Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn tổ chức hoạt động tuyên truyền chính sách văn hoá cho người dân của tru...

Tài liệu Luận văn tổ chức hoạt động tuyên truyền chính sách văn hoá cho người dân của trung tâm vhtt tt thành phố móng cái, tỉnh quảng ninh

.PDF
101
559
119

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Tuyên truyền là một trong những hoạt động quan trọng của công tác tư tưởng của Đảng, là động lực thúc đẩy sự nghiệp cách mạng của Đảng nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tới cán bộ, đảng viên, và quần chúng nhân dân, tạo nên sự thống nhất và hành động trong toàn Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, cổ vũ quần chúng thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng đề ra. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng định công tác tuyên truyền đã và đang đóng vai trò quan trọng trong giáo dục, bồi đắp tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên trẻ. Đây là một trong những nội dung luôn được Đảng, Nhà nước và các cơ quan đoàn thể quan tâm, chú trọng. Những năm qua, nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng về bồi dưỡng, giáo dục cán bộ, đảng viên trẻ đã được triển khai và đạt được nhiều kết quả. Công tác tuyên truyền đã bám sát thực tiễn đời sống xã hội và thông qua các hoạt động thực tiễn sinh động, để giáo dục tinh thần tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện cho đảng viên trẻ phù hợp với lĩnh vực, công việc, chức trách, nhiệm vụ của từng đảng viên. Thông qua các hoạt động tuyên truyền, cán bộ, đảng viên trẻ đã xây dựng tinh thần tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện nhằm nâng cao phẩm chất, nhất là phẩm chất chính trị, nâng cao năng lực, trình độ của bản thân nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu, đòi hỏi mới của sự nghiệp cách mạng. Tinh thần tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện của đảng viên trẻ chỉ có kết quả tốt khi chính đội ngũ này nhận thức đúng đắn những yêu cầu, chuẩn mực về phẩm chất chính trị, phẩm chất trí tuệ, đạo đức, lối sống, năng lực công tác của người đảng viên và tự nhận thức đúng về chính bản thân mình. Kể từ năm 1986 trở lại đây, cùng với sự đổi mới tư duy về kinh tế, Đảng cộng sản Việt Nam đã có những nhận thức mới về vai trò của văn hóa. Văn kiện đại hội của Đảng thời kỳ đổi mới nhất quán khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực, là mục tiêu của sự phát triển. Để hiện thực hóa vai 1 trò của văn hóa, một trong những nhiệm vụ được Đảng quan tâm đó là xây dựng các chính sách văn hóa phù hợp. Đại hội XI (2011) Đảng nhấn mạnh sự phát triển hài hòa giữa các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội: “Phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển là thể hiện rõ nhất của chế độ ta”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, lĩnh vực văn hóa đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Văn hóa góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, tham gia tích cực vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát huy sức mạnh, tính tích cức của nhân dân tham gia vào các hoạt động văn hóa đặc biệt là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tạo nên sự chuyển biến bước đầu, là tiền đề quan trọng để văn hóa nước nhà tiếp tục phát triển đúng hướng và chắc chắn. Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2020 đã được Thủ tướng phê duyệt năm 2009. Các hoạt động như giữ gìn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc, xây dựng, củng cố hệ thống thiết chế văn hóa, phát triển văn chương nghệ thuật,…không ngừng được đẩy mạnh. Nhiều giá trị văn hóa và sản phẩm văn hóa mới được hình thành góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. giao lưu quốc tế về văn hóa được mở rộng, việc quảng bá hình ảnh dân tộc và văn hóa Việt Nam ra nước ngoài được chú ý. Việc thể chế hóa nghị quyết của Đảng được coi trọng, tạo hành lang pháp lý phù hợp và thông thoáng cho nhân dân và đội ngũ tri thức, văn nghệ sĩ. Cùng với sự phát triến kinh tế, thành phố Móng Cái luôn coi trọng phát triển văn hóa và công tác tuyên truyền theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng. Sau 15 năm triển khai thực hiện, công tác tuyên truyền chính sách văn hóa tạo được sự chuyến biến mạnh mẽ trong đời sống xã hội. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" được quan tâm đẩy mạnh với nhiều hình thức đa dạng và từng bước nâng cao chất lượng, thu hút 2 được các tầng lớp nhân dân tham gia, gắn kết với thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, phát huy vai trò là phong trào thi đua yêu nước rộng lớn, tác động tích cực đến việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Mặc dù hoạt động tuyên truyền này đã được chú ý và phát triển ở Quảng Ninh nói chung và ở thành phố Móng Cái nói riêng, song cần có những thay đổi nhiều hơn nữa trong công tác quản lý hoạt động này để nâng cao chất lượng, đi sâu hơn hơn về nội dung, bám sát thực tiễn đời sống nhân dân để mang lại hiệu quả tuyên truyền cao. Vì vậy, nâng cao năng lực trong việc quản lý, tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân hiện nay nhằm phát huy chức năng giáo dục của Trung tâm Văn hóa – Thông tin – Thể thao là vấn đề rất cần thiết để góp phần xây dựng nhà nước ta thành nhà nước pháp quyền, của dân, do dân và vì dân. Xuất phát từ những lý do đó, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Tổ chức hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân của Trung tâm văn hóa - Thông tin – Thể thao thành phố Móng Cái - Quảng Ninh”. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo sát thực trạng hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân Thành phố Móng Cái góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tuyên truyền nhằm phát huy chức năng giáo dục của Trung tâm văn hóa - thông tin - thể thao Thành phố Móng Cái. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu Biện pháp tổ chức hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân nhằm phát huy chức năng giáo dục của Trung tâm văn hóa - Thông tin – Thể thao thành phố Móng Cái - Quảng Ninh. 3.2. Khách thể nghiên cứu + 200 người dân sống tại 3 Phường: Hòa Lạc, Ka Long, Trần Phú và 3 xã: Hải Xuân, Hải Tiến, Hải Sơn - Thành phố Móng Cái. 3 + 30 cán bộ quản lý văn hóa tại các xã phường thành Phố Móng Cái và cán bộ quản lý văn hóa các cấp của Trung tâm Văn hóa - Thông tin - Thể thao Thành phố. 4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC Hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân nhằm phát huy chức năng giáo dục của Trung tâm văn hóa - Thông tin - Thể thao thành phố Móng Cái đã được chú trọng và đạt được những hiệu quả nhất định, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế. Nếu tìm ra các biện pháp tổ chức phù hợp với yêu của hoạt động tuyên truyền hiện nay sẽ nâng cao được chất lượng hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân từ đó phát huy tốt được chức năng giáo dục của Trung tâm văn hóa Thông tin – Thể thao thành phố Móng Cái. 5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 5.1. Tìm hiểu một số vấn đề lý luận về quản lý, văn hóa, tuyên truyền và quản lý hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa nhằm phát huy chức năng giáo dục của Trung tâm văn hóa - Thông tin - Thể thao Thành phố Móng Cái cho người dân thành phố Móng Cái. 5.2. Khảo sát thực trạng tổ chức hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân nhằm phát huy chức năng giáo dục của Trung tâm văn hóa - Thông tin – Thể thao thành phố Móng Cái. 5.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng Hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân nhằm phát huy chức năng giáo dục của Trung tâm văn hóa - Thông tin – Thể thao thành phố Móng Cái. 6. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Về nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn về những hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân Thành phố Móng Cái Tỉnh Quảng Ninh nhắm phát huy chức năng giáo dục của Trung tâm văn hóa - Thông tin - Thể thao thành phố Móng Cái - Về không gian và thời gian nghiên cứu: 4 *Không gian: Thành phố Móng Cái tỉnh Quảng Ninh *Thời gian: 2016-2017 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận Phân tích các vấn đề lý luận về quản lý, văn hóa, tuyên truyền và công tác tổ chức hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân nhằm phát huy chức năng giáo dục của Trung tâm văn hóa - Thông tin – Thể thao thành phố Móng Cái. 7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 7.2.1. Phương pháp quan sát Quan sát hoạt động tổ chức và hiệu quả của các biện pháp tổ chức hoạt động tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng cho người dân Thành phố Móng Cái ở một số xã phường của Thành phố Móng Cái: Phường Hòa Lạc, Ka Long, Trần Phú và xã Hải Xuân, Hải Tiến, Hải Sơn để giáo dục tới người dân. 7.2.2. Phương pháp điều tra bằng hỏi Chúng tôi dùng bảng hỏi để tìm hiểu các vấn đề sau: - Thực trạng hoạt động tổ chức văn hóa của các cán bộ quản lý trong việc nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân nhằm phát huy chức năng giáo dục của Trung tâm. - Những biện pháp tổ chức của cán bộ quản lý văn hóa đã tiến hành trong việc tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân thành phố Móng Cái. - Đề xuất những biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân thành phố Móng Cái nhằm phát huy chức năng giáo dục của Trung tâm Văn hóa- Thông tin – Thể thao. Đây là phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài này. 7.2.3. Phương pháp thống kê toán học Để lượng hóa kết quả nghiên cứu chúng tôi dùng phương pháp thống kê toán học, sử dụng các công thức toán thống kê như số trung bình, tần xuất, hệ số tương quan để định lượng kết quả nghiên cứu. 5 8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu Chương 2: Thực trạng tổ chức hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân nhằm phát huy chức năng giáo dục của Trung tâm văn hóa - Thông tin – Thể thao thành phố Móng Cái– Quảng Ninh. Chương 3: Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân nhằm phát huy chức năng giáo dục của Trung tâm văn hóa - Thông tin – Thể thao thành phố Móng Cái Quảng Ninh. 6 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã rất chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục các chính sách văn hóa, pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội để đưa các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống xã hội, giáo dục ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa cho nhân dân nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước bằng xã hội trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách văn hóa là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phải được thường xuyên quan tâm đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể xã hội và các doanh nghiệp trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện. Để công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách văn hóa đạt hiệu quả cao và thiết thực, hiện nay, các cấp Ủy đảng đã liên tục củng cố, nâng cao nhận thức và phát huy sự lãnh đạo về công tác này, thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan nhà nước, các đoàn thể, các tổ chức để xác định rõ trách nhiệm và huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục chính sách văn hóa; đảm bảo mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về các chính sách văn hóa đều được phổ biến kịp thời, đầy đủ đến toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức và ý thức tôn trọng, chấp hành chủ chương, chính sách của Đảng của toàn thể cán bộ và nhân dân, góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, đã rất chú trọng xây dựng chính sách văn hóa theo đúng và thể hiện rõ ràng các chủ trương, chính sách của Đảng; để đưa các chủ trương, chính sách của Đảng đi vào cuộc sống xã hội, bằng nhiều hình thức đa dạng và phong phú, đã liên tục tuyên truyền, phổ biến cho mọi 7 tầng lớp nhân dân; và đã phối kết hợp với các tổ chức, đoàn thể và các cơ quan thông tấn, báo chí cũng nghiệm của các nước khác để từng bước đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của công tác này. Về vấn đề “văn hóa” đã có một số công trình nghiên cứu ở trong nước đề cập tới theo những khía cạnh khác nhau, chẳng hạn: xã hội hóa hoạt động văn hóa ở tình Bình Thuận của tác giả Nguyễn Minh Đức năm 2009, Phát triển sự nghiệp văn hóa thông tin ở thành phố Móng Cái của tác giả Vũ Thị Liên Minh năm 2007…, tuy nhiên cho đến nay vấn đề quản lý nhằm phát huy hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa của Trung tâm VHTT-TT - một đơn vị sự nghiệp không phải là trường học thông thường là vấn đề mang tính đắc thù riêng của Việt Nam, nên trên thế giới cũng như ở trong nước đến nay vẫn còn là một khoảng trống, ít được quan tâm nghiên cứu. Bởi thế chúng tôi cho rằng vấn đề này cần được quan tâm nhiều hơn nữa. 1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN 1.2.1. Khái niệm quản lý Một xã hội muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi phải đảm bảo 3 yếu tố: Tri thức, lao động và quản lý. Khi xã hội loài người xuất hiện, một loạt các quan hệ: quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với xã hội và cả quan hệ giữa con người với chính bản thân mình xuất hiện theo. Điều này làm nảy sinh nhu cầu về quản lý. Trải qua tiến trình lịch sử phát triển từ xã hội lạc hậu đến xã hội văn minh, trình độ sản xuất, tổ chức, điều hành xã hội cũng phát triển theo. Đó là tất yếu lịch sử, ngược lại khi trình độ tổ chức điều hành xã hội phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của trình độ sản xuất, của nền văn minh xã hội. Như vậy, quản lý trở thành nhân tố của sự phát triển. Quản lý trở thành một hoạt động phổ biến, diễn ra trong mọi lĩnh vực, ở mọi cấp độ và liên quan đến con người. Quản lý có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội tuỳ theo trình độ quản lý cao hay thấp. 8 Theo C. Mác, quản lý (QLXH) là chức năng được sinh ra từ tính chất xã hội hoá lao động. Nó có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển của xã hội đều thông qua hoạt động của con người và thông qua quản lý (con người điều khiển con người). Ông coi quản lý là một đặc điểm vốn có, bất biến về mặt lịch sử của đời sống xã hội, theo ông: "Bất cứ lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào mà tiến hành trên một quy mô khá lớn đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân. Sự chỉ đạo đó phải có một chức năng chung, tức là những chức năng phát sinh từ sự khác nhau giữa sự vận động chung của cơ thể sản xuất với những vận động cá nhân của những khí quan độc lập hợp thành cơ thể sản xuất đó. Một nhạc sĩ độc tấu thì tự điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng " [6, tr.29-30]. Như vậy, quản lý là tất yếu tồn tại ở mọi loại hình tổ chức, mọi xã hội. Khái niệm quản lý đã được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau: Theo Harol Koontz: "Quản lý là hoạt động thiết yếu đảm bảo sự nỗ lực của các cá nhân nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức" [16, tr.31]. Theo F. W. Taylor: "Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất" [9, tr.89]. Theo Thomas. J.Robbins - Wayned Morrison: "Quản lý là một nghề nhưng cũng là một nghệ thuật, một khoa học" [35, tr.19]. Theo M. Follet: "Quản lý là nghệ thuật khiến cho công việc của mình được thực hiện thông qua người khác". Theo Aunapu F.F: "Quản lý là khoa học và là một nghệ thuật tác động vào một hệ thống xã hội, chủ yếu là quản lý con người nhằm đạt được những mục tiêu xác định. Hệ thống đó vừa động, vừa ổn định bao gồm nhiều thành phần có tác động qua lại lẫn nhau" [1, tr.75]. Ở Việt Nam cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý: Theo từ điển Tiếng Việt "Quản lý là tổ chức và điều hành các hoạt động theo 9 những yêu cầu nhất định” [37, tr.789]. Theo Mai Hữu Khuê: "Quản lý là tác động có mục đích tới tập thể những người lao động nhằm đạt được những kết quả nhất định và mục tiêu đã định trước" [15, tr.19-20]. Theo tác giả Đỗ Hoàng Toàn: "Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể lên đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện chuyển biến của môi trường" [41, tr.43]. Theo tác giả Nguyễn Văn Bình: "Quản lý là một nghệ thuật đạt được những mục tiêu đã đề ra thông qua việc điều khiển, phối hợp, hướng dẫn, chỉ huy hoạt động của những người khác" [5, tr.176]. Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ: “Quản lý là một quá trình có định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống là quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn” [ 22, tr.17]. Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động khách thể quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu dự kiến” [ 34, tr.24]. Tóm lại những khái niệm nêu trên dù tiếp cận ở góc độ nào, lĩnh vực nào đi chăng nữa, ở cấp vĩ mô hay vi mô đều có điểm chung thống nhất là coi quản lý là hoạt động có tổ chức, có chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, mục tiêu quản lý và khách thể quản lý; giữa chúng được quan hệ với nhau bằng những tác động quản lý, điều này được biểu thị bằng sơ đồ sau: Sơ đồ: 1.1 Khái niệm quản lý Chủ thể Đối quản lý quản lý 10 tượng Mục tiêu quản lý 11 Qua sơ đồ khái niệm quản lý, tiếp cận theo quan điểm hệ thống thì “quản lý” là một quá trình bao gồm các thành tố cấu trúc như: Chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, khách thể quản lý, mục tiêu quản lý… Nếu tiếp cận theo quan điểm hoạt động thì “quản lý” hoạt động có ý thức của chủ thể quản lý. Thông qua việc tiếp cận một số quan điểm nêu trên về quản lý, chúng tôi cho rằng: Quản lý là hoạt động có ý thức của chủ thể quản lý nhằm điều khiển, tác động lên đối tượng, khách thể quản lý để đạt được mục tiêu của quản lý. 1.2.2. Tuyên truyền 1.2.2.1. Khái niệm chung về công tác tuyên truyền; vị trí, vai trò, nội dung và những nguyên tắc cơ bản của công tác tuyên truyền trong công tác tư tưởng. * Khái niệm “Tuyên truyền” theo nghĩa rộng là hoạt động có mục đích của chủ thể nhằm truyền bá những tri thức, giá trị tinh thần, tư tưởng đến đối tượng, biến những kiến thức, giá trị tinh thần đó thành nhận thức, niềm tin, tình cảm của đối tượng, thôi thúc đối tượng hành động theo những định hướng, những mục tiêu do chủ thể tuyên truyền đặt ra. Chủ Tịch Hồ Chí Minh nói: “Tuyên truyền là đem một việc gì đó nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt mục đích đó, là tuyên truyền thất bại”. * Vị trí, vai trò công tác tuyên truyền trong công tác tư tưởng: Vị trí công tác tuyên truyền trong công tác tư tưởng -Tuyên truyền là một bộ phận cấu thành của công tác tư tưởng. Khi xem xét công tác tư tưởng như một quá trình liên tục, V.I. Lênin khẳng định công tác tư tưởng có ba hình thái: công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động (có nhiều người gọi là ba bộ phận). Ba hình thái đó tương ứng với các quá trình tư tưởng gồm: sản xuất ra hệ tư tưởng; phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng; cổ vũ, động viên quần chúng thực hiện. - Công tác tuyên truyền là hoạt động tiếp nối công tác lý luận, nhằm phổ biến, truyền bá các nguyên lý lý luận, đường lối, chủ trương, chính sách vào quần 12 chúng. Mục đích cao nhất của tuyên truyền là làm cho hệ tư tưởng chiếm địa vị thống trị trong xã hội. * Vai trò công tác tuyên truyền trong công tác tư tưởng - Tuyên truyền là một trong những bộ phận quan trọng của công tác tư tưởng, có nhiệm vụ phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến quần chúng nhân dân. Tuyên truyền gắn liền với cổ động, nên tuyên truyền còn là sự cổ vũ, động viên, thúc đẩy quần chúng hăng hái tham gia các phong trào, biến nhận thức, niềm tin thành nhiệt huyết của quảng đại quần chúng, thành hành động cách mạng. - Công tác tuyên truyền uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu tranh với những quan điểm, hành động sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần xây dựng con người mới, cuộc sống mới. - Tuyên truyền góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức, hình thành và củng cố niềm tin, giáo dục lý luận, đạo đức, lối sống, lẽ sống; bồi dưỡng phương pháp, kỹ năng hành động cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. * Những nguyên tắc cơ bản của công tác tuyên truyền Cùng với việc thực hiện các nguyên tắc của công tác tư tưởng, trong công tác tuyên truyền cần tuân theo các nguyên tắc sau: - Tính đảng, tính giai cấp: Tuyên truyền vô sản phải phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Tính đảng, tính giai cấp đòi hỏi khi trình bày, giải thích mọi hiện tượng và sự việc xảy ra trong thực tiễn đều phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, trên lợi ích của giai cấp và của dân tộc. - Tính khoa học và thực tiễn: Tính khoa học, thực tiễn yêu cầu khi tuyên truyền phải dựa trên những luận cứ khoa học và thực tiễn để nhìn nhận, phân tích sự việc, hiện tượng, từ đó mà thuyết phục, cảm hoá đối tượng tuyên truyền- Phản ánh đúng đắn tâm tư, nguyện vọng của quần chúng trong quá trình thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, từ đó kiến nghị những biện pháp bổ sung, sửa đổi, hoàn chỉnh đường lối, chính sách, pháp luật. 13 - Tính chiến đấu: Tính chiến đấu là bản chất của công tác tuyên truyền chính trị, thể hiện sự nhạy bén và bản lĩnh chính trị. Trong mỗi sự việc và hiện tượng cần phân biệt đúng sai, phải trái, xác định nhanh được cái tốt cần biểu dương, cái xấu cần kịp thời phê phán - Tính phổ thông, đại chúng: Nội dung tuyên truyền phải gắn chặt với cuộc sống thực tiễn phong phú của đại đa số quần chúng nhân dân, giải đáp những vấn đề nóng hổi mà cuộc sống đang đặt ra và quần chúng nhân dân đang đòi hỏi. * Nội dung chủ yếu của công tác tuyên truyền - Tuyên truyền chính trị: tuyên truyền chính trị là nội dung chủ yếu của công tác tuyên truyền. Tuyên truyền chính trị tập trung vào việc phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng của Đảng, bao gồm: + Tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. + Tuyên truyền về quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. + Tuyên truyền về truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc, của Đảng qua các hoạt động kỷ niệm, các đợt vận động chính trị lớn của đất nước và địa phương. - Tuyên truyền kinh tế: tuyên truyền kinh tế nhằm thực hiện đường lối phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm trong giai đoạn hiện nay. Nội dung chủ yếu của tuyên truyền kinh tế là: + Tuyên truyền về đường lối phát triển kinh tế của Đảng, các chính sách, kế hoạch, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước. + Tuyên truyền về những thành tựu kinh tế - xã hội, tiềm năng phát triển của đất nước, địa phương, những thuận lợi và khó khăn, những bài học kinh nghiệm trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của địa phương trong từng thời kỳ. - Tuyên truyền văn hóa: tuyên truyền về văn hóa nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm nền tảng tinh thần của xã hội, gắn chặt với nhiệm vụ phát triển kinh tế và xây dựng đảng 14 - Tuyên truyền quốc phòng, an ninh: tuyên truyền quốc phòng, an ninh là trực tiếp tham gia thực hiện nhiệm vụ xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, góp phần thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Nội dung chủ yếu là: + Tuyên truyền về đường lối, quan điểm xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. + Tuyên truyền về những truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc, tự hào về những chiến công hiển hách trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập. + Tuyên truyền về những chủ trương, giải pháp lớn xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. + Tuyên truyền các văn bản pháp luật của Nhà nước về các nghĩa vụ của công dân tham gia quân đội, dân quân tự vệ, giáo dục quốc phòng… - Tuyên truyền đối ngoại: trong thời đại toàn cầu hóa, thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tuyên truyền đối ngoại có vai trò quan trọng. - Đấu tranh chống các quan điểm sai trái: trong điều kiện phong trào cách mạng thế giới tạm thời lâm vào tình trạng thoái trào, tuyên truyền để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng càng trở nên quan trọng và cần thiết. 1.2.2.2. Công tuyên truyền miệng, phương châm của hoạt động tuyên truyền miệng; Nhiệm vụ của báo cáo viên trong công tác tuyên truyền miệng. * Khái niệm tuyên truyền miệng - Tuyên truyền miệng là phương thức tuyên truyền được tiến hành chủ yếu bằng lời nói trong giao tiếp trực tiếp nhằm mục đích nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin và cổ vũ tính tích cực hành động của người nghe. Các văn bản của Đảng xác định chức năng của công tác tuyên truyền miệng gồm: 15 - Chức năng phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng: cùng với các hình thức và phương tiện thông tin đại chúng, tuyên truyền miệng góp phần quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho hệ tư tưởng của Đảng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội. - Chức năng thông tin và định hướng thông tin: tuyên truyền miệng là một kênh thông tin chính thống giữ vai trò chủ yếu trong việc thông báo, quán triệt các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước; các vấn đề thời sự trong nước và quốc tế quan trọng mà dư luận đang quan tâm, qua đó định hướng thông tin cho người nghe. - Chức năng giáo dục, cổ vũ, động viên quần chúng đi tới hành động: tuyên truyền miệng có mục tiêu rất cơ bản là góp phần giáo dục và xây dựng những chuẩn mực về con người mới, nền văn hoá mới, cổ vũ và động viên các nhân tố mới trong xã hội. Tuyên truyền miệng có khả năng to lớn và có hiệu quả trong chức năng cổ vũ, động viên, lôi cuốn được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia các phong trào thi đua. - Chức năng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng: + Tuyên truyền miệng là vũ khí sắc bén trong đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị của Đảng, đặc biệt là trong đấu tranh chống các âm mưu và thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch. + Tuyên truyền miệng là công cụ hữu hiệu để phê phán các nhận thức tư tưởng lạc hậu, lệch lạc, các tệ nạn xã hội, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong xã hội * Phương châm tiến hành công tác tuyên truyền miệng Các văn bản của Đảng đã xác định phương châm công tác tuyên truyền hiện nay là: - Toàn Đảng phải làm công tác tuyên truyền: Thông báo 71-TB/TW ngày 7-6-1997 của Thường vụ Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII quy định: "Toàn Đảng, mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng chí Ủy viên 16 Trung ương và cấp ủy viên các cấp phải căn cứ vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mà trực tiếp tuyên truyền cho quần chúng...". - Chủ động và tích cực phục vụ nhiệm vụ chính trị: + Nội dung tuyên truyền phải gắn với nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cách mạng, gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cơ quan, đơn vị. + Người cán bộ tuyên truyền miệng phải đi trước một bước, dự báo sớm được tình hình, nghiên cứu, điều tra dư luận xã hội để nắm được yêu cầu của công tác tuyên truyền và nguyện vọng của quần chúng nhân dân, phục vụ tốt nhất cho hoạt động tuyên truyền. - Thường xuyên, liên tục, nhạy bén, kịp thời, bám sát thời cuộc, bám sát tình hình thực tiễn: + Trong điều kiện tình hình quốc tế và trong nước có nhiều biến động nhanh chóng và phức tạp, tại các địa phương và cơ sở xuất hiện nhiều vấn đề mới nảy sinh, được mọi người chú ý theo dõi và quan tâm, thực hiện tuyên truyền miệng phải được tiến hành thường xuyên và bắt kịp với tình hình thời sự nóng bỏng của cuộc sống. + Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, thông tin tuyên truyền miệng không được chậm trễ, đi sau các sự kiện thời sự chính trị nóng bỏng, nhưng không được hấp tấp, vội vàng, nông cạn, thậm chí có khi sai lệch, thiếu sự phân tích, bình luận sâu sắc và trái với sự chỉ đạo, định hướng của các cơ quan có chức năng. - Tuyên truyền phải hết sức cụ thể, thiết thực: + Tuyên truyền miệng luôn xác định trước được đối tượng tuyên truyền, vì vậy phải cụ thể thiết thực, đáp ứng yêu cầu của người nghe. + Nội dung tuyên truyền phải có căn cứ số liệu, tư liệu, sự kiện, dẫn chứng cụ thể, phong phú, sinh động, lập luận rõ ràng; khắc phục lối tuyên truyền đại khái, quan liêu, xa rời thực tế. - Đưa thông tin, nhất là thông tin định hướng, nhanh chóng và kịp thời xuống cơ sở, phục vụ tốt cơ sở: củng cố và xây dựng cho được đội ngũ báo cáo 17 viên, tuyên truyền viên có hoạt động thực sự từ Trung ương tới địa phương cơ sở, đặc biệt là đến các vùng cao, vùng sâu, biên giới, hải đảo. * Nhiệm vụ của báo cáo viên trong công tác tuyên truyền miệng Khái niệm báo cáo viên Báo cáo viên là lực lượng quan trọng nòng cốt, chủ lực của công tác tuyên truyền miệng, được cấp ủy lựa chọn và công nhận theo những tiêu chuẩn nhất định do Ban Tuyên giáo của cấp ủy quản lý và chỉ đạo. Báo cáo viên là chức danh để chỉ những người làm công tác tuyên truyền miệng, Báo cáo viên được coi là người phát ngôn, thông tin chính của Đảng và cơ quan Nhà nước. Từ quan niệm trên cho thấy: - Báo cáo viên là bộ phận quan trọng, nòng cốt trong công tác tuyên truyền miệng. - Báo cáo viên do cấp ủy lựa chọn và quyết định, được tổ chức cả hệ thống từ Trung ương đến địa phương cơ sở. - Báo cáo viên do là người phát ngôn chính thức của Đảng và Nhà nước nên do Ban tuyên giáo của cấp ủy quản lý và chỉ đạo. Nhiệm vụ chủ yếu của báo cáo viên. Ngày 10.11.2011, Ban Tuyên giáo Trung ương đã ra quyết định số 518 về việc ban hành quy chế hoạt động báo cáo viên của Đảng, xác định rõ nhiệm vụ báo cáo viên: - Trực tiếp tuyên truyền, phổ biến những quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tình hình thời sự trong nước và thế giới; những nhân tố mới, những điển hình trong xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ tổ quốc XHCN đến cán bộ, đảng viên và nhân dân. - Nắm tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân; định hướng tư tưởng và hướng dẫn dư luận xã hội, góp phần xây dựng, củng cố sự thống nhất tư tưởng, hành động trong Đảng và sự đồng thuận xã hội. 18 - Đối thoại với người nghe, kịp thời giải đáp những băn khoăn, thắc mắc của cán bộ, đảng viên và nhân dân; đấu tranh phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch. - Tuyên truyền các nội dung thông tin theo sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng, sự phân công của cấp ủy đảng cùng cấp và sự chỉ đạo của cơ quan chuyên môn cấp trên. 1.2.2.3. Vai trò của Ban tuyên giáo đối với công tác báo cáo viên, tuyên truyền miệng. Ban Tuyên giáo là cơ quan tham mưu giúp cấp ủy tổ chức, quản lý và điều hành hoạt động của đội ngũ báo cáo viên. Nội dung bao gồm: Tổ chức, xây dựng lực lượng báo cáo viên, tuyên tuyền miệng - Hệ thống báo cáo viên được tổ chức ở tất cả các cấp từ Trung ương đến các tỉnh, thành, huyện, quận, xã, phường và đảng bộ cơ sở; ở tất cả các tổ chức, ban ngành đoàn thể, các đảng ủy khối, đảng ủy trực thuộc Trung ương, trong lực lượng vũ trang (quân đội, công an), trong các hội quần chúng. - Ban Tuyên giáo các cấp có trách nhiệm giúp cấp ủy lựa chọn những cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực và trình độ nhất là có khả năng truyền đạt tham gia là báo cáo viên. - Ban Tuyên giáo các cấp đề xuất để cấp uỷ ra quyết định công nhận báo cáo viên. Báo cáo viên Trung ương do Ban Tuyên giáo Trung ương được Bộ Chính trị ủy quyền ra quyết định công nhận; báo cáo viên cấp tỉnh, huyện và cơ sở do cấp ủy cùng cấp ra quyết định công nhận. - Tham mưu cho cấp ủy xây dựng quy chế hoạt động báo cáo viên, xác định nội dung, chương trình kế hoạch hoạt động hàng năm, 6 tháng và từng tháng để báo cáo với cấp ủy. Quản lý, điều hành, tổ chức hoạt động báo cáo viên Ban Tuyên giáo các cấp trực tiếp giúp cấp ủy chỉ đạo và quản lý hoạt động báo cáo viên: 19 - Định kỳ tổ chức các hội nghị để cung cấp thông tin và định hướng tuyên truyền cho báo cáo viên, chỉ đạo tổ chức và theo dõi, kiểm tra hoạt động của đội ngũ báo cáo viên. - Quản lý và kiểm soát nội dung thông tin của báo cáo viên đảm bảo đúng định hướng tư tưởng chính trị. - Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tuyên tuyền miệng cho Báo cáo viên; - Tham mưu đề xuất với cấp ủy đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chế độ, chính sách đối với báo cáo viên, tuyên truyền viên. - Tổ chức các hội nghị sơ kết, tổng kết, đánh giá hoạt động báo cáo viên, tuyên truyền miệng. 1.2.3. Văn hoá 1.2.3.1. Khái niệm văn hoá Văn hoá là một lĩnh vực rộng lớn, vô cùng phong phú và đa dạng, có sức lan toả và thấm sâu trong toàn bộ đời sống xã hội và đời sống con người, văn hoá có rất nhiều định nghĩa, cách hiểu khác nhau, tuỳ theo nghĩa rộng hay hẹp, tuỳ theo từng ngành, từng lĩnh vực hay từng khu vực. Tổng giám đốc UNESCO, ngài Fedeico Mayer zaragoza nêu ra một định nghĩa về văn hoá như sau: "Văn hoá là tổng thể sống động của các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc" [ 47, tr.33]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương tiện sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phư ơng thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những n hu cầu đời sống và đòi hỏi của sự 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan