòng chảy đó, những bài viết của Nguyên Ngọc (Văn xuôi sau 1975, thử thăm dò đôi nét quy luật phát triển) [41], Nguyễn Văn Long (Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục, H, 2002,[36, 404]. Trung Trung Đỉnh (Dương Hướng và Bến không chồng đăng trên tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 12 năm 1991) [19],… đã có cái nhìn khái 4 quát về tác phẩm của Dương Hướng. Năm 1990 còn được ghi dấu bởi tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường. Tác phẩm này, cũng như Bến không chồng hay Thời xa vắng, được chú ý, được chuyển thể thành phim và thu hút được sự chú ý của công chúng, cả ở bộ phận đại chúng và bộ phận tinh hoa. Sự tiếp cận khá rộng rãi của công chúng phổ thông, những nghiên cứu của Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê, Trần Đình Sử, Hà Minh Đức, Ngô Thảo, Nguyễn Hữu Sơn, Hồng Diệu, Lê Nguyên Cẩn,… đã nói lên sự lôi cuốn của tác phẩm cả ở dạng tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh. Nguyễn Đăng Mạnh chú ý đến sự nhập nhằng ma quỷ và con người trong tác phẩm [44]; Phong Lê chú ý đến khía cạnh ngầm ẩn, với sự giao tranh của những yếu tố dị dạng [44]; trong khi đó, Trần Đình Sử lại quan tâm tới khía cạnh xã hội của tác phẩm khi ông cho rằng, Mảnh đất lắm người nhiều ma thể hiện thực trạng xã hội lúc bấy giờ [44]. Hà Minh Đức lại cho rằng, tác phẩm này là sự xáo trộn, đan xen của nhiều thế lực [44]. Lê Nguyên Cẩn dưới góc nhìn của mình lại quan tâm đến cái kỳ ảo [10]; Hồng Diệu thì nhấn mạnh phương diện đổi mới gợi lên từ tác phẩm [18],… Những năm sau đó, văn đàn Việt Nam tiếp tục chứng kiến sự ra đời của Ma làng (2001), Người giữ đình làng (2001), Dòng sông Mía (2004), Thần thánh và bươm bướm (2009) và các tác phẩm của Hoàng Minh Tường như đã biết. Trên cái nhìn đại thể, giới nghiên cứu đã có những xâm nhập ở mức độ khá kịp thời. Những tác giả như Bích Thu (Những nỗ lực sáng tạo của tiểu thuyết Việt Nam sau đổi mới), Bùi Việt Thắng (Tiểu thuyết đương đại), Phong Lê (Tiểu thuyết mở đầu thế kỉ XXI trong tiến trình văn học Việt Nam từ tháng 8 – 1945), Trần Cương với bài viết Văn xuôi viết về nông thôn nửa sau những năm 80 [14]; Nguyễn Thị Bình với bài Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 5 1975 [5]; Nguyễn Thị Hương Lan với đề tài Tiểu thuyết viết về nông thôn trong văn xuôi thời kỳ đổi mới (Nguyễn Thị Hương Lan) [35]; Lã Duy Lan với luận án Phó Tiến sĩ: Văn xuôi viết về nông thôn trong công cuộc đổi mới qua một số tác phẩm tiêu biểu [34]; Phùng Thị Hồng Thắm với Luận văn Thạc sĩ: Tiểu thuyết viết về nông thôn thời kỳ đổi mới (Qua một số tác phẩm đoạt giải)[53]; Luận án Tiến sĩ của Bùi Quang Trường: Văn xuôi viết về nông thôn trong văn học Viêt Nam sau 1975 [63], Luận án Tiến sĩ của Bùi Như Hải: Đặc trưng phản ánh hiện thực của tiểu thuyết Việt Nam về nông thôn từ 1986 đến nay [24],… Những nghiên cứu từ khá sớm của Lã Duy Lan, có thể là một tham khảo về ý tưởng, nhưng ở đó, vẫn hiện lên rất rõ những khuyết thiếu về mặt tư duy thể loại. Cụ thể, chúng tôi thấy rằng luận án Phó Tiến sĩ của Lã Duy Lan tập trung chủ yếu vào phương diện nội dung, phần thể loại được đặt ra nhưng chưa giải quyết được một cách thoả đáng. Chẳng hạn, ông nêu lên vấn đề thể loại tiểu thuyết chỉ đơn giản là sự thay đổi dung lượng để nói được nhiều hơn, thể hiện được cuộc sống một cách rộng lớn hơn. Cũng đặt ra vấn đề như Lã Duy Lan nhưng phạm vi khảo sát rộng hơn, Bùi Quang Trường chú ý đến tất cả các tác phẩm văn xuôi (truyện ngắn và tiểu thuyết). Trong nghiên cứu của mình, các vấn đề hiện thực nông thôn, không gian nông thôn, những hướng tiếp cận nông thôn và cảm hứng về nông thôn được tác giả tập trung nghiên cứu. Điểm nhìn thể loại, đã được đề cập qua các phạm trù ngôn ngữ, giọng điệu nhưng lại chưa khái quát và gọi tên thành một hướng tiếp cận chủ đạo. Luận án của Bùi Như Hải có thể được xem là công trình công phu về tiểu thuyết nông thôn Việt Nam từ sau 1986. Tuy nhiên, cái rõ nhất trong nghiên cứu của tác giả này mà chúng tôi nhận ra là những nghiên cứu về cốt truyện, nhân vật, những khảo sát về không gian, thời gian nghệ thuật dưới góc nhìn thể loại vẫn chưa được chú ý thoả đáng. Điều đáng nói 6 hơn, những luận án vừa nêu đều hướng đến những nghiên cứu có tính chất bao quát, không phải là những nghiên cứu trường hợp. Vì thế, Hoàng Minh Tường và tác phẩm của ông cũng nằm trong hoàn cảnh bị lướt qua hoặc dừng lại ở việc điểm tên. Dẫu như thế, những công trình này là những tham khảo hữu ích khi hầu như tất cả đều tập trung vào khía cạnh hiện thực của nông thôn, sự ì trệ của nông thôn, bước chuyển mình sau đổi mới, những tàn dư và tinh thần khai minh, những người cũ và người mới, những mô hình cũ, tư duy cũ và mô hình mới, tư duy mới, ngôn ngữ và nghệ thuật trần thuật của tiểu thuyết,… Đó là những viên gạch quan trọng, những gợi ý hữu ích để những người nghiên cứu đi sau tiếp tục có những tham khảo và khơi tạo những mạch nguồn mới. 2.2. Những nghiên cứu về tác phẩm của Hoàng Minh Tƣờng Những tiểu thuyết viết về nông thôn nói chung và những thực hành viết của Hoàng Minh Tường nói riêng, đã thu hút khá nhiều sự chú ý của giới nghiên cứu, phê bình, báo chí truyền thông bởi thành tựu nghệ thuật và các vấn đề ông đặt ra trong tác phẩm của mình. Bàn về Thủy hỏa đạo tặc, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ đã có nhận xét xác đáng về tinh thần sáng tạo nghệ thuật và tài năng của Hoàng Minh Tường. Theo đó, bằng ngòi bút của mình nhà văn nêu ra những mảng đen, bóng tối, nỗi đau con người trong xã hội với định kiến, giáo điều đè nặng từ cách sống, lối tư duy. Nhấn mạnh đến vai trò, ý thức công dân, trách nhiệm nghệ sĩ trong đời sống, trong Giáo trình Văn học Việt Nam sau 1975, nhà phê bình Bùi Việt Thắng đã khẳng định Thủy hỏa đạo tặc nằm trong xu hướng xông thẳng vào thực tại, trực tiếp viết về các vấn đề sản xuất, quản lý kinh tế xã hội. “Xu hướng văn xuôi này thể hiện sự dấn thân, nhập cuộc của nhà văn vào khả năng đáp trả nhanh nhạy các vấn đề bức xúc của đời sống xã hội” [54]. Đánh 7 giá Hoàng Minh Tường là một cây bút giàu nội lực, có tài trên cơ sở những kế thừa và cách tân, đổi mới nội dung, chủ đề, lối viết, tác giả Dương Thị Kim Huệ trong bài Cái tôi tác giả trong bút kí “Canada màu phong đỏ” đã khẳng định: “Hoàng Minh Tường là cây bút giàu tài năng, có cá tính và đam mê sáng tạo nhưng ông vẫn học hỏi, kế thừa tinh hoa các bậc tiền bối văn chương” [31]. Tác giả Đặng Hiển, bài viết Ngư phủ- sức mạnh của người dân biển, bút lực của nhà văn, khẳng định: “đọc Ngư phủ, ta vui vì có trong tay mình cuốn tiểu thuyết hay. Nó chứng minh sức sống của nền văn học hiện đại, sức hút của cây bút văn xuôi Hoàng Minh Tường” [27]. Làm rõ hơn những phương diện tài năng, phong cách, chủ đề trong sáng tác của Hoàng Minh Tường, tác giả Vũ Nho trong bài Phê bình tiểu thuyết “Thời của thánh thần”, khẳng định Hoàng Minh Tường là một người từng trải, có vốn sống, kinh nghiệm, sự hiểu biết và một thái độ tập trung làm việc trên con đường nghệ thuật của mình. Theo tác giả Vũ Nho thì tác phẩm vượt trội này sẽ được đón nhận một cách nồng nhiệt bởi sự bứt phá mà ông cho là rất ngoạn mục của nó. Ông viết nhận định: Cải cách ruộng đất, đấu tranh chống Nhân văn Giai phẩm, chống xét lại; giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước; Hòa hợp dân tộc… Những vấn đề cốt lõi ấy được xem xét và đánh giá qua những số phận mấy đời chìm nổi của một gia đình. Thời gian đủ độ lùi cần thiết nhưng những hiểu biết của một cây bút phóng sự, tiểu thuyết có hạng, và suy ngẫm một đời viết, mới là yếu tố quyết định làm nên thành công của tác phẩm này. Từ quan điểm ấy, Vũ Nho kết luận: Thời của Thánh Thần là “một cuộc bứt phá ngoạn mục” [45]. Hà Thế, tác giả bài viết Nếu chỉ tâng bốc, tô hồng trên báo Quân đội nhân dân (cuối tuần) đã gián tiếp nhận xét về cuốn tiểu thuyết của nhà văn Hoàng Minh Tường: “Đọc anh thấy rõ tính nhân bản vẫn là một yếu tố không thể thiếu trong các tác phẩm. Nhưng ngược lại, sự bặm trợn, thô thiển đến 8 thô tục, nhân cách méo mó thể hiện trong một số nhân vật của tiểu thuyết” [57]. Ở một góc nhìn khác, trong sự chi phối của không gian đương đại, những ràng buộc của thiết chế văn hoá, lịch sử, chính trị, tác giả Thái Dương, cũng trên báo Quân đội nhân dân cho rằng, tiểu thuyết này đã đi sâu, khai quật lịch sử, nhắc lại những gì sai lầm của quá khứ một thời mà chúng ta hầu như muốn quên đi. Bài viết nhấn mạnh: “Đọc xong cuốn sách của tác giả, có bạn đọc sẽ thấy chạnh buồn, nhớ về một thời khốn khó với những chuyện đau lòng. Người ít hiểu biết và nhất là thế hệ trẻ hôm nay đọc cuốn sách loại này dễ hoang mang, nghi hoặc” [21]. Cải cách ruộng đất là một giai đoạn, một sự kiện không thể quên trong lịch sử Việt Nam [48]. Bài viết của Phương Ngọc đăng trên Vietnamnet, cho rằng tiểu thuyết Thời của Thánh Thần đã chấm dứt những sự kiện của thời cải cách ruộng đất bằng những chi tiết độc đáo đến nỗi các nhà văn khác không thể khai thác gì thêm được nữa trong một sự kiện lịch sử này. Trong khi đó, Ngô Minh trong bài viết Trò chuyện với tác giả của Thời của Thánh Thần, cho rằng, đây là tác phẩm rất trung thực, nhân hậu và rất hấp dẫn, nhà văn đã dồn hết sức lực mình để viết. Dù bị cảnh cáo nhưng đó cũng đã biểu hiện của sự cởi mở hơn trong việc thẩm định, phán xét tác phẩm văn học. Trong bài viết Bức tranh nông thôn một thời qua Gia phả của đất, tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng khẳng định: “Đây chính là bức tranh sinh động và sâu sắc của Hoàng Minh Tường khắc họa lại hiện thực cuộc sống nông thôn và người dân lao động vùng đồng bằng Bắc Bộ trong những thập niên 80 của thế kỷ XX một cách chân thực” [25]. Cũng tại bài viết này, Nguyễn Thị Thu Hằng đưa ra vấn đề tính dự báo của văn chương thông qua những trang viết về nông thôn: “Thông qua Gia phả của đất, dưới cảm hứng nhận thức, và đánh giá lại lịch sử, 9 tác giả “được mệnh danh là cây bút của làng quê viết về nông thôn có hạng” đã cho chúng ta thấy được cái nhìn sâu sắc và toàn diện về bức tranh nông thôn của một làng quê miền Bắc vật vã chuyển mình sau 30 năm, đó là hình ảnh trọn vẹn, đa chiều, phức tạp của một đất nước mang văn hóa truyền thống nông nghiệp lúa nước. Tiểu thuyết không chỉ phản ánh hiện thực nông thôn theo mô hình hợp tác xã làm ăn theo cơ chế cũ, cơ chế quan liêu bao cấp mang tính cộng đồng, tập thể thực hiện dưới sự áp đặt của một bộ phận lãnh đạo đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể, mà còn mang âm hưởng chính luận và tính phản biện sâu sắc cũng như tính dự báo xã hội được tác giả thể hiện trong cặp đôi tác phẩm” [25]. Hoàng Minh Tuân trong Luận văn Nông thôn Việt Nam sau 1975 trong một số tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (Đại học Vinh, 2009), khẳng định Hoàng Minh Tường đã có cái nhìn thấu đáo và tin tưởng về sự vươn lên của nông dân trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước. Trong luận văn Tiểu thuyết viết về nông thôn thời kỳ đổi mới (Qua một số tác phẩm đạt giải), tác giả Phùng Thị Hồng Thắm đánh giá rất cao giá trị hiện thực của tiểu thuyết Thủy hỏa đạo tặc cũng như sự dũng cảm của người viết trước bối cảnh mà xã hội vẫn còn những định kiến tư tưởng khá nặng nề… Tác phẩm phản ánh trung thực, cắt nghĩa và dự báo trước sự tan rã tất yếu của mô hình hợp tác xã nông nghiệp theo lối bao cấp. Bình Nguyên Trang, trên mục Đời sống Văn hoá của báo Văn nghệ Công an gọi: Nhà văn Hoàng Minh Tường: chung tình với đề tài nông thôn. Trong bài nói chuyện này, Hoàng Minh Tường đã bày tỏ những quan tâm của riêng ông đối với thể loại tiểu thuyết và đề tài nông thôn. Ở đó, Hoàng Minh Tường thấy được khả năng thể hiện sức lực và tài năng, tư tưởng nghệ thuật của mình. Ông bày tỏ: “Viết về nông thôn với tôi nó rất tự nhiên thôi. Là bởi vì tôi xuất thân từ nông 10 thôn, gia đình tuy không nghèo túng nhưng thuở nhỏ vẫn theo chúng bạn đi chăn trâu cắt cỏ, mò cua bắt ốc. Rồi đến lúc đi học đại học nghỉ hè về nhà vẫn giúp mẹ việc đồng áng, như nhổ mạ, gặt lúa. Quan hệ làng xóm của người nông dân thì tôi hiểu vô cùng. Khi tôi viết, lẽ dĩ nhiên là sẽ cảm thấy tự tin hơn khi viết về những thứ mình thân thuộc. Sau này tôi viết về nhiều đề tài khác, nhưng có lẽ đề tài tôi chung tình nhất, đó là nông thôn” [62]. Văn Chinh trong bài viết: Những tác phẩm văn học viết về nông thôn đã đặt ra những đòi hỏi có tính bức xúc về vấn đề nông thôn trong văn chương đương đại. Ông nhấn mạnh: Thủy hỏa đạo tặc và Đồng sau bão của Hoàng Minh Tường viết về sản xuất hợp tác xã, tái hiện cái nhức nhối một thời với những quẩn quanh tháo gỡ của nhiều trí tuệ nhưng tháo gỡ không xong [13]. Như vậy, mặc dù đã có một số công trình quan tâm đến Thủy hỏa đạo tặc, Đồng sau bão, Thời của Thánh Thần… trên một số phương diện cụ thể như giá trị hiện thực của tác phẩm, khẳng định sự dũng cảm của người viết…, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, hệ thống về những tiểu thuyết viết về nông thôn của Hoàng Minh Tường. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Chọn tiểu thuyết viết về nông thôn của Hoàng Minh Tường để nghiên cứu, chúng tôi xác định đối tượng cần tìm hiểu chính là cốt truyện, nhân vật, không gian – thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ và giọng điệu trong tác phẩm, qua đó khẳng định thế mạnh của thể loại tiểu thuyết, thế mạnh của nhà văn Hoàng Minh Tường trong việc phản ánh hiện thực nông thôn thời kỳ đổi mới. 11 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi của luận văn giới hạn trong một số tiểu thuyết viết về nông thôn của Hoàng Minh Tường như Thủy hỏa đạo tặc, Đồng sau bão, Ngư phủ, Thời của Thánh Thần… Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sẽ so sánh với một số tác phẩm khác của nhà văn, cũng như so sánh với sáng tác của những nhà văn khác cùng viết về đề tài nông thôn. 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Khảo sát, tìm hiểu để chỉ ra những đặc điểm nổi trội nhất của tiểu thuyết viết về nông thôn của Hoàng Minh Tường. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn phối hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp tổng hợp, phân tích - Phương pháp khảo sát, thống kê - Phương pháp so sánh, đối chiếu - Phương pháp lịch sử, xã hội - Phương pháp tiếp cận Thi pháp học 6. Đóng góp của luận văn Luận văn nghiên cứu một cách hệ thống, tiếp cận trên nhiều phương diện khác nhau như cốt truyện, nhân vật, không gian - thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ và giọng điệu trong các tiểu thuyết Thủy hỏa đạo tặc, Đồng sau bão, Ngư phủ, Thời của Thánh Thần… của Hoàng Minh Tường, góp phần khẳng định vị trí và đóng góp của nhà văn đối với sự phát triển của văn xuôi thời kỳ đổi mới trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. 12 7. Cấu trúc luận văn Ngoài Phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được triển khai thành 3 chương: Chương1: Tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết về nông thôn và tác giả Hoàng Minh Tường Chương 2: Cốt truyện và nhân vật trong tiểu thuyết Hoàng Minh Tường Chương 3: Kiến tạo không gian – thời gian, ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết Hoàng Minh Tường 13 NỘI DUNG Chƣơng 1 TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI VIẾT VỀ NÔNG THÔN VÀ TÁC GIẢ HOÀNG MINH TƢỜNG 1.1. Vài nét về tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới Tiểu thuyết từ khi xuất hiện trong nền văn học Việt Nam với tư cách là một thể loại văn học có rất nhiều lợi thế trong việc tái tạo lại hiện thực đời sống xã hội, đã nhanh chóng xác lập được vai trò, vị trí, thành tựu của mình. Ban đầu là một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả tình tự người ta, phong tục xã hội hay những sự lạ tích kỳ, đã làm cho người đọc hứng thú. Đó là sự ra đời của các tiểu thuyết, Kiếp phong trần (1882), Truyện đời xưa ( 1886) của Trương Vĩnh Ký, Truyện giải buồn (1886) của Huỳnh Tịnh Của, Truyện thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản. Tuy nhiên tiểu thuyết không chỉ dừng ở phóng tác, miêu tả ngoại cảnh đơn thuần mà dần hướng vào chiều sâu tâm lý con người, thay đổi theo hướng hiện đại. Tiểu thuyết Tố Tâm (1925) của Hoàng Ngọc Phách cho thấy một bước tiến mới của tiểu thuyết Việt Nam buổi ban đầu. Buổi đầu của tiểu thuyết, trong tư cách một thể loại, đã có những bước chuyển theo mô hình dịch – phóng tác – sáng tác. Từng bước đi, dù manh nha nhưng đã đặt ra nền tảng cho tiểu thuyết Việt Nam [4]. Giai đoạn 1930-1945, tiểu thuyết Việt Nam đã chuyển mình sang hiện đại. Tư tưởng sáng tác của lớp nhà văn trẻ gần như đoạn tuyệt so với thời kỳ trước. Cảm hứng cá nhân được đề cao. Tính hiện thực được mở rộng và đào sâu. Nếu như các nhà văn của Tự lực văn đoàn tập trung khai thác đời sống cá nhân với 14 khát vọng hạnh phúc, tự do yêu đương, khát vọng một tinh thần dân chủ thực sự trong cuộc sống như tiểu thuyết Con đường sáng của Hoàng Đạo, Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân của Khái Hưng, Gánh hàng hoa, Đôi bạn của Nhất Linh… thì các nhà văn hiện thực lại tập trung vào phản ánh những mảnh đời cơ cực của người nông dân bị giai cấp địa chủ chèn ép, bóc lột đến tận cùng như tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, Chí Phèo của Nam Cao, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng… [47]; [12],… Cách mạng Tháng Tám thành công, xã hội Việt Nam bước sang một giai đoạn mới. Việt Nam trở thành một nước độc lập, tự chủ. Hiện thực cách mạng và hai cuộc kháng chiến đã làm cho văn học nói chung, tiểu thuyết nói riêng có bước chuyển biến quan trọng. Từ chỗ bộc lộ khát vọng giải phóng cá nhân, mưu cầu hạnh phúc thông qua các tiểu thuyết của các nhà văn Tự lực văn đoàn như Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam,… miêu tả đời sống người nông dân nghèo trong cảnh sưu cao, thuế nặng, bị chế độ phong kiến bóc lột trắng trợn, dã man thông qua tiểu thuyết của các nhà văn hiện thực như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao,… tiểu thuyết đã chuyển mình sang thời kỳ mới: Đề tài công nông binh xuyên suốt nền văn học. Văn học cách mạng lúc này, lấy tinh thần Dân tộc – Khoa học – Đại chúng nêu lên trong Đề cương văn hoá Việt Nam (1943) làm kim chỉ nam [15]. Văn nghệ sĩ nhận đường và đi theo cách mạng, tập trung ngòi bút cho sự nghiệp cách mạng vĩ đại của cả dân tộc [58, 489]. Văn học cách mạng đặt những bước non trẻ đầu tiên trong hành trình mới. Các nhà văn bắt đầu xâm nhập vào thực tế cuộc sống sản xuất và chiến đấu. Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Xung kích của Nguyễn Đình Thi là những tiểu thuyết tiêu biểu của giai đoạn kháng chiến chống Pháp. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan