Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn tư tưởng triết học hiện sinh về con người của albert camus...

Tài liệu Luận văn tư tưởng triết học hiện sinh về con người của albert camus

.PDF
97
633
90

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI -------- NGUYỄN THỊ LINH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HIỆN SINH VỀ CON NGƯỜI CỦA ALBERT CAMUS LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI -------- NGUYỄN THỊ LINH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HIỆN SINH VỀ CON NGƯỜI CỦA ALBERT CAMUS Chuyên ngành : Triết học Mã số : 60.22.03.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THỊ THƯỜNG HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thị Thường, có kế thừa một số kết quả nghiên cứu liên quan đã được công bố. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa từng được công bố. Những tài liệu được sử dụng trong đề tài đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận văn của mình. Hà Nội, tháng 05 năm 2017 Tác giả Nguyễn Thị Linh LỜI CẢM ƠN Em xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, phòng Sau đại học và các phòng ban khác của trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện cho em được học tập, nghiên cứu tại quý trường. Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban chủ nhiệm Khoa Triết học và các thầy cô giáo khoa Triết học đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn em trong suốt thời gian qua. Đặc biệt là sự chỉ dẫn nhiệt tình của cô giáo chủ nhiệm lớp - TS. Nguyễn Thị Vân đến tất cả các học viên của lớp. Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Thị Thường, giảng viên khoa Triết học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành Luận văn Thạc sĩ Triết học của mình. Xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, đồng nghiệp đã hết lòng quan tâm, giúp đỡ và động viên tác giả luận văn trong quá trình học tập, nghiên cứu. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng 05 năm 2017 Tác giả Nguyễn Thị Linh MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu ................................................................................ 2 3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 6 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu....................................................... 6 5. Giả thuyết khoa học ............................................................................... 6 6. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 6 7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ................................................................ 6 8. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 7 9. Cấu trúc luận văn ................................................................................... 7 10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả ....................... 7 Chương 1: KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC HIỆN SINH VÀ TÁC GIẢ ALBERT CAMUS .............................................................................................. 9 1.1. Khái luận về triết học hiện sinh .............................................................. 9 1.1.1. Điều kiện, tiền đề ra đời và phát triển của triết học hiện sinh......... 9 1.1.2. Đối tượng, phương pháp và những chủ đề chính của triết hiện sinh ........ 22 1.2. Albert Camus trong triết học hiện sinh............................................... 32 1.2.1. Khái lược về cuộc đời, sự nghiệp của Albert Camus..................... 32 1.2.2. Cơ sở hình thành tư tưởng hiện sinh về con người của Camus và vị trí của ông trong triết học hiện sinh ...................................... 38 Chương 2: NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HIỆN SINH VỀ CON NGƯỜI CỦA ALBERT CAMUS............................... 44 2.1. Vấn đề thân phận của con người trong xã hội .................................... 44 2.1.1. Sự cô đơn tồn tại như hơi thở của chính con người ..................... 44 2.1.2. Sự tồn tại đầy phi lý của con người giữa một xã hội phi lý ......... 49 2.2. Sự nổi loạn của con người ..................................................................... 58 2.2.1. Nổi loạn là nhận thức tình cảnh phi lý......................................... 58 2.2.2. Sự nổi loạn phản kháng lại thế giới phi lý ................................... 64 2.3. Những giá trị và hạn chế của tư tưởng hiện sinh về con người của Camus ............................................................................................... 69 2.3.1. Giá trị của tư tưởng hiện sinh về con người của A. Camus ........ 69 2.3.2. Hạn chế của tư tưởng hiện sinh về con người của A. Camus ..... 74 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 81 PHỤ LỤC.......................................................................................................... 87 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tư duy triết học là sự phản tư của con người đối với chính bản thân mình vậy nên vấn đề bản chất con người và việc giải phóng con người từ xưa tới nay luôn là chủ đề trung tâm của mọi cuộc bàn luận triết học. Đây cũng chính là xu hướng tiếp cận của triết học hiện sinh. Trong thế kỷ XX, triết học hiện sinh đã ghi dấu ấn đậm nét bằng việc thổi một luồng gió mới lạ vào không khí triết học lúc bấy giờ. Những trang tiểu thuyết, kịch, những bài thơ và các loại hình văn chương sống động khác nhau của các nhà tư tưởng lớn như M. Heidegger, J. Sartre, Marcel, K. Jaspers, A. Camus… đã đề cập đến chủ đề con người, với các giá trị đặc trưng như tự do, tự quyết, vươn lên, dấn thân, tồn tại người... Khoảng cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, loài người đã đạt được những thành tựu to lớn trong mọi lĩnh vực hoạt động sống của mình. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, con người có được những tiền đề cần thiết cho sự phát triển toàn diện. Nhiều mơ ước từ ngàn năm của con người đã được thực hiện. Chính khoa học tư duy duy lý đã đem lại những điều tuyệt vời như vậy. Song, thực tiễn lịch sử cũng cho chúng ta thấy cuộc sống của con người còn đầy rẫy những vấn đề bất ổn. Sự phát triển của văn minh vật chất dường như có lúc tỉ lệ nghịch với sự phát triển của văn minh tinh thần, bởi lẽ, của cải trong xã hội ngày càng dồi dào nhưng những giá trị đạo đức của con người lại ngày càng suy đồi. Trong xã hội ấy, con người chỉ được xem như một lực lượng vật chất đơn thuần, họ cảm thấy bất lực và cô đơn trước bộ máy kỹ thuật khổng lồ của xã hội phương Tây hiện đại và dần đánh mất nhân vị của mình, đánh mất niềm tin vào mọi thứ. Triết học hiện sinh ra đời đã miêu tả đúng tâm trạng của con người lúc bấy giờ, chính vì vậy nó được đón nhận hết sức nồng nhiệt. Trong lịch sử triết 2 học, từ cổ chí kim, triết học hiện sinh là trường hợp duy nhất người ta thấy “triết học đã xuống đường”. Triết học hiện sinh đã đóng trọn vẹn vai trò lịch sử của nó với việc tạo nên được cả một phong trào rộng lớn và sôi nổi trong giới văn học. Trong số đó đáng kể nhất là Albert Camus với hàng loạt các tác phẩm thể hiện nỗi lo âu, sự sợ hãi của thân phận con người trước bao nhiêu biến động và tai ương trong nửa đầu thế kỷ XX ở phương Tây. Ông cũng đã xây dựng một lý thuyết độc đáo nói về ý nghĩa của hiện sinh và thân phận con người. Albert Camus đã để lại cho hậu thế những lời nhắn nhủ chân thành và ý nghĩa nhằm giải phóng con người, đem lại tự do đích thực cho con người cá nhân. Có thể thấy, tìm hiểu tư tưởng triết học hiện sinh của Camus về con người có ý nghĩa rất lớn trong việc nghiên cứu chủ nghĩa hiện sinh cũng như đem những tư tưởng của ông đến gần hơn với người Việt Nam nói chung và những tác giả nghiên cứu về Camus nói riêng. Từ những lí do về mặt lí luận và thực tiễn trên, tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài Tư tưởng triết học hiện sinh về con người của Albert Camus. 2. Lịch sử nghiên cứu Albert Camus được coi là một nhà tiểu thuyết, một nhà triết học lớn. Ông gửi gắm tư tưởng triết học của mình qua những trang tiểu thuyết, kịch... Ông đã được giới nghiên cứu trong và ngoài nước chú ý ngay từ khi công bố tác phẩm đầu tiên. Những tác phẩm của Camus được nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau nhưng chủ yếu là ở hai góc độ: góc độ khai thác nghệ thuật văn học và góc độ triết học. 2.1. Dưới góc độ văn học Trên thế giới, một số công trình nghiên cứu về văn chương thế kỷ XX đã có đề cập đến Camus mà tiêu biểu nhất là thiên tiểu luận Cuộc phiêu lưu tư tưởng văn học Âu châu thế kỷ XX (1900 - 1959) của R.M. Alberes. Trong đó, 3 Alberes đã viết về lịch sử tính nhạy cảm của văn học Âu châu thế kỷ XX và A. Camus đã được nhắc đến như một đại biểu điển hình. Ở Việt Nam, với tư cách là một nhà văn đậm chất hiện sinh, Albert Camus được nghiên cứu từ những năm 60 của thế kỷ XX. Những năm 1960 1975, các tác giả: Nguyễn Văn Trung, Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Lý Chánh Trung, Trần Văn Toàn, Nguyễn Quốc Trụ… đã có nhiều bài viết, tác phẩm dịch về triết học, văn học hiện sinh được in trên các tạp chí: Sáng Tạo, Bách Khoa, Thông Cảm… Đặc biệt, tác giả Hoàng Trinh với bài viết Anbe Camuy và vấn đề “văn học nổi loạn” trong Phương Tây văn học và con người (1969) đã có cái nhìn trên tinh thần phê phán với quan điểm hiện sinh của Camus, tác giả coi thuyết phi lý của Camus có hạt nhân là lý luận mơ hồ và ngụy biện. Nổi loạn như là hệ quả của cái phi lý: không xác định rõ lập trường, ai nổi loạn, nổi loạn chống lại ai và nổi loạn như thế nào… Công trình Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa (1978) của Đỗ Đức Hiểu đã chỉ ra những đặc điểm của văn học hiện sinh trong các tác phẩm của Camus, khởi điểm là cái phi lý và nổi loạn là sắc thái đáng chú ý nhất của chủ nghĩa hiện sinh của Camus. Cả hai tác giả Hoàng Trinh và Đỗ Đức Hiểu đều đứng trên lập trường phê phán triết học hiện sinh của Camus để đánh giá những tư tưởng của Camus. Gần đây, trong công trình Tiếp cận văn học Pháp (2007), Liễu Trương một lần nữa đặc biệt chú ý tới sự phi lý trong tác phẩm Kẻ xa lạ. Bài viết của ông như một sự gợi nhắc lại ý muốn của Camus khi viết tác phẩm đó là tả “tính trần trụi của con người trước sự phi lý”. Ở đây, phi lý là độ không của sự dấn thân. Sự thật trong Kẻ xa lạ, cũng như trong Thần thoại Sysyphus là một sự thật tiêu cực, là một khởi đầu cần thiết cho sự dấn thân tích cực. 4 2.2. Dưới góc độ triết học Trên thế giới, Alain Robbe - Grillet, thủ lĩnh nhóm Tiểu thuyết Mới những năm 60 của thế kỷ XX ở Pháp, đánh giá rất cao cuốn Kẻ xa lạ, coi đó là một tác phẩm lớn, bởi vì trong cuốn sách đó, Camus đã tạo nên một thế giới mà ông hoàn toàn tin. Nói về cái phi lý trong tác phẩm của Camus, tác giả khẳng định, sự phi lý là vực thẳm không vượt qua được tồn tại giữa con người và thế giới, giữa các khát vọng của tinh thần con người và sự bất lực của thế giới trong việc thỏa mãn chúng. Jean Paul Sartre - nhà triết học hiện sinh Pháp nổi tiếng cùng thời với A. Camus đã viết Cắt nghĩa “Kẻ xa lạ” đăng trên tạp chí Cahier du Sud tháng 3 - 1943. Bài viết có những nhận xét tinh tế, sâu sắc, ông cho rằng những tác phẩm của Camus đặt chúng ta trong trạng thái bất an trước sự phi nhân tính của con người, viết cho sự phi lý và chống lại sự phi lý. Còn ở Việt Nam, xuất phát từ góc độ triết học, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy những tư tưởng hiện sinh về con người biểu hiện sâu sắc trong các sáng tác của Camus đã thông qua các phạm trù như: cô đơn, phi lý, nổi loạn… Vì thế, như một lẽ tự nhiên, tác phẩm của Camus được xếp vào văn chương triết học. Tác giả Bùi Ngọc Dung trong bài viết Albert Camus với nền văn chương triết học (1963) cho rằng, Camus không thuộc một trường phái hay một chủ nghĩa nào, nhưng ông đề cập đến mọi khía cạnh của mọi vấn đề trong tiểu thuyết và văn chương. Camus đặt vào các nhân vật của ông một sứ mạng để phổ biến triết học. Thân phận con người được ông đào sâu tỉ mỉ hơn lúc nào hết, ông dùng triết học để giải đáp tâm hồn con người thời hậu chiến vì họ chưa ra khỏi cơn thảm họa của chiến tranh. Như vậy, Camus đã dùng văn chương để chở những triết thuyết: thân phận con người trước vấn đề phi lý, cô đơn, nổi loạn. 5 Trong chuyên luận nghiên cứu Về tư tưởng văn học phương Tây hiện đại (1986), quan điểm của Phạm Văn Sĩvề chủ nghĩa hiện sinh đã hướng đến việc nhấn mạnh một số khái niệm đặc thù của chủ nghĩa hiện sinh: cái phi lý, cái tự do, dấn thân. Tác giả Bùi Giáng được xem là người đặc biệt quan tâm đến những tác phẩm của Camus. Ông cho rằng, không một trang văn nào của Camus không mang nặng những ưu tư xao xuyến của một đời người và những trải nghiệm sâu sắc. Điều này thể hiện giá trị thực sự của chủ nghĩa hiện sinh là chiến đấu cho địa vị con người trong thế giới, con người với những tâm tình, ưu tư chính là cứu cánh của mọi triết lý. Bên cạnh những chuyên luận nghiên cứu chuyên sâu về chủ nghĩa hiện sinh và Albert Camus còn có một số bài viết về Camus trên sách báo như: Văn chương và siêu hình học của Nguyễn Văn Trung đăng trên tạp chí Sáng Tạo, số 10, tháng 7 năm 1957; Trình bày và phê bình hai quan điểm nổi loạn của Camus của Thạch Chương đăng trên tạp chí Sáng Tạo số 48 tháng 9 năm 1960; Albert Camus và triết lý chống đối của Cô Liêu đăng trên tạp chí Bách Khoa số 76 năm 1960 và Lập trường văn nghệ của Albert Camus của Cô Liêu đăng trên tạp chí Bách Khoa số 77 năm 1960… Như vậy, từ tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, hướng nghiên cứu của đề tài đã nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học, các công trình đi trước đã để lại những kết quả có giá trị nhất định. Tuy nhiên, việc đi sâu nghiên cứu tư tưởng triết học hiện sinh về con người của Albert Camus vẫn chưa thực sự thấu đáo. Do đó cần tiếp tục nghiên cứu khám phá tư tưởng hiện sinh về con người của Albert Camus để thấy được ý nghĩa tư tưởng lớn lao mà tác giả muốn gửi gắm. Đồng thời đánh giá lại những giá trị và hạn chế của nó trong điều kiện lịch sử mới. 6 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu tư tưởng triết học hiện sinh về con người của Albert Camus để đánh giá những giá trị, hạn chế của những tư tưởng đó. 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 4.1. Khách thể nghiên cứu Khách thể nghiên cứu của đề tài là những tư tưởng triết học về con người. 4.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư tưởng triết học hiện sinh về con người của Albert Camus. 5. Giả thuyết khoa học Triết học hiện sinh là học thuyết gây khá nhiều tranh cãi, phần lớn chỉ được biết đến thông qua “phong trào hiện sinh”, tức là văn chương hiện sinh và lối sống hiện sinh. Chính vì vậy, học thuyết này đã từng được nhìn nhận chưa thực sự đúng đắn, thậm chí bị chỉ trích, phê phán. Việc nghiên cứu tư tưởng triết học hiện sinh của Albert Camus là rất cần thiết để có thể đưa ra những đánh giá xác đáng hơn, để tinh thần và giá trị của thuyết hiện sinh nói chung, tư tưởng triết học của Camus nói riêng đến với độc giả một cách trọn vẹn hơn, mang góc nhìn thấu đáo và sâu sắc hơn. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu - Khái quát những nội dung chính của triết học hiện sinh về con người và về tác giả Albert Camus. - Chỉ ra những nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học hiện sinh về con người của Albert Camus cùng những giá trị, hạn chế của nó. 7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Tư tưởng triết học hiện sinh của Albert Camus được thể hiện thông qua rất nhiều tác phẩm, song trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, đề tài tập trung làm rõ tư tưởng của ông qua một số tác phẩm tiêu biểu là: Kẻ xa lạ do 7 Dương Kiền và Bùi Ngọc Dung dịch, Nxb Ngày Nay, năm 1965; Dịch hạch do Nguyễn Trọng Định dịch, Nxb Văn học, năm 2002; Ngộ nhận (kịch) do Bùi Giáng dịch, Nxb Văn Nghệ, năm 2006; và Thần thoại Sysyphus do Trương Thị Hoàng Yến và Phong Sa dịch, Nxb Trẻ, năm 2014. 8. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, bên cạnh đó là những phương pháp cụ thể sau: - Phương pháp lịch sử và logic - Phương pháp phân tích và tổng hợp - Phương pháp so sánh, đối chiếu - Phương pháp tham vấn chuyên gia… 9. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 2 chương, 5 tiết. 10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả 10.1. Những luận điểm cơ bản của luận văn - Khái quát điều kiện, tiền đề hình thành, đối tượng, phương pháp và những chủ đề chính của triết học hiện sinh. - Vị trí, tầm vóc của Albert Camus trong trào lưu hiện sinh. - Sự cô đơn và phi lý của tồn tại người trong các tác phẩm tiêu biểu của A.Camus. - Sự nổi loạn của con người qua góc nhìn của A.Camus. - Đánh giá giá trị và hạn chế của tư tưởng hiện sinh về con người của A.Camus. 10.2. Những đóng góp mới của tác giả Về mặt lý luận: - Luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về triết học hiện sinh và đưa ra những đánh giá xác đáng về trào lưu triết học còn gây nhiều tranh cãi này. 8 - Phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học hiện sinh về con người của Albert Camus và chỉ ra những giá trị, hạn chế của triết học hiện sinh Camus. Về mặt thực tiễn: - Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, việc nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá, lựa chọn, tiếp thu những giá trị văn hóa, triết học của các dân tộc, khu vực trên thế giới là việc làm cần thiết.Với việc nghiên cứu tư tưởng triết học hiện sinh về con người của A. Camus, luận văn góp phần đưa tác giả đến gần hơn với độc giả Việt Nam. - Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn lịch sử triết học phương Tây hiện đại và các chuyên đề về văn hóa học, văn học và mỹ học phương Tây. 9 Chương 1 KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC HIỆN SINH VÀ TÁC GIẢ ALBERT CAMUS 1.1. Khái luận về triết học hiện sinh 1.1.1. Điều kiện, tiền đề ra đời và phát triển của triết học hiện sinh 1.1.1.1. Điều kiện và tiền đề ra đời của triết học hiện sinh ❖ Điều kiện kinh tế - xã hội Ra đời ở nước Đức trong chiến tranh Thế giới thứ I và nở rộ sau chiến tranh Thế giới thứ II ở Pháp, triết học hiện sinh đã phản ánh hiện thực xã hội Châu Âu thời kỳ đó. Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc để lại những hậu quả hết sức nặng nề, ngay cả các nước của phe thắng cuộc cũng phải chịu rất nhiều thiệt hại. Xã hội trở nên tiêu điều, đổ nát, con người rơi vào tình trạng chán nản, mất niềm tin vào cuộc sống. Đặc biệt là tầng lớp thanh niên, cảm thấy hoài nghi tất thảy, họ thấy chỉ còn có bản thân, một cá nhân cô độc, xa lạ với mọi thứ, không có gì đảm bảo cho cuộc sống. Trong bối cảnh đó, họ tìm đến với triết học hiện sinh như tìm đến với một chỗ dựa tinh thần. Nhiều nhà nghiên cứu đã thống nhất cho rằng, chiến tranh, đặc biệt là hai cuộc đại chiến Thế giới khốc liệt là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của triết học hiện sinh. Một nguyên nhân nữa phải kể tới đó chính là sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa duy lý đã gây ra không ít sự khủng hoảng trong đời sống tinh thần của xã hội phương Tây. Chủ nghĩa duy lý ở phương Tây xuất hiện khi chủ nghĩa công nghiệp ra đời ở thế kỷ XVII. Cuộc cách mạng công nghiệp và sau đó là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã làm thay đổi căn bản nền sản xuất của xã hội. Công nghiệp cơ khí phát triển giúp cho quy mô sản xuất mở rộng và tạo ra số lượng lớn sản phẩm cho xã hội. Con người không khỏi 10 choáng váng trước những thành tựu của chủ nghĩa duy lý và họ cho rằng nhận thức duy lý là nhận thức duy nhất. Nhờ có nhận thức lý tính mà con người đã khái quát nên hệ thống tri thức khoa học có giá trị tích cực trong việc khám phá và cải tạo thế giới, nhờ đó đưa xã hội đến sự tiến bộ, văn minh. Với chủ nghĩa duy lý, xã hội phương Tây có thể nói đã đạt tới giai đoạn tột cùng trong sự phát triển của nó, nhưng ở chính đỉnh điểm của sự phồn vinh đó, nó đã sa vào khủng hoảng. Xã hội châu Âu ngày càng trở nên sùng bái kỹ thuật, máy móc hóa, rô bốt hóa… xuất hiện những xu hướng duy lý khác nhau trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị… trong đó đáng kể nhất là chủ nghĩa “kỹ trị”. Đặc trưng cơ bản của kỹ trị là trọng kỹ thuật mà hạ thấp đi vai trò con người, khóa chặt con người vào xã hội không còn lối thoát. Nói về hậu quả mà xã hội kỹ trị để lại, Các Mác cũng đã viết: “Trong thời đại chúng ta, mọi sự vật đều tựa hồ như bao hàm mặt đối lập của nó. Chúng ta thấy rằng, máy móc có một sức mạnh kỳ diệu trong việc giảm bớt sức lao động của con người và làm cho lao động của con người có kết quả hơn, thì đem lại nạn đói và tình trạng kiệt quệ đến cho con người. Những nguồn của cải mới từ xưa đến nay chưa ai biết, dường như có một sức mạnh thần kỳ nào đó lại đang biến thành nguồn gốc của sự nghèo khổ. Những thắng lợi của kỹ thuật dường như đã mua bằng cái giá của sự suy đồi về mặt tinh thần” [40, tr.10]. Rằng “Tất cả những phát minh của chúng ta và tất cả sự tiến bộ của chúng ta tựa hồ như đang dẫn tới chỗ là những lực lượng vật chất thì được ban cho một đời sống tinh thần, còn đời sống của con người vốn đã bị tước mất các mặt tinh thần rồi thì nay lại bị hạ thấp xuống trình độ những lực lượng vật chất đơn thuần” [39, tr.10]. Như vậy, xã hội đã bị duy lý hóa cao độ và phát triển theo nguyên tắc coi trọng đồng tiền, tham lam, thương mại hóa và vụ lợi. Mối quan hệ giữa người và người chỉ là sự lợi dụng không cần tình nghĩa. Sự bành trướng của 11 kỹ thuật không làm thỏa mãn những phúc lợi của con người mà ngược lại làm phi nhân cách, tha hóa con người. Xã hội tư bản hiện đại bộc lộ rõ bản chất là một xã hội bóc lột và bất công. Giai cấp tư sản đã “tước hết vòng hào quang thần thánh của những gì xưa nay được coi là thiêng liêng, được trọng vọng, tôn sùng, nó dìm tất cả tình cảm của con người xuống dòng nước lạnh giá của sự tính toán ích kỷ, nó biến phẩm giá con người thành một giá trị trao đổi đơn thuần” [40, tr.154]. Trong sự khủng hoảng của chủ nghĩa duy lý, con người đã bị “phi nhân vị”, chỉ còn là một “lực lượng vật chất đơn thuần”. Một khi con người trở thành bần cùng và kiệt quệ trong bộ máy kỹ thuật khổng lồ của xã hội hiện đại thì sự suy sụp cá nhân là một điều hiển nhiên. Điều này khiến nhà triết học E.Fromn nhận định rằng nếu Nietzche tuyên bố vấn đề của thế kỷ XIX là “Chúa đã chết” thì vấn đề của thế kỷ XX là con người đã chết. Họ mơ hồ thấy mình vô danh, rẻ mạt trong xã hội đầy bất công và phi nhân bản. Cái còn lại duy nhất là cái tôi ích kỷ của mỗi người, là sự sở hữu, khát vọng riêng lẻ, không có gì vượt khỏi cá nhân. Trong hoàn cảnh đó, sự bành trướng của chủ nghĩa phát xít lại càng đẩy con người đến bờ tuyệt vọng, không thể thu phục lòng người. Chính trị, pháp luật, lý luận tôn giáo đều trở thành công cụ để lừa dối, tiếp tay cho tội ác. Con người mất niềm tin và nghi ngờ những giá trị, từ đó rơi vào bi quan, thất vọng. Họ luôn sống trong lo âu, chán chường, thấy cuộc đời vô nghĩa, phi lý. Sâu xa hơn đó chính là mâu thuẫn gay gắt giữa tầng lớp thống trị và bị trị ngày càng tăng trong xã hội tư bản, con người trở thành nô lệ của khoa học kỹ thuật. Triết học hiện sinh là một sự phản ứng, đối lập chủ nghĩa duy lý đang thống trị trong xã hội phương Tây hiện đại. Vấn đề cơ bản mà nó đặt ra là lấy lại nhân vị của con người. Chủ nghĩa hiện sinh không chỉ hiện diện trên phương diện lý thuyết mà còn trở thành một phong cách, một lối sống. Người 12 ta mô tả sự hiện diện của triết học hiện sinh ở Pháp như sau: “Ấy là một buổi sáng mùa đông (1946) vừa thức dậy cả thành phố Pari thấy mình “hiện sinh”, sách báo đầy hiện sinh quyến rũ tràn khắp phố phường, những “đám thanh niên nam nữ vui vẻ” kéo đến những căn hầm ở Saint - Germain, ầm vang điệu nhạc Jazz trong những trang phục mới lạ với đầu tóc xõa, quần túm ống và ăn nói mời chào phóng túng” [17, tr.10-11]. Triết học hiện sinh đặt ra yêu cầu miêu tả và vạch rõ nguyên nhân cũng như chứng minh việc cá tính con người bị mất đi, tự do con người bị tước đoạt và phải làm thế nào để con người được tự do thực sự, thoát khỏi trạng thái tha hóa. ❖ Tiền đề tư tưởng Không chỉ dựa trên những điều kiện kinh tế - xã hội đó, triết học hiện sinh ra đời còn có tiền đề về tư tưởng, lý luận rất sâu sắc. Triết học hiện sinh là một phong trào triết học nở rộ sau Đại chiến thế giới lần thứ hai. Trào lưu triết học này đã ảnh hưởng to lớn đến nhiều khuynh hướng triết học cũng như văn học nghệ thuật hiện đại của các nước phương Tây. Không những thế, triết học hiện sinh còn thâm nhập vào đời sống tạo nên một lối sống mang tên trào lưu này rất được ưa chuộng ở nhiều nước phương Tây. Có thể đánh giá những năm 50 và những năm 60 của thế kỷ XX là giai đoạn thịnh vượng của triết học hiện sinh. Tuy nhiên, nói về nguồn gốc lý luận của triết học hiện sinh cần phải ngược về thời kỳ Hy Lạp cổ đại với những mảnh tư tưởng hiện sinh còn đọng lại trong văn hóa Hy Lạp, đặc biệt ở Socrates (470 - 399 TCN) và Auguistin (354 - 430 SCN). Nếu như đa phần các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là các nhà khoa học tự nhiên và hướng sự nghiên cứu vào việc đi sâu tìm tòi yếu tố bản nguyên đầu tiên của thế giới là gì thì Socrates đã sớm nhận ra sự không toàn diện của triết học thời kỳ đó. Ông đã đưa ra lời kêu gọi: Triết học phải quay 13 về tìm hiểu con người, đó là nhiệm vụ trước tiên. Khẩu hiệu mà Socrates đưa ra đã được khắc trên cửa đền Delphi, đó là: “Connais - toi, toi - même” (Hãy tự biết chính mình). Như vậy, với khẩu hiệu đó, ông đã xác định đối tượng nghiên cứu của triết học phải là bản thân con người, mọi ứng xử của con người, mọi qui tắc đạo đức đều phải xuất phát từ đó. Tư tưởng đó của Socrates đã mở ra một bước ngoặt cho triết học phương Tây và đặt nền móng cho sự hình thành triết học hiện sinh. Cuộc đời và cái chết của Socrates cũng là một sự hiện sinh. Kierkegaar đã viết như sau: “Cái làm cho Socrates trở nên cao cả không phải do ông đưa chứng cứ về sự bất tử, mà vì ông đã thách thức nó và dám đảm nhận nguy hiểm đó” [19, tr.21-22]. Auguistin là triết gia và nhà thần học Kitô giáo, người Bắc Phi. Ông hay viết về cuộc sống con người với những vấn đề như ý nghĩa của đời sống con người, cuộc sống tạm bợ của con người trên trần thế, đời sống tâm linh của con người… Tri thức luận của Auguistin chủ yếu dựa vào bản tính con người. Ngài cho rằng con người là một tạo vật từ Thiên Chúa, được tạo ra với mục đích là trở về với Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc và chân lý vĩnh cửu. Trong con người phần nào đó đã có Thiên Chúa, nên con người có khả năng nhận thức được chân lý tuyệt đối. Đó là Thiên Chúa. Ông cho rằng, giá trị của con người không tùy thuộc và thời gian sống rong ruổi, trôi nổi, mà phụ thuộc vào những giây phút hiện tại hoàn hảo mà con người được sống qua, là giây phút con người làm điều thiện, hay con người gặp được Chúa… Augustin chính là một trong những người đầu tiên đề cập đến con người cá nhân. Ông cũng là một trong những người đầu tiên thăm dò cái tôi bí ẩn của con người, coi đó là cách tìm kiếm chính mình. Tư tưởng sâu sắc ấy của Augustin có sức sống kỳ lạ dù đã trải qua hàng nghìn năm với những thăng trầm của lịch sử. Như vậy, các nhà triết học trong quá khứ đã không hề quên đi việc tìm hiểu, nghiên cứu về con người. Các học thuyết triết học ít nhiều cũng đều nói 14 về sự tồn tại của con người, suy tư về đời sống con người, số phận con người, đặc biệt thường thấy trong các học thuyết tôn giáo… Triết học hiện sinh chỉ là sự tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu con người nhưng theo một hướng khác, mang một tinh thần khác. Song song với việc tìm hiểu cái gì tạo nên thế giới, các nhà triết học cũng luôn trăn trở về khả năng nhận thức của con người. Chính vì vậy, quá trình phát triển các lý thuyết về nhận thức luận của triết học với khuynh hướng phi duy lý là một nguồn gốc cơ sở khác đã gợi mở, thúc đẩy sự ra đời và phát triển của triết học hiện sinh. Khuynh hướng triết học phi duy lý là khuynh hướng có thái độ hoài nghi vào khả năng của khoa học, kỹ thuật trong việc giải quyết những vấn đề do con người đặt ra. Khuynh hướng triết học này chống lại hoặc hạ thấp tư duy duy lý, trái với quan điểm của những nhà triết học duy lý thuần túy như Hegel, với câu nói: Cái gì tồn tại thì hợp lý và cái gì hợp lý thì tồn tại. Các nhà triết học theo khuynh hướng phi duy lý đã đi sâu tìm hiểu khả năng nhận thức rất đặc biệt và độc đáo của những tư duy phản duy lý: Tư duy cảm tính, tư duy duy cảm, tư duy kinh nghiệm… Chân lý mà nhà triết học Pháp Pascal đã nói ở thế kỷ XVII là một minh chứng: “Con tim có những lý lẽ mà lý trí không thể hiểu được”(“Le coeur a sa raison que la raison ne conait pas”). Pascal tư duy về con người trong tình trạng bất an với tư cách một cá nhân cụ thể và một toàn thể khi con người ý thức về sự liên quan của nó trong những cực đoan đối lập trong thế giới. Thomas Hobbes (1588 - 1679), đại biểu điển hình của chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII - XVIII, xuất phát từ quan niệm duy vật cho rằng, không có khái niệm nào trong tâm trí con người mà từ đầu lại không phát sinh - hoàn toàn hay một phần - từ các cơ quan cảm giác. Như vậy, ông đã đánh giá rất cao vai trò của cảm giác trong quá trình nhận thức của con người. Một số nhà
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan