Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luật sư và tổ chức hành nghề luật sư ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Luật sư và tổ chức hành nghề luật sư ở việt nam hiện nay

.PDF
12
856
71

Mô tả:

Luật sư và tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay : Luận văn ThS. Luật: 60 38 01 Nguyễn Anh Minh ; Nghd. : PGS.TS. Nguyễn Văn Huyên 1. Tính cấp thiết của đề tài Thể chế hóa Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị "về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó nêu rõ: "Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối với thành viên của mình". Với mục đích phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, vững vàng về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với chất lượng dịch vụ pháp lý và hội nhập kinh tế quốc tế; kế thừa những quy định của Pháp lệnh Luật sư năm 2001, đồng thời khắc phục những hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động của luật sư, Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua Luật Luật sư ngày 29 tháng 6 năm 2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2007. Sau hơn ba năm thi hành luật sư và các văn bản hướng dẫn không những đáp ứng kịp thời nhu cầu giúp đỡ pháp lý ngày càng cao của cá nhân, tổ chức, góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác, phục vụ tích cực cho công cuộc cải cách tư pháp, mà còn góp phần tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi và tin cậy cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, cũng phải thấy rằng nhận thức về vị trí, vai trò của luật sư chưa thống nhất, hiệu quả hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư chưa cao; chất lượng đội ngũ luật sư chưa đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế; đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật hành nghề luật sư vẫn chưa được nhận thức đầy đủ, chưa trở thành ý thức tự giác đối với mỗi cá nhân luật sư trong hành nghề và trong cuộc sống... Mặc dù đã có một số bài viết và công trình nghiên cứu về luật sư nhưng các bài viết, công trình nghiên cứu chủ yếu bàn về địa vị pháp lý của người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự… chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về hoạt động hành nghề của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện về lý luận cũng như thực tiễn tổ chức và hoạt động của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư hiện nay trong bối cảnh nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển nền kinh tế thị trường ngày một hội nhập sâu, rộng trên thế giới, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, nên tác giả chọn đề tài: "Luật sư và tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài của luận văn cao học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm qua, có ít đề tài, sách chuyên khảo, bài viết trên tạp chí và các cuộc hội thảo khoa học về đội ngũ luật sư và pháp luật luật sư, chủ yếu chỉ tập trung vào tác giả Phan Trung Hoài, cụ thể: Luận án Tiến sĩ của Luật sư Phan Trung Hoài: "Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam hiện nay"; cuốn sách: "Hoàn thiện pháp luật về Luật sư ở Việt Nam"; Nguyễn Văn Bốn: "Một số vấn đề về quản lý luật sư theo Luật Luật sư", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 10, 2006 ... Tuy nhiên, việc nghiên cứu chuyên sâu về tổ chức và hoạt động của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư trong thực tiễn theo quy định của pháp luật hiện hành chưa có một công trình nghiên cứu nào mang tính hệ thống và toàn diện về vấn đề này. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề thực tiễn của việc thi hành luật luật sư, các văn bản hướng dẫn thi hành; trên cơ sở đó đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật vê luật sư, nâng cao chất lượng của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư cũng như nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về luật sư và tổ chức hành nghề luật sư. Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về luật sư và các văn bản hướng dẫn thi hành. - Nghiên cứu thực trạng về luật sư và tổ chức hành nghề luật sư qua đó đánh giá các mặt đạt và chưa đạt. - Đưa ra giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về luật sư, tổ chức hành nghề luật sư trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn là khái niệm luật sư, hoạt động hành nghề của luật sư, hình thức tổ chức và hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư theo các văn bản pháp luật hiện hành, luận văn không nghiên cứu địa vị pháp lý của luật sư; tư cách tố tụng của luật sư… Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Luật Luật sư, các văn bản pháp luật về luật sư, thực tiễn hoạt động của đội ngũ luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư ở trong nước. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luật của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật trong việc nghiên cứu và một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về luật sư và hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư. - Phương pháp so sánh để đối chiếu, so sánh với pháp luật của một số nước trên thế giới nhằm tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm. - Phương pháp tổng hợp để tổng hợp các vấn đề đã được nghiên cứu nhằm đưa ra những nhận định và kết luận. - Phương pháp thống kê để thống kê các số liệu trong thực tiễn hoạt động hành nghề của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư làm cơ sở cho việc đưa ra những nhận xét, kết luận và kiến nghị hoàn thiện các quy định về thể chế luật sư và hoạt động hành nghề luật sư. 6. Điểm mới của luận văn Việc nghiên cứu đề tài đạt được những điểm mới sau: - Luận văn làm rõ cơ sở quy định về luật sư và tổ chức hành nghề luật sư. - Trên cơ sở nghiên cứu của các quy định của pháp luật về luật sư, luận văn làm rõ các quy định của Luật Luật sư, thực trạng công tác quản lý luật sư, tổ chức hành nghề luật sư hiện nay, chỉ rõ các nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong quá trình áp dụng. - Luận văn đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về luật sư, phát triển đội ngũ luật sư, phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, nghề nghiệp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư. 7. Ý nghĩa khoa học - Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu về luật sư và tổ chức hành nghề luật sư. Do đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, học viên, sinh viên. - Luận văn đưa ra những đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện hệ thống pháp luật về luật sư. Do đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà lập pháp. - Với những kết quả và luận văn đưa ra, tác giả hy vọng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả về công tác tổ chức và hoạt động của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về luật sư và tổ chức hành nghề luật sư. Chương 2: quy định của pháp luật hiện hành về luật sư, tổ chức hành nghề luật sư và thực trạng Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng luật sư và tổ chức hành nghề luật sư. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT SƯ VÀ TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ 1.1. Luật sư và hoạt động hành nghề luật sư 1.1.1. Khái niệm về luật sư Quyền bào chữa của bị can, bị cáo đã có từ lâu. Quyền bào chữa xuất hiện sớm nhất ở Châu Âu cùng với sự xuất hiện của Toà án và người biện hộ xuất hiện cùng thẩm phán. Ở Việt Nam, ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 về tổ chức các đoàn thể luật sư. Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987 quy định những người là công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất, đạo đức tốt; tốt nghiệp đại học pháp lý hoặc có trình độ pháp lý tương đương; gia nhập Đoàn Luật sư và phải qua một thời gian tập sự từ sáu tháng đến hai năm và phải qua một kỳ kiểm tra mới được công nhận là luật sư. Thay thế Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987, tại khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh Luật sư năm 2001 quy định: "Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp lệnh này và tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của các cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật". Đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện về kinh tế - xã hội, Luật Luật sư năm 2006 ra đời và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2007. Tại Điều 2 Luật Luật sư quy định: "Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng)". Tiêu chuẩn để có thể trở thành luật sư người đó phải là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư. Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, theo tác giả khái niệm về luật sư được hiểu như sau: Luật sư là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư, đã được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn Luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức. 1.1.2. Hoạt động hành nghề của luật sư - Trước hết phải thể hiện ở việc tuân thủ pháp luật, dựa vào pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích cho cá nhân, cơ quan, tổ chức bảo đảm sự thật khách quan và công lý. - Thể hiện ở uy tín nghề nghiệp, đây là thuộc tính quan trọng thể hiện bản chất của hoạt động hành nghề luật sư. - Mang đến cho xã hội nói chung và tố tụng tư pháp nói riêng những giá trị của dân chủ. - Thể hiện ở tính độc lập, tính độc lập là điều kiện tất yếu cho hoạt động hành nghề luật sư. Là nhân tố quan trọng hỗ trợ các quan hệ kinh tế thị trường phát triển, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch, lành mạnh theo đúng pháp luật và không thể tách rời hoạt động hành nghề của luật sư với các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Luật sư hành nghề không chỉ quan tâm đến thù lao của khách hàng và những lợi ích vật chất, tinh thần, mà còn phải quan tâm đến yếu tố phi vật chất, phi dịch vụ như trong hoạt động Trợ giúp pháp lý miễn phí, bào chữa theo chỉ định của cơ quan tiến hành tố tụng… 1.2. Hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư 1.2.1. Hình thức của tổ chức hành nghề luật sư Pháp lệnh Tổ chức luật sư đầu tiên của nước ta ra đời năm 1987 đã không phân biệt tổ chức và hoạt động của hội nghề nghiệp luật sư với tổ chức hành nghề luật sư. Đến Pháp lệnh Luật sư năm 2001 quy định hai hình thức tổ chức hành nghề luật sư gồm văn phòng luật sư và công ty luật hợp danh. Luật Luật sư năm 2006 mở rộng hình thức của tổ chức hành nghề luật sư bao gồm: Văn phòng luật sư, công ty luật trách nhiệm hữu hạn và công ty luật hợp danh. 1.2.2. Hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư Với đặc thù nghề luật sư là một nghề độc lập, hoạt động ít chịu sự tác động của yếu tố quản lý như các hoạt động kinh doanh khác. Do đó loại hình kinh doanh doanh nghiệp tư nhân rất phù hợp với mô hình hoạt động của văn phòng luật sư đơn giản, gọn nhẹ. Đặc trưng của nghề luật sư đó là yếu tố uy tín cá nhân, trong điều kiện cạnh tranh hiện nay thì yếu tố cá nhân là bộ phận cấu thành nên uy tín của tổ chức hành nghề luật sư, còn yếu tố vốn không phải là yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh dịch vụ pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư nên hình thức công ty luật hợp danh rất phù hợp với tổ chức hành nghề luật sư. Chế độ trách nhiệm vô hạn của công ty luật hợp danh là sự đảm bảo, tạo tâm lý an toàn cho khách hàng khi có nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý. Mô hình công ty luật trách nhiệm hữu hạn là điểm mới được quy định trong Luật Luật sư. Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình công ty đối vốn, trong đó các thành viên chỉ chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn mà họ đã đóng góp vào công ty. Khách hàng được đảm bảo bằng quy định công ty luật phải có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho luật sư của mình để bồi thường thiệt hại gây ra cho khách hàng. Với đặc điểm này thì loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn phù hợp trong hoạt động kinh doanh của luật sư. Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ LUẬT SƯ, TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VÀ THỰC TRẠNG 2.1. Quy định của pháp luật về luật sư Người có đủ tiêu chuẩn luật sư muốn được hành nghề luật sư phải đáp ứng đủ hai điều kiện: Một là, phải được Bộ Tư pháp cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư. Hai là, gia nhập một Đoàn Luật sư do mình lựa chọn. Sau khi tốt nghiệp khoá đào tạo nghề luật sư 06 tháng và hoàn thành thời gian tập sự hành nghề luật sư là 18 tháng được tham gia kỳ kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư. Người đạt yêu cầu kiểm tra được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, để được hành nghề luật sư thì phải gia nhập Đoàn Luật sư và được Liên đoàn Luật sư cấp thẻ Luật sư. Đối với một số trường hợp người có học hàm, học vị cao hoặc đã đảm nhiệm một số chức danh tư pháp nhất định thì được miễn đào tạo nghề luật sư, được miễn, giảm thời gian tập sự hành nghề luật sư. Luật sư hành nghề dựa trên nguyên tắc tuân thủ hiến pháp và pháp luật; tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư. Đồng thời phải độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan; được sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động hành nghề luật sư. Phạm vi hành nghề luật sư bao gồm: Tham gia tố tụng; thực hiện tư vấn pháp luật; đại diện ngoài tố tụng và thực hiện dịch vụ pháp lý. 2.2. Thực trạng về đội ngũ luật sư Sau hơn ba năm thi hành Luật Luật sư, đội ngũ luật sư của nước ta đã có sự phát triển một cách đột biến về số lượng, chất lượng đang từng bước được nâng cao; so với trước khi Pháp lệnh Luật sư năm 2001 có hiệu lực hiện nay số luật sư đã tăng gần bốn lần. Tuy nhiên, so với các nước trên thế giới thì tỉ lệ luật sư so với số dân cả nước vẫn còn thấp. Sự phân bố luật sư giữa các vùng miền có sự chênh lệch lớn, chỉ riêng ở thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh chiếm hơn 50% tổng số luật sư trong cả nước, trong khi đó tỉnh Lai Châu thì lại không có đủ số luật sư để thành lập Đoàn Luật sư. Bên cạnh những những thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng nhận thấy chất lượng của đội ngũ luật sư hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế: vẫn còn khoảng một phần ba chưa được đào tạo cơ bản về kỹ năng hành nghề. Khi hành nghề còn không ít luật sư tỏ ra non kém về kỹ năng, vi phạm những quy tắc ứng xử thông thường nhất của nghề luật sư. Kinh nghiệm nghề nghiệp dưới 5 năm chiếm khoảng 2/3 tổng số luật sư toàn quốc. Hoạt động tham gia tranh tụng của luật sư vẫn còn những trở ngại, hạn chế bắt nguồn từ các quy định của pháp luật, từ các cơ quan tố tụng và bản thân trình độ nghiệp vụ của luật sư. Về hoạt động tư vấn pháp luật: Ngoài việc nâng cao chất lượng tư vấn trong các lĩnh vực truyền thống, các luật sư đã mở rộng và phát triển tư vấn trong lĩnh vực kinh tế, đầu tư, thương mại. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Về hoạt động đại diện ngoài tố tụng và dịch vụ pháp lý khác đang có chiều hướng phát triển phổ biến hiện nay là giúp cá nhân, tổ chức thực hiện các thủ tục pháp lý như thủ tục thành lập doanh nghiệp, chuyển nhượng bất động sản, xuất nhập cảnh v.v…. Số lượng luật sư tham gia trợ giúp pháp lý vẫn còn ít so với nhu cầu của toàn xã hội. Về đạo đức nghề nghiệp của luật sư: vẫn còn một bộ phận luật sư sa sút về phẩm chất đã lợi dụng danh nghĩa luật sư để vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội và an ninh quốc gia. 2.3. Quy định của pháp luật về tổ chức hành nghề luật sư Tổ chức hành nghề luật sư ở nước ta bao gồm: Văn phòng luật sư, công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và công ty luật hợp danh. Các tổ chức hành nghề luật sư được thực hiện các dịch vụ pháp lý: Tham gia tố tụng; thực hiện tư vấn pháp luật; đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật và thực hiện dịch vụ pháp lý khác. Tổ chức hành nghề luật sư có các quyền: Thực hiện dịch vụ pháp lý; nhận thù lao từ khách hàng; thuê luật sư Việt Nam, luật sư nước ngoài và nhân viên làm việc cho tổ chức hành nghề luật sư; hợp tác với tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, đặt cơ sở hành nghề ở nước ngoài; thành lập chi nhánh, văn phòng giao dịch trong nước và các quyền khác theo quy định của Luật Luật sư và quy định khác của pháp luật có liên quan Tổ chức hành nghề luật sư có các nghĩa vụ: Hoạt động theo đúng lĩnh vực hành nghề ghi trong Giấy đăng ký hoạt động; thực hiện đúng những nội dung đã giao kết với khách hàng; cử luật sư của tổ chức mình tham gia tố tụng theo sự phân công của Đoàn Luật sư; tạo điều kiện cho luật sư của tổ chức mình thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí; bồi thường thiệt hại do lỗi mà luật sư của tổ chức mình gây ra cho khách hàng trong khi thực hiện tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng, dịch vụ pháp lý khác; mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho luật sư của tổ chức mình theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm; chấp hành các yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc báo cáo, kiểm tra, thanh tra và các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật Luật sư và quy định khác của pháp luật có liên quan. 2.4. Thực trạng về tổ chức hành nghề luật sư Tính đến ngày 31/12/2009 trong cả nước đã có 2.461 tổ chức hành nghề luật sư, tập trung chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh và Thủ đô Hà Nội với tổng số 1.087 tổ chức. Hoạt động của đa số các tổ chức hành nghề luật sư đã thể hiện vai trò tích cực trong việc nâng cao ý thức pháp luật cho người dân, cơ quan và tổ chức góp phần cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Một số ít tổ chức hành nghề luật sư chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài, còn lại là các văn phòng luật sư hoạt động trong tất cả các lĩnh vực hành nghề luật sư, mà lĩnh vực chủ yếu là tham gia tố tụng. Về cơ sở vật chất của các tổ chức hành nghề luật sư chủ yếu được đặt trụ sở ở nhà riêng. Số tổ chức hành nghề luật sư có trụ sở tại các toà nhà văn phòng chỉ chiếm khoảng 16%. Về quy mô của tổ chức hành nghề luật sư hiện nay số lượng tổ chức hành nghề luật sư dưới mười luật sư vẫn chiếm chủ yếu (77,7%). Phương pháp quản lý điều hành ở một số tổ chức hành nghề luật sư khá bài bản và chặt chẽ. Tuy nhiên, vẫn còn có các tổ chức hành nghề luật sư quản lý công việc và con người một cách tuỳ tiện, lỏng lẻo. Số lượng khách hàng của các tổ chức hành nghề luật sư trong những năm gần đây tăng lên với tốc độ rất nhanh và ngày càng phong phú. Trong quá trình hoạt động phần lớn các tổ chức hành nghề luật sư chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về luật sư nói riêng. Bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận các tổ chức hành nghề luật sư vi phạm như: hoạt động không đúng trụ sở đã đăng ký, chế độ báo cáo thực hiện không đầy đủ, hợp đồng dịch vụ pháp lý không đúng quy định… 2.5. Quy định của pháp luật về quản lý luật sư, tổ chức hành nghề luật sư 2.5.1. Quản lý nhà nước Quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư thể hiện chức năng định hướng, điều tiết và hỗ trợ phát triển của Nhà nước đối với nghề luật sư. Nội dung quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư thể hiện ở các công việc: quyết định chiến lược, chính sách phát triển nghề luật sư; thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển nghề luật sư; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về luật sư; đào tạo nghề luật sư; cấp, thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư, Giấy đăng ký hoạt động, Giấy phép hành nghề; phê duyệt Điều lệ của Đoàn Luật sư, Tổ chức luật sư toàn quốc; kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư. 2.5.2. Quản lý của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư a. Quản lý của tổ chức luật sư toàn quốc Tổ chức luật sư toàn quốc (Liên đoàn Luật sư) là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư trong phạm vi cả nước, đại diện cho luật sư, các Đoàn Luật sư. Thành viên của Liên đoàn Luật sư là các Đoàn Luật sư và các luật sư, các luật sư tham gia Liên đoàn luật sư thông qua Đoàn Luật sư nơi mình gia nhập. Liên đoàn luật sư còn là nơi tập hợp, pháp ánh tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đóng góp, kiến nghị của luật sư; tham gia xây dựng pháp luật, nghiên cứu khoa học pháp lý, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; hợp tác quốc tế và giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền. b. Tự quản của Đoàn Luật sư Đoàn Luật sư đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư; một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đoàn Luật sư với tư cách là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, là đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư trong hành nghề, là nơi tập hợp và củng cố khối đoàn kết giữa các luật sư, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của luật sư, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của luật sư trong trường hợp bị xâm phạm. 2.6. Thực trạng về quản lý luật sư, tổ chức hành nghề luật sư 2.6.1. Quản lý nhà nước Sau khi Luật Luật sư có hiệu lực, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã kịp thời ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Luật sư. Công tác đào tạo nghề luật sư, bồi dưỡng nghiệp vụ cho luật sư đã được quan tâm và bước đầu thực hiện đã có hiệu quả tốt. Bộ Tư pháp đã có chính sách ưu tiên đào tạo nghề luật sư miễn phí cho các tỉnh khó khăn và đã tổ chức nhiều khoá, lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho hàng trăm luật sư về kỹ năng hành nghề v.v… Nhìn chung, các Sở Tư pháp đã thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước của mình như: cấp đăng ký hoạt động cho các tổ chức hành nghề luật sư, công tác thanh tra, kiểm tra các tổ chức hành nghề luật sư và thực hiện tốt nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước về hành nghề luật sư với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở một số địa phương còn hạn chế; công tác thanh tra, kiểm tra chưa được thường xuyên. 2.6.2. Công tác quản lý của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư a. Công tác quản lý của Liên đoàn Luật sư Việt Nam Liên đoàn Luật sư Việt Nam mặc dù mới được thành lập, còn nhiều khó khăn nhưng Liên đoàn đang từng bước ổn định về tổ chức, cơ cấu bộ máy và bước đầu triển khai thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong công tác như: công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp của luật sư; công tác đào tạo, bồi dưỡng; công tác giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư và một số công tác khác, qua đó nâng cao, phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. b. Quản lý của Đoàn Luật sư Trong thời gian qua, nhìn chung các Đoàn Luật sư đã phát huy tốt vai trò của mình như: đa số Đoàn Luật sư đã thực hiện tốt công tác giám sát, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật, tuân theo Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư và Điều lệ Đoàn Luật sư của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; kịp thời nhắc nhở, uốn nắn và có biện pháp xử lý nghiêm minh các trường hợp luật sư vi phạm Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư và Điều lệ Đoàn Luật sư, đặc biệt là vi phạm pháp luật. Nhiều Đoàn Luật sư đã phối hợp chặt chẽ với Sở Tư pháp, các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan quản lý nhà nước khác ở địa phương. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động một số Đoàn Luật sư còn bộc lộ một số hạn chế đó là: + Việc nắm bắt, tập hợp và phản ánh những bức xúc, khó khăn, vướng mắc của luật sư vẫn chưa được quan tâm đúng mức. + Công tác giáo dục, bồi dưỡng về chính trị, đạo đức nghề nghiệp cho luật sư chưa được các Đoàn Luật sư quan tâm. Việc phát hiện xử lý vi phạm chưa kịp thời, chưa nghiêm minh; + Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho các luật sư chưa được thực hiện thường xuyên, đạt hiệu quả không cao; Chưa có quan niệm đúng đắn về vai trò tự quản của tổ chức hành nghề luật sư và về quản lý nhà nước đối với hành nghề luật sư; Việc giám sát hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư chưa được quan tâm đúng mức hoặc chưa quan tâm và chưa được thực hiện tốt. 2.7. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập 2.7.1. Công tác đào tạo đội ngũ luật sư Số lượng cửa nhân luật ra trường lựa chọn nghề luật sư chiếm tỷ lệ nhỏ. Thời gian và nội dung đào tạo nghề luật sư hiện nay là chưa phù hợp. Việc cập nhật các kiến thức mới của đội ngũ luật sư chưa được thực hiện thường xuyên. Những nguyên tắc ứng xử nghề nghiệp, chưa trở thành ý thức tự giác đối với mỗi cá nhân luật sư khi tham gia tố tụng. Ngoài ra, một số luật sư chỉ quan tâm đến thù lao mà coi nhẹ chất lượng hành nghề. Chất lượng và nội dung trong quá trình tập sự của người tập sự hành nghề luật sư chưa cao và không phù hợp. 2.7.2. Quy định của pháp luật hiện hành về luật sư, tổ chức hành nghề luật sư còn nhiều bất cập Nội dung công tác quản lý nhà nước được Luật Luật sư quy định còn mang tính chất dàn trải, nhiều quy định còn rất chung chung, chưa thể hiện sự phân cấp mạnh mẽ. Việc ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật về hành nghề luật sư và một số lĩnh vực có liên quan đến hành nghề luật sư còn chậm. 2.7.3. Cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư quản lý chưa chặt chẽ Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Tư pháp chưa quan tâm đúng mức trong công tác quản lý đội ngũ luật sư ở địa phương mình. Sự phối hợp giữa Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc quản lý nhà nước về hành nghề luật sư còn hạn chế. Công tác kiểm tra, thanh tra đối với luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư chưa được thực hiện thường xuyên, kịp thời và hiệu quả chưa cao. Việc giám sát người tập sự hành nghề luật sư của các Đoàn Luật sư, tổ chức hành nghề luật sư nhận người tập sự chưa được quan tâm đúng mức và chưa được thực hiện có hiệu quả. Sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước với đoàn luật sư ở một số địa phương đôi lúc chưa được tốt. Nhận thức của các cơ quan tố tụng, đặc biệt là Toà án và Viện kiểm sát về vị trí, vai trò của luật sư chưa đầy đủ. 2.7.4. Việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật hành nghề của luật sư chưa nghiêm Vẫn còn một bộ phận luật sư quá coi trọng lợi ích vật chất dẫn đến vi phạm các quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư, vi phạm pháp luật nghiêm trọng; một số luật sư có thái độ ứng xử nghề nghiệp không đúng mực với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và luật sư đồng nghiệp. Một số luật sư lại lợi dụng sự hiểu biết pháp luật của mình để vi phạm pháp luật, lợi dụng danh nghĩa luật sư để gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội và an ninh quốc gia hoặc lợi dụng uy tín nghề nghiệp và tiếng nói của mình trên các diễn đàn hành nghề để chỉ trích Đảng, Nhà nước, lưu hành tài liệu có nội dung xuyên tạc nhằm đả kích chính quyền. 2.7.5. Nguyên nhân khác Nghề luật sư ở nước ta hiện nay chưa thực sự có sức hấp dẫn, thu nhập của nhiều luật sư chưa đủ để bảo đảm cuộc sống. Mặt khác, nhận thức của người dân, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp về vị trí, vai trò của luật sư chưa đầy đủ, chưa toàn diện cũng là một trong những yếu tố tác động đến sự phát triển về số lượng luật sư. Do nhu cầu của xã hội, nhận thức của người dân, cùng với việc tự do lựa chọn nơi hành nghề trong phạm vi toàn quốc, điều này đã dẫn đến thực tế sự cách biệt lớn về số lượng luật sư giữa các vùng miền. Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LUẬT SƯ VÀ TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ 3.1. Phương hướng nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư và tổ chức hành nghề luật sư tại địa phương Đổi mới, phát triển tổ chức và hoạt động luật sư phải được đặt trong bối cảnh cải cách tư pháp nói riêng và trong tổng thể cách cách bộ máy nhà nước nói chung, phải gắn với mục tiêu và những định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, vững vàng về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và nhu cầu của xã hội. Phát triển các tổ chức hành nghề luật sư theo hướng hình thành các công ty luật có số lượng lớn luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý chuyên sâu trong từng lĩnh vực, có quy mô tổ chức ngang tầm với các tổ chức hành nghề luật sư trong khu vực. Tạo cơ chế có hiệu quả để luật sư có thể tham gia nhiều hơn vào các giao dịch thương mại trong nước và quốc tế. Hình thành và phát triển mạng lưới các tổ chức tư vấn pháp luật mang tính chất xã hội để phục vụ kịp thời và đầy đủ nhu cầu hiểu biết, sử dụng pháp luật trong công việc và quan hệ đời sống của cơ quan, tổ chức và mỗi người dân, góp phần nâng cao ý thức pháp luật trong xã hội. Nâng cao nhận thức của cơ quan, tổ chức và của mỗi người dân về vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội, góp phần tăng tính hấp dẫn của nghề luật sư, thu hút ngày càng đông đội ngũ cử nhân luật mới ra trường tham gia hành nghề luật sư. 3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư và tổ chức hành nghề luật sư tại địa phương a. Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư Nâng cao nhận thức của cơ quan, tổ chức và của mỗi người dân về vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội, góp phần tăng tính hấp dẫn của nghề luật sư. Công tác đào tạo định hướng nghề nghiệp luật sư cần được thực hiện trong chương trình đào tạo cử nhân luật để sinh viên có kiến thức về nghề luật sư, từ đó hình thành sự quan tâm và nguyện vọng trở thành luật sư; Luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, Đoàn Luật sư, Liên đoàn Luật sư Việt Nam phải xây dựng và duy trì uy tín, danh dự nghề nghiệp; cơ chế pháp lý bảo đảm quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hành nghề phải được thực hiện nghiêm chỉnh để người dân và xã hội thực sự tin tưởng vào vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội. Tiếp tục phát triển thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam, kích thích nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của luật sư từ phía các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Hình thành và phát triển thị trường dịch vụ pháp lý chất lượng cao phục vụ nhu cầu tư vấn pháp luật và giải quyết tranh chấp thương mại của doanh nghiệp, đặc biệt là trong giao dịch thương mại quốc tế Cải tiến nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo nghề luật sư, đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên. Nâng cao chất lượng tập sự hành nghề luật sư: Liên đoàn Luật sư Việt Nam khẩn trương phối hợp với Bộ Tư pháp ban hành Quy chế tập sự hành nghề luật sư; Tăng cường trách nhiệm của Đoàn Luật sư trong việc giám sát người tập sự hành nghề luật sư, luật sư hướng dẫn, tổ chức hành nghề luật sư trong việc tuân theo quy chế tập sự hành nghề luật sư. Tạo điều kiện thuận lợi để người tập sự hành nghề luật sư được trực tiếp tham gia hoạt động nghề nghiệp, nâng cao kỹ năng hành nghề. Xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch phát triển và sử dụng đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế: Cần xây dựng chương trình chuyên biệt để đào tạo luật sư chuyên về hội nhập. Thành lập thí điểm cơ sở liên doanh, liên kết với cơ sở đào tạo luật sư nước ngoài để đào tạo luật sư chuyên sâu về hội nhập kinh tế quốc tế. Tuyển chọn và gửi một số luật sư đáp ứng điều kiện về chuyên môn và khả năng ngoại ngữ đi đạo tạo ở nước ngoài. Các luật sư được đào tạo ở nước ngoài sẽ là nòng cốt để phát triển đội ngũ luật sư phục vụ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. b. Tăng cường trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư trong hành nghề; xây dựng đội ngũ luật sư có bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp Liên đoàn Luật sư Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng và ban hành Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư. Tổ chức phổ biến, tuyên truyền và bồi dưỡng về quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp cho luật sư để mỗi luật sư, tổ chức hành nghề luật sư. Đoàn Luật sư xây dựng quy chế giám sát việc tuân thủ pháp luật, tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp đối với luật sư, tổ chức hành nghề luật sư. Tiếp tục thành lập các tổ chức đảng trong các Đoàn Luật sư nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động luật sư. c. Đảm bảo luật sư thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình trong hoạt động tố tụng Nâng cao nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng về vị trí, vai trò của luật sư trong quá trình giải quyết vụ án. Đồng thời xây dựng cơ chế thường xuyên giám sát, kiểm tra việc thi hành những quy định của pháp luật tố tụng liên quan đến quyền của luật sư trong hoạt động tố tụng; xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm quyền của luật sư trong hoạt động hành nghề. Đoàn Luật sư và các cơ quan tiến hành tố tụng xây dựng cơ chế phối hợp thường xuyên để kịp thời giải quyết những đề xuất, kiến nghị của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng. d. Củng cố và nâng cao vai trò của tổ chức xã hội - nghề nghiệp Cần sớm thành lập Đoàn Luật sư ở tỉnh Lai Châu; củng cố các Đoàn Luật sư và kiện toàn các cơ quan của Đoàn Luật sư theo quy định của Luật Luật sư và Điều lệ của Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Đoàn Luật sư cần tăng cường kiểm tra, giám sát các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; chủ động phối hợp với Sở Tư pháp trong việc kiểm tra, giám sát các tổ chức hành nghề luật sư, hoạt động hành nghề luật sư; kịp thời nắm bắt những vướng mắc, nguyện vọng của các luật sư để phản ánh, kiến nghị với Liên đoàn Luật sư, các cơ quan Đảng và chính quyền địa phương. Liên đoàn luật sư Việt Nam tiếp tục xây dựng, kiện toàn về tổ chức và hoạt động để thật sự vững mạnh, thống nhất, có bộ máy tinh gọn, làm việc có hiệu quả nhằm đảm bảo thực hiện tốt tôn chỉ, mục đích và những nhiệm vụ quyền hạn của Liên đoàn Luật sư; Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị và đào đức nghề nghiệp cho luật sư; Xây dựng cơ chế hiệu quả bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư, các Đoàn Luật sư; Tăng cường mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan quản lý nhà nước về hành nghề luật sư, thực hiện có hiệu quả nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước về hành nghề luật sư với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Đề xuất, phối hợp với nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền để có cơ chế bổ nhiệm thẩm phán từ nguồn là các luật sư. đ. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục chỉ đạo các Sở Tư pháp, Đoàn Luật sư trong việc tăng cường công tác quản lý luật sư và hành nghề luật sư tại địa phương, có biện pháp hỗ trợ các luật sư và Đoàn Luật sư trong hoạt động tự quản và trong việc nâng cao chất lượng hành nghề. Tại mỗi địa phương, Sở Tư pháp chủ động phối hợp với Đoàn Luật sư xây dựng đề án tăng cường quản lý luật sư, tổ chức hành nghề luật sư tại địa phương theo quy định của Luật Luật sư và trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt. Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư; tăng cường quản lý đối với hoạt động hợp tác quốc tế về luật sư, mở rộng hợp tác quốc tế với các tổ chức luật sư trên thế giới phù hợp với mục tiêu phát triển của đất nước nói chung, của nghề luật sư nói riêng. e. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư Sửa đổi Luật Luật sư theo đó quy định về thời gian đào tạo nghề luật sư là 01 năm trong đó kéo dài đào tạo về kỹ năng hành nghề và kinh nghiệm thực tiễn; mở rộng phạm vi hoạt động của người tập sự hành nghề luật sư. Chính phủ ban hành nghị định quy định về công tác quản lý đối với tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư nhằm tạo điều kiện cho công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư, đồng thời có căn cứ pháp lý để xử lý vi phạm pháp luật đối với tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư. Ban hành thông tư liên tịch giữa Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Công an hướng dẫn việc tham gia tố tụng của luật sư theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Luật sư. Bộ Tư pháp ban hành thông tư hướng dẫn đối với một số trường hợp trong Luật Luật sư và các nghị định hướng dẫn thi hành; sửa đổi, bổ sung Thông tư 02/2007/TT-BTP ngày 25/4/2007. Bộ Tư pháp xây dựng Chương trình đào tạo luật sư chuyên sâu về hội nhập kinh tế quốc tế, Đề án thành lập thí điểm cơ sở đào tạo luật sư hội nhập kinh tế quốc tế liên doanh, liên kết với nước ngoài, Đề án về xã hội hoá các cơ sở đào tạo nghề luật sư. h. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển nghề luật sư Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần quan tâm, tạo điều kiện hơn nữa để đảm bảo kinh phí hoạt động và trụ sở ổn định, lâu dài cho Đoàn Luật sư. Hàng năm, Bộ Tư pháp có trách nhiệm lập dự toán ngân sách hỗ trợ cho việc bồi dưỡng luật sư, đào tạo nghề luật sư và hoạt động của Đoàn Luật sư các tỉnh đặc biệt khó khăn. Mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế về luật sư và hành nghề luật sư; tích cực huy động các nguồn tài trợ trong nước và quốc tế để phát triển số lượng luật sư, nâng cao năng lực của đội ngũ luật sư Việt Nam. KẾT LUẬN Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ, phát triển nền kinh tế hội nhập sâu, rộng trên thế giới, đẩy mạnh cải cách tư pháp thì vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội ngày càng được nâng cao. Những đòi hỏi trên đặt ra yêu cầu phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, vững vàng về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp. Trong kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đã chỉ đạo khẩn trương đào tạo và phát triển đội ngũ luật sư cả về số lượng và chất lượng, phấn đấu đến năm 2020 cả nước có 18.000 - 20.000 luật sư. Đây là quyết tâm chính trị rất cao của Đảng, Nhà nước và sự nỗ lực của cả giới luật sư và toàn xã hội. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo nhiều cơ hội cho luật sư phát triển quan hệ hợp tác, giao lưu với các đối tác nước ngoài. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhất là của doanh nghiệp cũng gia tăng nhanh chóng; số lượng vụ việc, khách hàng của luật sư sẽ nhiều hơn, đa dạng hơn; phạm vi hoạt động hành nghề của luật sư ngày càng được mở rộng. Bên cạnh đó, yêu cầu của xã hội về chất lượng dịch vụ, trách nhiệm pháp lý, kỷ luật hành nghề đối với luật sư ngày càng cao; với việc thực hiện cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), sự cạnh tranh trên thị trường dịch vụ pháp lý trong nước và quốc tế ngày càng gay gắt. Những năm gần đây đội ngũ luật sư ở nước ta đã có sự phát triển về cả số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, cũng phải thấy rằng trong tổ chức và hoạt động hành nghề của luật sư hiện này vẫn còn một số hạn chế sau: Thứ nhất, số lượng luật sư hiện có còn quá thấp so với dân số của nước, sự phát triển chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, đặc biệt là thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh gây ra sự mất cân đối lớn về số lượng luật sư giữa các vùng, miền. Thứ hai, chất lượng luật sư chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ ba, việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật hành nghề luật sư vẫn chưa được nhận thức một cách đầy đủ, chưa trở thành ý thức tự giác đối với mỗi cá nhân luật sư trong hành nghề và trong cuộc sống. Thứ tư, nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư còn chưa được thực hiện tốt. Thứ năm, các cơ quan nhà nước, tổ chức, cộng đồng doanh nghiệp và xã hội còn chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của luật sư, làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển số lượng luật sư và hiệu quả của hoạt động hành nghề luật sư. Trong thời gian tới, đội ngũ luật sư ở nước ta ngày càng đông đảo, lĩnh vực và phạm vi hành nghề tác động đến tất cả các quan hệ trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Tính chất hành nghề luật sư vì thế cũng ngày càng trở nên phức tạp, đòi hỏi sớm khắc phục những bất cập, hạn chế yếu kém về tổ chức và hoạt động luật sư. Đồng thời, để đáp ứng nhu cầu của xã hội, yêu cầu xây dựng Nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội, định hướng phát triển đối với tổ chức và hoạt động của luật sư phục vụ thời kỳ mới của đất nước. Để thực hiện những mục tiêu trên, chúng ta phải thực hiện một số nhiệm vụ sau: Một là, xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, vững vàng về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và nhu cầu của xã hội. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng luật sư theo hướng cải tiến nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức và ứng xử nghề nghiệp và lý luận chính trị để nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư. Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư, xây dựng cơ chế bảo đảm cho luật sư thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật. Ba là, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư, chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra để bảo đảm hoạt động luật sư thực hiện đúng đường lối, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư, tăng cường quản lý đối với hoạt động hợp tác quốc tế về luật sư, mở rộng hợp tác quốc tế với các tổ chức luật sư trên thế giới phù hợp với mục tiêu phát triển của đất nước nói chung, của nghề luật sư nói riêng. Bốn là, đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư. Nâng cao chất lượng, phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng trong tổ chức xã hội - nghề nghiệp và tổ chức hành nghề của luật sư. Tăng cường công tác bồi dưỡng, phát triển Đảng, nhất là đối với đội ngũ luật sư trẻ, phát huy tinh thần gương mẫu của luật sư là đảng viên trong hoạt động nghề nghiệp và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan