TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
HOÀNG LÊ HẠNH NHI
VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT GIAO DỊCH
GIỮA CÁC CÔNG TY TRONG NHÓM CÔNG TY
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƢƠNG MẠI
TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT GIAO DỊCH
GIỮA CÁC CÔNG TY TRONG NHÓM CÔNG TY
SINH VIÊN THỰC HIỆN: HOÀNG LÊ HẠNH NHI
KHÓA: 42 MSSV: 1753801011137
GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN: THS. TỪ THANH THẢO
TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
đƣợc thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của Thạc sĩ Từ Thanh Thảo, đảm bảo
tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả
Hoàng Lê Hạnh Nhi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
Chuẩn mực kế toán số 01
NỘI DUNG ĐƢỢC VIẾT TẮT
Chuẩn mực số 01 Chuẩn mực chung trong Hệ
thống Chuẩn mực kế toán Việt Nam đƣợc
ban hành và công bố theo Quyết định
165/2002/QĐ-BTC ngày 31/12/2002.
Chuẩn mực kế toán số 25
Chuẩn mực số 25 Báo cáo tài chính hợp nhất
và kế toán khoản đầu tƣ vào công ty con
trong Hệ thống Chuẩn mực kế toán Việt Nam
đƣợc ban hành và công bố theo Quyết định
234/2003/QĐ-BTC ngày 30/12/2003.
Luật Doanh nghiệp 2005
Luật Doanh nghiệp (Luật số 60/2005/QH11)
ngày 29/11/2005
Luật Doanh nghiệp 2014
Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/QH13)
ngày 26/11/2014
Luật Doanh nghiệp 2020
Luật Doanh nghiệp (Luật số 59/2020/QH14)
ngày 17/6/2020
Luật Quản lý thuế 2019
Luật Quản lý thuế (Luật số 38/2019/QH14)
ngày 13/6/2019
Nghị định 132/2020/NĐ-CP
Nghị định 132/2020/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 05/11/2020 quy định về quản lý thuế
đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
CHƢƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÓM CÔNG TY VÀ VẤN ĐỀ KIỂM
SOÁT GIAO DỊCH GIỮA CÁC CÔNG TY TRONG NHÓM CÔNG TY ............. 6
1.1 Lý luận chung về nhóm công ty và thành viên nhóm công ty ................................... 6
1.1.1 Khái niệm “nhóm công ty” và “công ty mẹ”, “công ty con” ............................. 6
1.1.2 Đặc điểm của nhóm công ty ............................................................................. 17
1.2 Lý luận chung về vấn đề kiểm soát giao dịch giữa các công ty trong nhóm công ty
........................................................................................................................................ 18
1.2.1 Mối quan hệ giữa các công ty trong nhóm công ty và phân loại giao dịch giữa
các công ty trong nhóm công ty ................................................................................ 18
1.2.2 Yêu cầu của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với nhóm công ty và kiểm soát
giao dịch giữa các công ty trong nhóm công ty......................................................... 20
CHƢƠNG II. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT
GIAO DỊCH GIỮA CÁC CÔNG TY TRONG NHÓM CÔNG TY – THỰC
TRẠNG VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN ....................................................................... 25
2.1 Thực trạng quy định của Luật Doanh nghiệp 2020 về vấn đề kiểm soát giao dịch
giữa các công ty trong nhóm công ty ............................................................................. 25
2.1.1 Quy định cấm sở hữu chéo giữa công ty mẹ với công ty con và giữa các công
ty con có cùng công ty mẹ với nhau .......................................................................... 25
2.1.2 Quy định cho phép thực hiện một số hợp đồng, giao dịch giữa các công ty
trong nhóm công ty với các điều kiện kiểm soát chặt chẽ......................................... 30
2.2 Pháp luật về kế toán và thuế trong việc điều chỉnh một số giao dịch giữa các công
ty trong nhóm công ty .................................................................................................... 39
2.2.1 Quy định pháp luật về kế toán trong việc điều chỉnh giao dịch giữa các công ty
trong nhóm công ty .................................................................................................... 40
2.2.2 Quy định pháp luật về thuế trong việc điều chỉnh giao dịch giữa các công ty
trong nhóm công ty .................................................................................................... 42
2.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật Doanh nghiệp 2020 trong việc kiểm soát
giao dịch giữa các công ty trong nhóm công ty ............................................................. 45
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 48
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhóm công ty là khái niệm đƣợc hình thành từ lâu trên thế giới, dùng để chỉ
một tập hợp bao gồm các công ty có mối quan hệ gắn bó về sở hữu vốn góp, cổ
phần hoặc liên kết khác. Việc thành lập nhóm công ty cũng đã đƣợc Việt Nam tiếp
thu và dần trở nên phổ biến, phát triển với nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty có
uy tín, vị thế cao trong nền kinh tế nhƣ ngày nay.1 Việc thành lập nhóm công ty
mang lại nhiều lợi ích về mặt quản trị giúp công ty mẹ chi phối hoạt động quản lý
của các công ty con, đồng thời, mang lại lợi thế cho các công ty trong nhóm, đặc
biệt là công ty mẹ khi tiến hành các hoạt động đầu tƣ, kinh doanh có thể tận dụng cơ
hội và nguồn lực sẵn có. Đặc biệt, trong bối cảnh nền kinh tế phát triển ngày càng
mạnh mẽ với sự cạnh tranh khốc liệt giữa các tổ chức kinh tế nhƣ hiện nay, mô hình
nhóm công ty càng đƣợc chứng minh là hình thức tổ chức kinh tế ƣu việt và là lựa
chọn của nhiều doanh nghiệp. Các giao dịch giữa các công ty trong nhóm công ty
với sự đa dạng về quy mô và lĩnh vực cũng đƣợc thực hiện thƣờng xuyên và phổ
biến hơn nhằm đạt đƣợc mục tiêu kinh doanh, tối đa hóa lợi nhuận cho các công ty
đó.
Mặc dù, về nguyên tắc, các công ty trong nhóm công ty đƣợc pháp luật xác
định là những chủ thể kinh doanh có tƣ cách pháp nhân, hoàn toàn độc lập với nhau
về quyền và nghĩa vụ. Theo đó, các chủ thể này đƣợc tự do giao kết các hợp đồng,
thực hiện các giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, xuất phát từ
mối quan hệ đặc biệt giữa các công ty trong nhóm công ty, tức tồn tại mối quan hệ
sở hữu về vốn và có khả năng chi phối đến hoạt động kinh doanh của công ty con,
các quốc gia cần xây dựng khung pháp lý hoàn thiện để kiểm soát một cách chặt chẽ
mối quan hệ và việc thực hiện các giao dịch giữa các công ty trong nhóm công ty.
Bởi lẽ, việc công ty mẹ giữ vai trò kiểm soát sẽ giúp công ty này có khả năng chi
phối, dễ dàng lợi dụng mối quan hệ gắn bó mật thiết để tác động “tiêu cực” đến hoạt
động kinh doanh bình thƣờng của công ty con. Điều này có thể gây thiệt hại không
chỉ đối với lợi ích của bên thứ ba (là các đối tác kinh doanh, chủ nợ hoặc lợi ích của
Nhà nƣớc) mà còn có thể ảnh hƣởng đến tính ổn định và sự phát triển của nền kinh
tế nói chung.
1
Một số tập đoàn có tiềm lực kinh tế tốt ở Việt Nam hiện nay có các công ty mẹ nhƣ: Tập đoàn Vingroup –
Công ty cổ phần, Công ty cổ phần Sữa Việt Nam, Công ty cổ phần Tập đoàn Hòa Phát, Tập đoàn Điện lực
Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn công nghiệp – Viễn thông quân đội,…
1
Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã có những quy định cụ thể trong việc điều
chỉnh, kiểm soát giao dịch giữa các công ty trong nhóm công ty, đƣợc cập nhật và
hoàn thiện bởi những văn bản luật mới ban hành. Nổi bật là Luật Doanh nghiệp
(Luật số 59/2020/QH14) ngày 17/6/2020 (Luật Doanh nghiệp 2020) với tƣ cách là
luật điều chỉnh hoạt động của nhóm công ty nói chung bên cạnh một số quy định
đặc thù của pháp luật về kế toán, về thuế nhƣ Chuẩn mực kế toán Việt Nam, Luật
Quản lý thuế... Về cơ bản, nhiều quy định của Luật Doanh nghiệp 2020 về việc
kiểm soát giao dịch giữa các công ty trong nhóm công ty đƣợc kế thừa từ Luật
Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/QH13) ngày 26/11/2014 (Luật Doanh nghiệp
2014). Đồng thời, Luật Doanh nghiệp 2020 cũng có một số điểm mới trong các quy
định liên quan đến cơ quan quản lý trong công ty, vấn đề chấp thuận nội bộ… giúp
cơ chế kiểm soát các giao dịch giữa các công ty trong nhóm công ty chặt chẽ và
hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, Luật Doanh nghiệp mới vẫn tồn tại một số điểm hạn chế
cần đƣợc khắc phục để tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh và
kiểm soát giao dịch đƣợc thực hiện giữa các công ty trong nhóm công ty.
Xuất phát từ tình hình thực tế nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài “Vấn đề kiểm
soát giao dịch giữa các công ty trong nhóm công ty” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình nhằm tập trung nghiên cứu quy định của Luật Doanh nghiệp hiện
hành và từ đó, đƣa ra một số đề xuất, kiến nghị góp phần khắc phục các hạn chế, bất
cập trong quy định của Luật Doanh nghiệp 2020.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, ở Việt Nam đã có nhiều đề tài nghiên cứu, tạp chí, khóa luận viết
về vấn đề kiểm soát giao dịch giữa các công ty trong nhóm công ty ở nhiều góc độ
và việc nghiên cứu đƣợc thực hiện gắn liền với các giai đoạn xã hội, văn bản quy
phạm pháp luật khác nhau. Tiêu biểu phải kể đến nhƣ:
Hà Thị Thanh Bình (Chủ nhiệm đề tài) (2016), Báo cáo tổng kết Đề tài khoa
học và công nghệ cấp Bộ năm 2016, Điều chỉnh giao dịch giữa các bên có liên
quan trong nhóm công ty theo pháp luật công ty – Kinh nghiệm ở một số quốc gia
và bài học cho Việt Nam, mã số B2014-10-03, Trƣờng Đại học Luật Tp. Hồ Chí
Minh. Đề tài đã nghiên cứu quy định điều chỉnh giao dịch giữa các bên có liên quan
trong nhóm công ty dƣới góc độ về quản trị doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp
2014 và cả dƣới góc độ về kế toán, về thuế. Đồng thời, so sánh quy định pháp luật
của nhiều quốc gia trên thế giới nhƣ Hoa Kỳ, Nhật Bản, Vƣơng quốc Anh, Trung
Quốc để rút ra bài học kinh nghiệm và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
Hà Thị Thanh Bình (2015), “Điều chỉnh mối quan hệ giữa các công ty trong
nhóm công ty theo Luật doanh nghiệp”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 05 (90)/2015,
2
tr. 15-22. Bài viết phân tích khái niệm, một số đặc điểm của nhóm công ty theo quy
định pháp luật về doanh nghiệp qua các thời kỳ. Tác giả đã đƣa ra một số kiến nghị
để hoàn thiện các quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 về khái niệm “nhóm công
ty”, “công ty mẹ”, “công ty con” và quy định ràng buộc trách nhiệm bồi thƣờng
thiệt hại của công ty mẹ đối với công ty con.
Nguyễn Hoàng Thùy Trang (2016), “Kiểm soát giao dịch giữa các bên có
liên quan trong nhóm công ty theo Pháp luật Hoa Kỳ”, Tạp chí Khoa học pháp lý,
Số 01 (95)/2016, tr. 31-38. Bài nghiên cứu quy định của pháp luật Hoa Kỳ trong
việc kiểm soát các giao dịch giữa các bên liên quan trong nhóm công ty, ở góc độ
pháp luật về quản trị doanh nghiệp, về thuế và kế toán.
Bùi Thị Thanh Thảo (2015), “Một số quy định của pháp luật về kiểm soát
giao dịch giữa các thành viên trong nhóm công ty”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số
02 (87)/2015, tr. 18-26. Bài viết phân tích các quy định của Luật Doanh nghiệp
2014 liên quan đến việc nhận diện thành viên trong nhóm công ty và các cơ chế
kiểm soát giao dịch giữa các thành viên trong nhóm công ty (cấm thực hiện hoặc
kiểm soát thực hiện).
Lê Trần Quỳnh Thy (2016), Vấn đề kiểm soát giao dịch giữa các công ty
trong nhóm công ty theo luật doanh nghiệp 2014, Khóa luận tốt nghiệp, Trƣờng Đại
học Luật Tp. Hồ Chí Minh. Tác giả phân tích vấn đề kiểm soát giao dịch trong
phạm vi giữa công ty mẹ, các công ty con trong tập đoàn kinh tế tƣ nhân và tập
đoàn kinh tế nhà nƣớc đối với bốn loại giao dịch là giao dịch tƣ lợi, giao dịch góp
vốn, mua cổ phần, giao dịch chuyển giá, giao dịch cho vay và bảo lãnh cho vay.
Nguyễn Thị Nhẫn (2014), Pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa các công ty
trong tổ hợp công ty mẹ – công ty con theo pháp luật Việt Nam, Khóa luận tốt
nghiệp, Trƣờng Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh. Đề tài nghiên cứu một số vấn đề lý
luận và thực trạng quy định của Luật Doanh nghiệp (Luật số 60/2005/QH11) ngày
29/11/2005 (Luật Doanh nghiệp 2005) về kiểm soát giao dịch giữa các công ty
trong tổ hợp công ty mẹ – công ty con đối với ba loại giao dịch là giao dịch nhằm
chuyển giá, giao dịch nhằm mục đích tƣ lợi và giao dịch sở hữu chéo.
Xét thấy, Luật Doanh nghiệp 2020 mới đƣợc ban hành với một số điểm thay
đổi liên quan đến vấn đề kiểm soát giao dịch giữa các công ty trong nhóm công ty
và bối cảnh nền kinh tế – xã hội của Việt Nam cũng có nhiều đổi mới.2 Vì vậy, tác
giả quyết định lựa chọn đề tài này để tiếp tục cập nhật việc nghiên cứu các quy định
2
Môi trƣờng kinh doanh của Việt Nam đƣợc Ngân hàng Thế giới (World Bank) đánh giá và xếp thứ 70/190
nền kinh tế đƣợc đánh giá trong báo cáo này. Xem thêm World Bank (2020), Doing Business 2020 –
Comparing Business Regulation in 190 Economies, World Bank Group, tr. 4.
3
mới và kiến nghị hoàn thiện cơ chế kiểm soát giao dịch giữa các công ty trong
nhóm công ty. Theo đó, tất cả những đề tài nghiên cứu nêu trên đều là nguồn tri
thức quý giá và là nguồn tài liệu tham khảo giá trị giúp tác giả trong việc định
hƣớng cho quá trình nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Tác giả viết đề tài khóa luận tốt nghiệp hƣớng đến ba mục tiêu chính sau
đây:
Thứ nhất, phân tích quy định và thực trạng áp dụng của Luật Doanh nghiệp
2020 về vấn đề kiểm soát giao dịch giữa các công ty trong nhóm công ty và đặc biệt
là cập nhật, đánh giá một số điểm mới của Luật so với quy định cũ. Đồng thời, phân
tích, tham khảo quy định pháp luật về doanh nghiệp của một số quốc gia trên thế
giới nhƣ Hoa Kỳ, Nhật Bản… trong việc điều chỉnh giao dịch giữa các công ty
trong nhóm công ty.
Thứ hai, nghiên cứu vấn đề kiểm soát giao dịch giữa các công ty theo quy
định pháp luật về doanh nghiệp và mở rộng tìm hiểu, phân tích một số quy định nổi
bật dƣới góc độ về kế toán và thuế. Từ đó, giúp độc giả nắm đƣợc một cách tổng
quan các vấn đề pháp lý cần chú ý liên quan đến vấn đề kiểm soát giao dịch thực
hiện giữa các công ty trong nhóm công ty.
Thứ ba, đƣa ra một số đánh giá và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật
của Việt Nam về vấn đề kiểm soát giao dịch giữa các công ty trong nhóm công ty.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu đề tài
Đối tƣợng nghiên cứu chính của khóa luận là các quy định pháp luật của
Luật Doanh nghiệp 2020 liên quan đến vấn đề kiểm soát giao dịch giữa các công ty
trong nhóm công ty.
4.2 Phạm vi nghiên cứu đề tài
Tác giả tập trung nghiên cứu pháp luật điều chỉnh về vấn đề kiểm soát giao
dịch giữa các công ty trong nhóm công ty theo quy định của Luật Doanh nghiệp
2020. Trong phạm vi đề tài này, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu vấn đề điều chỉnh
mối quan hệ và kiểm soát giao dịch đƣợc thực hiện giữa công ty mẹ và công ty con,
giữa các công ty con có cùng một công ty mẹ với nhau. Tác giả không tiếp cận và
tập trung phân tích các quy định đặc thù dành cho các doanh nghiệp nhƣ doanh
nghiệp có vốn Nhà nƣớc, công ty đại chúng.
Bên cạnh đó, tác giả cũng thực hiện nghiên cứu một số quy định pháp luật cơ
bản trong lĩnh vực kế toán và thuế trong việc điều chỉnh, kiểm soát giao dịch giữa
4
các công ty trong nhóm công ty theo các văn bản nhƣ Luật Quản lý thuế (Luật số
38/2019/QH14) ngày 13/6/2019 (Luật Quản lý thuế 2019), Chuẩn mực kế toán Việt
Nam…
5. Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Việc nghiên cứu và hoàn thiện đề tài đƣợc tiến hành trên cơ sở kết hợp nhiều
phƣơng pháp nghiên cứu khác nhau và chủ yếu bao gồm:
Thứ nhất, phƣơng pháp phân tích đƣợc tác giả áp dụng xuyên suốt đề tài
khóa luận này để phân tích quy định của pháp luật tại Luật Doanh nghiệp 2020, việc
điều chỉnh giao dịch giữa các công ty trong nhóm công ty. Đồng thời, nghiên cứu và
phân tích một số quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới nhƣ Hoa Kỳ
và Nhật Bản để từ đó, làm cơ sở so sánh, đánh giá quy định pháp luật của Việt
Nam.
Thứ hai, phƣơng pháp so sánh luật đƣợc tác giả sử dụng để đƣa ra nhận xét,
điểm tƣơng đồng, khác biệt trong cách tiếp cận, quy định và cơ chế kiểm soát nhóm
công ty của các quốc gia trên thế giới.
Thứ ba, phƣơng pháp lịch sử chủ yếu đƣợc tác giả linh hoạt áp dụng để tìm
hiểu và nghiên cứu một số quy định pháp luật các thời kỳ cũng nhƣ sự thay đổi về
bối cảnh kinh tế – xã hội nói chung.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phƣơng pháp thu thập thông tin, phƣơng pháp
liệt kê, chứng minh… để thu thập các nguồn tài liệu liên quan đến đề tài và phân
tích, nghiên cứu các nguồn thông tin có đƣợc để làm tƣ liệu cho khóa luận của
mình.
6. Bố cục tổng quát của khóa luận
Bố cục khóa luận bao gồm: Phần Mở đầu, Phần Nội dung và Phần Kết luận.
Trong đó, Phần Nội dung sẽ đƣợc chia thành hai (02) chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng I. Lý luận chung về nhóm công ty và vấn đề kiểm soát giao dịch
giữa các công ty trong nhóm công ty.
Chƣơng II. Quy định pháp luật Việt Nam về vấn đề kiểm soát giao dịch giữa
các công ty trong nhóm công ty – Thực trạng và hƣớng hoàn thiện.
5
CHƢƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÓM CÔNG TY VÀ VẤN ĐỀ KIỂM
SOÁT GIAO DỊCH GIỮA CÁC CÔNG TY TRONG NHÓM CÔNG TY
1.1 Lý luận chung về nhóm công ty và thành viên nhóm công ty
1.1.1 Khái niệm “nhóm công ty” và “công ty mẹ”, “công ty con”
1.1.1.1 Khái niệm “nhóm công ty”
a) Khái niệm “nhóm công ty” theo pháp luật của một số quốc gia trên
thế giới
Ở một số quốc gia có nền kinh tế phát triển trên thế giới, nhóm công ty đã
dần hình thành và bắt đầu có những bƣớc phát triển rõ nét từ những năm nửa cuối
thế kỷ XIX.3 Với nhiều lợi thế và hiệu quả kinh tế mà công ty thành viên của nhóm
công ty có thể đạt đƣợc, việc thành lập nhóm công ty càng trở nên phổ biến và còn
là yếu tố quan trọng góp phần làm nên sự tăng trƣởng nhanh chóng của nền kinh tế
một số quốc gia, tiêu biểu nhƣ Nhật Bản (đƣợc biết đến với thời kỳ “Thần kỳ Nhật
Bản”). Chính quá trình phát triển ngày càng mạnh mẽ của nhóm công ty ở những
quốc gia phát triển đã đặt ra yêu cầu các quốc gia này phải xây dựng và không
ngừng hoàn thiện hành lang pháp lý để điều chỉnh, kiểm soát chặt chẽ việc thành
lập, hoạt động của nhóm công ty từ khá sớm.
Tuy nhiên, liên quan đến việc nhận diện mô hình nhóm công ty, không ít các
quốc gia lại không đƣa ra định nghĩa cụ thể về khái niệm “nhóm công ty” mà chủ
yếu tập trung vào các quy định điều chỉnh và giám sát mối quan hệ giữa các công ty
thành viên trong nhóm công ty.
Cụ thể, tại Hoa Kỳ, mặc dù là quốc gia nơi nhóm công ty có lịch sử hình
thành và phát triển lâu đời trên thế giới, pháp luật Hoa Kỳ không đƣa ra khái niệm
pháp lý thống nhất cho nhóm công ty.4 Tại Nhật Bản, Luật Công ty 2005 cũng
không đƣa ra khái niệm nhóm công ty mà chỉ định nghĩa khái niệm “công ty mẹ” và
“công ty con”.5 Thay vào đó, Luật Công ty hiện hành của Nhật Bản tập trung xây
dựng các cơ sở pháp lý giúp nhận diện mối quan hệ công ty mẹ – công ty con và
quy định điều chỉnh các hoạt động, giao dịch đƣợc tiến hành giữa công ty mẹ với
các công ty con, giữa các công ty con có cùng công ty mẹ với nhau.
3
Lê Minh Hƣơng, “Mô hình tập đoàn kinh tế tại một số nƣớc và gợi ý cho Việt Nam”,
https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/r/m/nckh/ctnc/nckhctnc_chitiet?dDocName=MOFUCM2
03333&_afrLoop=343345830423241, truy cập ngày 29/6/2021.
4
Virginia Harper Ho (2012), “Theories of Corporation Groups: Corporation Identity Reconceived”, Seton
Hall Law Review, Vol. 42/ 2012, tr. 884-885.
5
Luật Công ty Nhật Bản 2005 (Japan Companies Act of 2005); Sắc lệnh về thực thi Luật Công ty Nhật Bản
2006, đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2018 (Regulation for Enforcement of the Companies Act 2006).
6
Mặc dù pháp luật không quy định nhƣng ở góc độ nghiên cứu, nhiều học giả
nƣớc ngoài cũng đã đƣa ra một số định nghĩa “nhóm công ty” nhằm xác định những
thành tố quan trọng của khái niệm “nhóm công ty”. Trong đề tài nghiên cứu của
mình, tác giả Virginia Harper Ho định nghĩa “nhóm công ty” khá hẹp, đó là một
hình thức tổ chức kinh tế gồm nhiều thực thể pháp lý liên kết với nhau bởi việc sở
hữu và kiểm soát chung ở một mức độ, tỷ lệ nào đó.6 Một học giả khác là Paul
Didier cũng đã đƣa ra một định nghĩa chi tiết hơn, rằng nhóm công ty là một tập
hợp của nhiều công ty khác nhau, tùy thuộc vào hình thức kiểm soát trực tiếp, gián
tiếp, độc quyền hoặc đồng kiểm soát bởi các công ty nhất định trong nhóm mà các
công ty đó sẽ bị kiểm soát bởi công ty ở bậc cao hơn trong hệ thống phân tầng của
nhóm vốn bị chi phối toàn bộ bởi một công ty mẹ đƣợc sở hữu bởi nhà đầu tƣ, Nhà
nƣớc... và toàn bộ việc hình thành nhóm công ty chủ yếu phụ thuộc vào cấu trúc
vốn.7 Một số định nghĩa mà các học giả đƣa ra nhƣ trên dù chƣa đủ khái quát để
đƣợc tiếp thu, ghi nhận thống nhất trong các điều khoản của luật nhƣng mặt khác đã
mang lại nhiều giá trị khoa học trong việc đề xuất cách tiếp cận phù hợp và cơ chế
điều chỉnh hiệu quả hơn đối với nhóm công ty theo quy định pháp luật.
Nhƣ vậy, theo hƣớng quy định của một số quốc gia phát triển trên thế giới
nhƣ Hoa Kỳ và Nhật Bản, khái niệm “nhóm công ty” không nhất thiết phải đƣợc
ghi nhận định nghĩa trong các đạo luật. Bởi lẽ, nhóm công ty đƣợc hình thành từ
thực tiễn thƣơng mại và mang đặc trƣng của một khái niệm về kinh tế hơn là một
khái niệm pháp lý. Yêu cầu quan trọng đặt ra cho pháp luật về doanh nghiệp của các
quốc gia chính là tập trung cho xây dựng cơ chế điều chỉnh, kiểm soát mối quan hệ
và việc thực hiện các giao dịch giữa các công ty trong nhóm công ty.8
b) Khái niệm “nhóm công ty” theo pháp luật Việt Nam
Luật Doanh nghiệp đƣợc xây dựng, ban hành và áp dụng với tƣ cách là một
“luật chung” về doanh nghiệp điều chỉnh vấn đề thành lập, tổ chức, hoạt động của
doanh nghiệp nói chung và chỉ khi luật khác có quy định đặc thù về các hoạt động
liên quan đến doanh nghiệp thì mới áp dụng quy định của luật đó.9 Gần đây, Luật
Doanh nghiệp 2020 đƣợc Quốc hội thông qua ngày 17/6/2020 và có hiệu lực từ
ngày 01/01/2021 đã thay thế cho Luật Doanh nghiệp 2014 sau hơn sáu (06) năm thi
6
Virginia Harper Ho, tlđd (4), tr. 890.
7
Maggy Pariente (2007), “The Evolution of the Concept of Corporate Group In France”, European Company
and Financial Law Review, Vol. 4 (3)/2007, tr. 320.
8
Lê Trần Quỳnh Thy (2016), Vấn đề kiểm soát giao dịch giữa các công ty trong nhóm công ty theo luật
doanh nghiệp 2014, Khóa luận tốt nghiệp, Trƣờng Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr. 6.
9
Luật Doanh nghiệp 2020, Điều 1, Điều 3.
7
hành. Tƣơng tự nhƣ Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Doanh nghiệp 2014, Luật
Doanh nghiệp mới tiếp tục dành riêng Chƣơng VIII gồm bốn (04) điều khoản để
quy định một cách tập trung về nhóm công ty và các giao dịch giữa các công ty
thành viên trong nhóm.
Kế thừa quy định của Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Doanh nghiệp 2020
không đƣa ra định nghĩa chính thức cho thuật ngữ “nhóm công ty” mà chỉ định
nghĩa “tập đoàn kinh tế, tổng công ty” – hai hình thức của nhóm công ty đƣợc pháp
luật hiện hành ghi nhận. Trƣớc đó, định nghĩa “nhóm công ty” đã từng đƣợc ghi
nhận tại khoản 1 Điều 146 Luật Doanh nghiệp 2005 nhƣ sau:
“Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với
nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh
khác.”
Mặc dù định nghĩa này đã gọi tên và mô tả cơ bản về nhóm công ty nhƣng
quy định này lại không mang đến nhiều ý nghĩa ở góc độ pháp lý. Đồng thời, cách
định nghĩa “nhóm công ty” nhƣ trên cũng không thực sự rõ ràng khi sử dụng cụm từ
mang tính chất định tính nhƣ “mối quan hệ gắn bó lâu dài” và liệt kê các khía cạnh
rất rộng mà các công ty “gắn bó lâu dài” về “lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trƣờng”,
“các dịch vụ kinh doanh khác”. Vì vậy, Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Doanh
nghiệp 2020 không tiếp tục giữ quy định về định nghĩa “nhóm công ty” này và đƣa
ra định nghĩa của “tập đoàn kinh tế, tổng công ty”. Tại Điều 194, Luật Doanh
nghiệp 2020 quy định:
“1. Tập đoàn kinh tế, tổng công ty thuộc các thành phần kinh tế là nhóm
công ty có mối quan hệ với nhau thông qua sở hữu cổ phần, phần vốn góp
hoặc liên kết khác. Tập đoàn kinh tế, tổng công ty không phải là một loại
hình doanh nghiệp, không có tư cách pháp nhân, không phải đăng ký thành
lập theo quy định của Luật này.
2. Tập đoàn kinh tế, tổng công ty có công ty mẹ, công ty con và các công ty
thành viên khác. Công ty mẹ, công ty con và mỗi công ty thành viên trong tập
đoàn kinh tế, tổng công ty có quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp độc lập
theo quy định của pháp luật.”
Nhƣ vậy, về mặt câu chữ, tập đoàn kinh tế và tổng công ty đƣợc hiểu là các
tổ hợp nhiều công ty độc lập khác nhau nhƣng lại có sự liên kết với nhau bởi yếu tố
sở hữu cổ phần, phần vốn góp hoặc gắn bó với nhau bởi liên kết khác. Và thuật ngữ
“nhóm công ty” đƣợc đề cập trong quy định trên với vai trò làm rõ đặc điểm “là tổ
hợp các công ty độc lập với nhau” của tập đoàn kinh tế và tổng công ty.
8
Bên cạnh đó, theo quan điểm của nhiều học giả, quy định này còn khái quát
cách hiểu và đã gián tiếp phân loại nhóm công ty. Dù luật không trực tiếp định
nghĩa “nhóm công ty” chỉ bao gồm tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhƣng với cách
quy định nhƣ vậy, có thể hiểu Luật Doanh nghiệp 2020 đã giới hạn đối tƣợng điều
chỉnh chỉ bao gồm hai loại nhóm công ty là tập đoàn kinh tế và tổng công ty.10
Nhóm công ty theo đó đƣợc hiểu là tổ hợp bao gồm các công ty độc lập về mặt pháp
lý và có mối liên kết chặt chẽ với nhau thông qua việc sở hữu cổ phần, phần vốn
góp. Vì cơ sở hình thành là dựa trên mối quan hệ về sở hữu và liên kết khác giữa
các công ty, nhóm công ty không đƣợc xem một loại hình doanh nghiệp và không
phải thực hiện đăng ký theo quy định của pháp luật.11
Tóm lại, theo quan điểm của tác giả, với quy định tại Điều 194 Luật Doanh
nghiệp 2020, pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam đã có cách tiếp cận nhóm
công ty phù hợp với hƣớng quy định chung của một số quốc gia trên thế giới là
không đƣa ra một định nghĩa cụ thể cho “nhóm công ty”. Dù không trực tiếp đƣa ra
khái niệm “nhóm công ty” nhƣng Luật Doanh nghiệp đã khái quát đƣợc đặc trƣng
của nhóm công ty và đồng thời, gián tiếp phân loại thành hai hình thức nhóm công
ty là tập đoàn kinh tế và tổng công ty. Việc phân loại nhóm công ty thành tập đoàn
kinh tế và tổng công ty về cơ bản không đƣợc quy định cụ thể và cũng không chỉ rõ
sự khác biệt giữa hai loại hình mà thay vào đó, Luật Doanh nghiệp tập trung điều
chỉnh mối quan hệ giữa các thành viên trong nhóm công ty, cụ thể là công ty mẹ và
công ty con. Vấn đề này sẽ đƣợc tác giả phân tích cụ thể hơn ở Mục 1.1.1.2 và
Chƣơng II tiếp theo của đề tài này.
1.1.1.2 Khái niệm “công ty mẹ”, “công ty con”
a) Khái niệm “công ty mẹ”, “công ty con” theo pháp luật một số quốc
gia trên thế giới
Dƣới góc độ pháp lý, mỗi quốc gia trên thế giới sẽ có cách tiếp cận, định
nghĩa khái niệm và tiêu chí khác nhau để xác định quan hệ giữa công ty mẹ – công
ty con. Tiêu biểu phải kể đến quy định pháp luật của Hoa Kỳ và Nhật Bản, cụ thể
nhƣ sau:
Theo pháp luật Hoa Kỳ, một nhóm công ty kiểu mẫu sẽ bao gồm một công ty
mẹ và các công ty con.12 Trên thực tế, thành viên của nhóm công ty còn có thể bao
10
Hà Thị Thanh Bình (2015), “Điều chỉnh mối quan hệ giữa các công ty trong nhóm công ty theo Luật doanh
nghiệp”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 05 (90)/2015, tr. 16.
11
Luật Doanh nghiệp 2020, Điều 194 khoản 2.
12
Nguyễn Hoàng Thùy Trang (2016), “Kiểm soát giao dịch giữa các bên có liên quan trong nhóm công ty
theo Pháp luật Hoa Kỳ”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 01 (95)/2016, tr. 32.
9
gồm cả các thực thể pháp lý khác (entity) không phải là công ty (corporation).13 Do
đó, “nhóm công ty có thể đƣợc xem là một sản phẩm lai tạo giữa thỏa thuận và tổ
chức (hybrid arrangements between contract and organization), vừa có tính riêng rẽ
vừa có tính thống nhất”.14
Theo Từ điển pháp luật Black’s Law Dictionary, công ty con đƣợc hiểu là
công ty mà trong đó, có một công ty khác (là công ty mẹ) sở hữu ít nhất đa số số cổ
phần và vì vậy, có quyền kiểm soát đối với công ty.15 Công ty mẹ là một siêu công
ty sở hữu hoặc kiểm soát ít nhất một khoản lợi ích chi phối trong một hoặc nhiều
công ty khác đủ để quyết định các chính sách của các công ty đó thông qua quyền
biểu quyết (voting power); là công ty đƣợc tổ chức để sở hữu cổ phần trong các
công ty khác; là bất kỳ công ty nào ở vị trí kiểm soát hoặc ảnh hƣởng đáng kể đến
hoạt động quản lý của một hoặc nhiều công ty khác, bằng việc sở hữu hoặc sở hữu
ít nhất đa số chứng khoán trong các công ty khác.16
Theo đó, mối quan hệ giữa công ty mẹ – công ty con theo pháp luật Hoa Kỳ
đƣợc hình thành dựa trên việc sở hữu, nắm giữ cổ phần đủ để một công ty có khả
năng kiểm soát hoạt động quản lý hoặc có quyền quyết định một số vấn đề quan
trọng của công ty khác.17 Tuy nhiên, Hoa Kỳ không đƣa ra một công thức chung
hay một tỷ lệ sở hữu cụ thể để xác định quan hệ kiểm soát – bị kiểm soát giữa các
công ty mà tùy vào từng quan hệ pháp luật cụ thể, pháp luật chuyên ngành sẽ có quy
định khác nhau về mức tỷ lệ cổ phần sở hữu tối thiểu cần đạt và một số biểu hiện
chi phối cụ thể khác để xác định một công ty có quyền kiểm soát đối với một công
ty khác hay không.18
Cụ thể nhƣ theo Luật Công ty công ích 1935 (The Public Utility Holding
Company Act of 1935 – một đạo luật liên bang Hoa Kỳ quản lý các công ty công
ích trong ngành điện), quan hệ công ty mẹ – công ty con đƣợc xác định thông qua
định nghĩa “công ty nắm vốn” (holding company).19 Về nguyên tắc, một trong
những căn cứ xác định chính là dựa trên việc một công ty sở hữu trực tiếp hay gián
tiếp, có quyền kiểm soát hoặc nắm giữ quyền biểu quyết, tối thiểu từ 10% số chứng
13
Virginia Harper Ho, tlđd (4), tr. 886-887.
14
Nguyễn Hoàng Thùy Trang, tlđd (12), tr. 32.
15
Henry Campbell Black (1968), Black’s Law Dictionary, the 4 th edition, West Publishing Co., USA, tr. 410.
16
Henry Campbell Black, tlđd (15), tr. 865.
17
Luật Đầu tƣ công ty 1940 (The Investment Company Act of 1940), Điều 2 (9) (A).
18
Nguyễn Hoàng Thùy Trang, tlđd (12), tr. 32.
19
Luật Công ty công ích 1935 (The Public Utility Holding Company Act of 1935), Điều 2 (7).
10
khoán có quyền biểu quyết đang lƣu hành của một công ty công ích khác hoặc của
một công ty mẹ đƣợc xác định theo khoản này hoặc khoản B tiếp theo.
Một ví dụ điển hình khác là Đạo luật Công ty Ngân hàng mẹ 1956 (The Bank
Holding Company Act of 1956) – một đạo luật điều chỉnh việc hình thành và hoạt
động của công ty nắm vốn ngân hàng, hay còn gọi là công ty đầu tƣ ngân hàng.20
Theo đó, công ty có quyền kiểm soát đối với ngân hàng hoặc với công ty mẹ của
ngân hàng có thể đƣợc xác định dựa trên căn cứ: công ty trực tiếp hoặc gián tiếp
thực hiện thông qua một số chủ thể việc sở hữu, kiểm soát hoặc có quyền biểu quyết
từ 25% trở lên đối với bất kỳ loại chứng khoán có quyền biểu quyết nào của ngân
hàng đó. Bên cạnh đó, đạo luật này còn ghi nhận biểu hiện “quyền kiểm soát” của
công ty mẹ dƣới hình thức gây ảnh hƣởng trong việc bổ nhiệm đa số giám đốc hoặc
ngƣời ủy thác của ngân hàng hoặc công ty.21
Theo pháp luật Nhật Bản, Luật Công ty 2005 tập trung điều chỉnh mối quan
hệ giữa công ty mẹ – công ty con và đã quy định thống nhất khái niệm “công ty
mẹ”, “công ty con” tại điểm (iii), (iv) Điều 2 Luật Công ty 2005 lần lƣợt nhƣ sau:
Công ty con là bất kỳ thực thể nào có tƣ cách pháp nhân theo Pháp lệnh của Bộ Tƣ
pháp mà việc quản lý chịu sự kiểm soát bởi một công ty khác, bao gồm nhƣng
không giới hạn việc một công ty cổ phần có đa số phiếu biểu quyết thuộc sở hữu bởi
một công ty khác. Công ty mẹ là bất kỳ thực thể nào có tƣ cách pháp nhân theo
Pháp lệnh của Bộ Tƣ pháp có quyền kiểm soát hoạt động quản lý một công ty cổ
phần, bao gồm nhƣng không giới hạn, đối với các công ty có công ty con là công ty
cổ phần.22 Theo đó, Luật Công ty Nhật Bản 2005 quy định rằng, khả năng kiểm soát
của một công ty lên (các) công ty khác, hay mối quan hệ kiểm soát – bị kiểm soát
giữa các công ty đƣợc xem là tiêu chí xác định công ty mẹ và công ty con.23 Bằng
20
Nguyễn Thị Lan Hƣơng (2007), “Công ty nắm vốn - hình thức để ngân hàng đầu tƣ vào lĩnh vực bảo hiểm
theo Luật Hoa Kỳ”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật, số 23/(2007), tr. 82.
21
United State Code Title 12, Chapter 17, Sec 1841(a); Luật Công ty Ngân hàng mẹ 1956 (The Bank
Holding Company Act of 1956).
22
Luật Công ty Nhật Bản 2005 (Japan Companies Act of 2005), Điều 2 (iii), (iv).
23
Sắc lệnh về thực thi Luật Công ty Nhật Bản 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2018 (Regulation for Enforcement
of the Companies Act 2006) đã cụ thể hóa liệt kê các trƣờng hợp một công ty A đƣợc xem là công ty mẹ của
công ty B nếu: (i) đa số thành viên Hội đồng quản trị của công ty B là do công ty A cử; hoặc (ii) khi giữa 2
công ty có thỏa thuận về quyền quyết định các vấn đề quan trọng về chiến lƣợc tài chính và kinh doanh của
công ty A đối với công ty B; hoặc (iii) khoản vay mà công ty A cho công ty B vay có giá trị vƣợt tổng giá trị
tài sản của công ty B…
Xem thêm Trần Minh Anh, “Quy định về nhóm công ty trong pháp luật một số quốc gia và những nội dung
tham khảo cho Việt Nam”, http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210349, truy cập ngày
17/5/2021.
11
việc quy định theo hƣớng “bao gồm nhƣng không giới hạn” và đƣa ra ví dụ điển
hình cho khả năng kiểm soát trong công ty cổ phần là thông qua việc sở hữu đa số
phiếu biểu quyết, pháp luật về doanh nghiệp của Nhật Bản còn mở rộng công nhận
những cách thức, biểu hiện khác giúp xác định khả năng kiểm soát của một công ty
đến các công ty khác.
Nhƣ vậy, dù Hoa Kỳ và Nhật Bản có cách tiếp cận và quy định về công ty
mẹ, công ty con khác nhau nhƣng pháp luật của hai quốc gia đều xác định một trong
những căn cứ tiêu biểu để nhận diện mối quan hệ công ty mẹ – công ty con chính là
quyền kiểm soát hay khả năng chi phối thực tế của một công ty lên hoạt động của
công ty khác. Quyền kiểm soát và khả năng chi phối thực tế có thể đƣợc thực hiện
thông qua việc công ty sở hữu một tỷ lệ số cổ phần hay phiếu biểu quyết nhất định,
hoặc có quyền ảnh hƣởng đến việc bổ nhiệm một số vị trí quan trọng trong công ty
khác.
b) Khái niệm “công ty mẹ”, “công ty con” theo pháp luật Việt Nam
Theo pháp luật Việt Nam, Luật Doanh nghiệp 2020 tập trung điều chỉnh mối
quan hệ giữa các thành viên trong nhóm công ty, cụ thể là hai loại thành viên cơ bản
gồm công ty mẹ và công ty con. Tác giả cho rằng, đây là cách tiếp cận hợp lý và
phù hợp với xu thế chung của một số quốc gia trên thế giới. Bởi lẽ, để hình thành
một nhóm công ty thì cần tồn tại ít nhất hai doanh nghiệp và trong đó phải có một
công ty mẹ và trong một nhóm công ty, ngoài “vai trò” công ty mẹ còn có các công
ty thành viên nhƣ công ty con và công ty thành viên khác (nếu có). Do đó, công ty
mẹ và công ty thành viên (gồm công ty con và công ty thành viên khác) đƣợc xem
là “thành tố cơ bản” cho việc hình thành một nhóm công ty, dù là tập đoàn kinh tế
hay một tổng công ty.
Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp hiện hành không giải thích và quy định chi
tiết về thuật ngữ “công ty thành viên khác” trong tập đoàn kinh tế, tổng công ty là
gì. Dựa trên định nghĩa của tập đoàn kinh tế, tổng công ty tại khoản 1 Điều 194
Luật Doanh nghiệp 2020 và tham khảo hƣớng quy định của Nghị định 69/2014/NĐCP về tập đoàn kinh tế nhà nƣớc và tổng công ty nhà nƣớc, nhóm công ty có thể
bao gồm thêm các công ty cấp III (là “công ty cháu” – công ty con của công ty con)
và công ty liên kết.24 Theo đó, bên cạnh công ty mẹ và công ty con, trong nhóm
công ty còn có thể có các công ty thành viên khác đƣợc hình thành dựa trên mối
quan hệ sở hữu thông qua cổ phần, phần vốn góp ở một tỷ lệ nhất định hoặc thông
24
Luật Doanh nghiệp 2020, Điều 194 khoản 1; Nghị định 69/2014/NĐ-CP, Điều 3 khoản 6, Điều 4 khoản 1,
2, 3; Luật Quản lý thuế 2019, Điều 3 khoản 21; Nghị định 132/2021/NĐ-CP, Điều 5.
12
qua mối liên kết khác nhƣ quyền chi phối, quyền trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia
điều hành kiểm soát hoặc quyền chỉ định thành viên ban lãnh đạo… của công ty này
trong công ty kia.
Ngoài ra, về định nghĩa khái niệm “công ty con”, Luật Doanh nghiệp không
trực tiếp đƣa ra định nghĩa mà chỉ định nghĩa “công ty mẹ” bằng cách liệt kê các
trƣờng hợp cụ thể làm căn cứ xác định một công ty là công ty mẹ của công ty khác.
Đối với tiêu chí nhận diện mối quan hệ công ty mẹ – công ty con, về cơ bản,
Việt Nam có cách quy định khá tƣơng đồng với pháp luật Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Theo đó, một trong những căn cứ để xác định mối quan hệ công ty mẹ – công ty con
chính là quyền kiểm soát của một công ty lên hoạt động của công ty khác thông qua
việc sở hữu một tỷ lệ nhất định phần vốn góp hay cổ phần trong công ty đó, hoặc có
quyền quyết định bổ nhiệm một số vị trí quan trọng trong công ty khác. Cụ thể, theo
pháp luật Việt Nam, mối quan hệ công ty mẹ – công ty con trong nhóm công ty
đƣợc xác định thông qua định nghĩa khái niệm “công ty mẹ” quy định tại khoản 1
Điều 195 Luật Doanh nghiệp 2020 nhƣ sau:
“Một công ty được coi là công ty mẹ của công ty khác nếu thuộc một trong
các trường hợp sau đây:
a) Sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ thông của công ty
đó;
b) Có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp quyết định bổ nhiệm đa số hoặc tất cả
thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của công ty đó;
c) Có quyền quyết định việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ của công ty đó.”
Về bản chất, thuật ngữ “công ty mẹ”, “công ty con” là cách dùng của các chủ
thể bên ngoài gọi tên các công ty trong nhóm công ty để chỉ rõ mối liên kết về vốn
và sự chi phối nhất định giữa các công ty đó. Luật Doanh nghiệp đã quy định theo
hƣớng liệt kê ba (03) trƣờng hợp mà theo đó, một công ty sẽ đƣợc coi là công ty mẹ
của công ty khác. Việc xác định mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con theo
các trƣờng hợp nêu trên đƣợc xây dựng dựa trên hai (02) căn cứ: (i) một là tỉ lệ sở
hữu vốn điều lệ hoặc số cổ phần phổ thông của một công ty trong công ty khác; và
(ii) hai là khả năng một công ty ảnh hƣởng đến việc ra quyết định của công ty
khác.25
Cách xác định tƣ cách pháp lý công ty mẹ – công ty con dựa trên tỷ lệ sở hữu
vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ thông của công ty theo căn cứ thứ nhất là rõ
25
Bùi Thị Thanh Thảo (2015), “Một số quy định của pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa các thành viên
trong nhóm công ty”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 02 (87)/2015, tr. 19.
13
ràng và dễ xác định vì đây là tiêu chí mang tính định lƣợng. Chỉ cần biết thông tin
chính xác về vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ thông của công ty và số vốn góp
hoặc số cổ phần phổ thông mà một công ty sở hữu trong công ty khác là có thể xác
định đƣợc liệu công ty này có phải là công ty mẹ của các công ty cụ thể khác hay
không.26
Tuy nhiên, theo quy định của một số quốc gia phát triển trên thế giới, thay vì
dựa trên tổng số cổ phần phổ thông nhƣ Luật Doanh nghiệp 2020, tỷ lệ sở hữu đƣợc
xác định dựa trên tổng số cổ phần có quyền biểu quyết. Theo tác giả, cách quy định
tỷ lệ dựa trên tổng số phiếu biểu quyết nhƣ của Hoa Kỳ là hợp lý, giúp đảm bảo cổ
đông là tổ chức đó luôn chiếm đa số quyền biểu quyết khi quyết định một số vấn đề
trong công ty khác. Trong khi theo cách quy định của Luật Doanh nghiệp 2020, một
công ty sở hữu trên 50% tổng số cổ phần phổ thông trong công ty khác không luôn
mặc nhiên chiếm đa số quyền biểu quyết trong công ty đó. Bởi lẽ, ở loại hình doanh
nghiệp là công ty cổ phần, doanh nghiệp có thể phát hành các cổ phần ƣu đãi biểu
quyết.27 Cổ phần ƣu đãi biểu quyết cũng là một loại cổ phần phổ thông có nhiều hơn
phiếu biểu quyết so với cổ phần phổ thông khác và số phiếu biểu quyết cụ thể của
mỗi cổ phần ƣu đãi biểu quyết sẽ đƣợc quy định tại Điều lệ công ty.28 Nhƣ vậy, sẽ
có trƣờng hợp một cổ đông dù không sở hữu trên 50% tổng số cổ phần phổ thông
trong công ty khác nhƣng vẫn có thể có số phiếu biểu quyết nhiều hơn cổ đông sở
hữu trên 50% tổng số cổ phần phổ thông và không đƣợc xác định là công ty mẹ theo
trƣờng hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 195 Luật Doanh nghiệp 2020.
Trong khi đó, căn cứ thứ hai để nhận diện công ty mẹ có phần thiếu rõ ràng
và còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác nhƣ loại hình doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức và
quy định cụ thể trong Điều lệ công ty. Mặc dù không sở hữu trên 50% vốn điều lệ
hoặc tổng số cổ phần phổ thông theo căn cứ thứ nhất nhƣng một công ty vẫn có thể
đƣợc xác định là công ty mẹ của công ty khác nếu công ty đó có quyền quyết định
trực tiếp hoặc gián tiếp một số vấn đề quan trọng của công ty kia. Việc trực tiếp
quyết định ở đây đƣợc hiểu là quyền biểu quyết mà thành viên, cổ đông có đƣợc
26
Thông tin về tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ thông của các chủ sở hữu của một công ty
còn đƣợc ghi nhận cụ thể trên một số loại giấy tờ, văn bản cụ thể. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, có
thể xem thông tin về vốn điều lệ, phần vốn góp của mỗi thành viên trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp, Sổ đăng ký thành viên (đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên) và Điều lệ công
ty. Đối với công ty cổ phần, có thể xem thông tin về tổng số cổ phần phổ thông và số cổ phần phổ thông mà
các cổ đông sở hữu tại Sổ đăng ký cổ đông của công ty.
Cơ sở pháp lý: Luật Doanh nghiệp 2020, Điều 24 khoản 2 điểm c, d, Điều 122 khoản 2 điểm c, đ.
27
Luật Doanh nghiệp 2020, Điều 114 khoản 2 điểm c.
28
Luật Doanh nghiệp 2020, Điều 116 khoản 1.
14
tƣơng ứng với phần vốn góp, số cổ phần mình sở hữu trong công ty. Riêng đối với
trƣờng hợp gián tiếp quyết định, Luật Doanh nghiệp 2020 không quy định cụ thể
các cách thức, biểu hiện của việc một công ty có quyền gián tiếp quyết định một số
vấn đề trong công ty khác là nhƣ thế nào. Thực tiễn cho thấy, một trong những công
cụ phổ biến giúp cổ đông và thành viên công ty có thể gián tiếp quyết định bổ
nhiệm đa số hoặc tất cả thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc trong công ty chính là thỏa thuận cổ đông (đối với công ty cổ phần) hay thỏa
thuận thành viên (đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên), sau
đây gọi chung là thỏa thuận cổ đông. Thông qua thỏa thuận riêng của các cổ đông,
thành viên với nhau, nhóm cổ đông, thành viên có thể thống nhất hƣớng biểu quyết
về việc bổ nhiệm một số vị trí và từ đó, giúp cổ đông và thành viên có số phiếu biểu
quyết hạn chế trong công ty có thể cùng gây ảnh hƣởng, chi phối đến việc bổ nhiệm
đa số hoặc tất cả thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Tuy
nhiên, liên quan đến giá trị pháp lý của thỏa thuận cổ đông trong việc quyết định bổ
nhiệm một số ngƣời quản lý công ty, Luật Doanh nghiệp 2020 không có quy định
điều chỉnh cụ thể đối với vấn đề này nên về nguyên tắc, thỏa thuận cổ đông sẽ chịu
sự điều chỉnh chung của pháp luật về hợp đồng và theo đó, thỏa thuận cổ đông có
thể đƣợc xem là một loại hợp đồng ràng buộc các bên tham gia.29
Xét thấy, dù về mặt hình thức, căn cứ thứ hai tập trung vào quyền lực quyết
định hoạt động quản lý, điều hành chung của công ty nhƣng về bản chất, để thực
hiện những quyền lực này trên thực tế thì buộc thành viên hoặc cổ đông phải nắm
giữ một tỷ lệ nhất định của vốn điều lệ hoặc số cổ phần có quyền biểu quyết của
công ty đó. Vì vậy, để nắm rõ điều kiện đƣợc thông qua quyết định bổ nhiệm thành
viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, quyết định sửa đổi, bổ sung
Điều lệ công ty, chúng ta cần căn cứ quy định của Luật Doanh nghiệp về thẩm
quyền, quy trình chấp thuận nội bộ và tỷ lệ thông qua quyết định, nghị quyết đối với
từng vấn đề của các loại hình doanh nghiệp.
Đầu tiên, đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, gồm mô hình công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên. Trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu,
với vai trò là chủ sở hữu duy nhất, tổ chức là chủ sở hữu có quyền sửa đổi, bổ sung
Điều lệ của công ty và bổ nhiệm Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty.30
Chính Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty – là cơ quan quản lý nội bộ do
29
Trƣơng Nhật Quang (2016), Pháp luật về doanh nghiệp – Các vấn đề pháp lý cơ bản, Nhà xuất bản Dân
Trí, tr. 240.
30
Luật Doanh nghiệp 2020, Điều 80, Điều 81, Điều 82 khoản 1.
15
- Xem thêm -