Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Mối quan hệ giữa thông tin phi tài chính trên báo cáo thường niên và kết quả hoạ...

Tài liệu Mối quan hệ giữa thông tin phi tài chính trên báo cáo thường niên và kết quả hoạt động theo kế toán, giá thị trường của các công ty niêm yết việt nam

.PDF
92
349
117

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN TÊN CÔNG TRÌNH: MỐI QUAN HỆ GIỮA THÔNG TIN PHI TÀI CHÍNH TRÊN BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN VÀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG THEO KẾ TOÁN, GIÁ THỊ TRƯỜNG CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT VIỆT NAM THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2014 LỜI CAM ĐOAN Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả dưới sự cố vấn của người hướng dẫn khoa học. Đây là đề tài dự thi giải thưởng nghiên cứu khoa học sinh viên, thuộc nhóm ngành kế toán. Các số liệu và kết quả nêu trong đề tài là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ một công trình nào. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 31tháng 03 năm 2014 Tác giả MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT PHẦN MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài ................................................................................................. I 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ................................................................................... I 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................................................ II 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài .......................................................................... II 5. Ý nghĩa của đề tài ......................................................................................................... II 6. Kết cấu của đề tài ....................................................................................................... III CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1. Đo lường thành quả hoạt động bằng thước đo tài chính và thước đo phi tài chính .............................................................................................................. 1 1.1.1. Thước đo tài chính ............................................................................................ 2 1.1.1.1. Đặc điểm .............................................................................................. 2 1.1.1.2. Ưu điểm và nhược điểm .....................................................................3 1.1.2. Thước đo phi tài chính ...................................................................................... 5 1.1.2.1. Đặc điểm .............................................................................................. 5 1.1.2.2. Ưu điểm và nhược điểm .....................................................................7 1.1.3. Thông tin phi tài chính và vấn đề đánh giá hoạt động ................................. 11 1.2. Công bố thông tin phi tài chính về thành quả hoạt động....................................... 13 1.2.1. Mối quan hệ giữa lý thuyết thông tin bất cân xứng và việc công bố thông tin phi tài chính..................................................................................... 13 1.2.2. Vấn đề công bố thông tin phi tài chính về thành quả hoạt động................. 15 1.2.2.1. Trên thế giới ...................................................................................... 15 1.2.2.2. Tại Việt Nam .....................................................................................19 1.3. Mối quan hệ giữa công bố thông tin phi tài chính và kết quả hoạt động trên cơ sở kế toán. ............................................................................................19 1.4. Mối quan hệ giữa công bố thông tin phi tài chính và giá thị trường của doanh nghiệp ....................................................................................................... 20 Tóm tắt chương 1 .................................................................................................... 22 CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Xây dựng giả thuyết nghiên cứu .............................................................................. 23 2.2. Tổng quan quy trình nghiên cứu .............................................................................. 25 2.2.1. Phân loại các thước đo phi tài chính ........................................................... 25 2.2.2. Mô hình ước lượng ....................................................................................... 28 2.2.3. Phương pháp hồi quy .................................................................................... 29 2.3. Thu thập dữ liệu và đo lường các biến số trong giả thuyết nghiên cứu ............. 30 Tóm tắt chương 2 .................................................................................................... 38 CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU – BẰNG CHỨNG TỪ CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM 3.1. Kết quả thống kê mô tả đặc điểm của mẫu nghiên cứu .............................................. 39 3.2. Kiểm định vi phạm các giả thuyết của mô hình hồi quy ............................................ 40 3.2.1. Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi..................................................... 40 3.2.2. Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến .......................................................... 41 3.2.3. Kiểm định hiện tượng tự tương quan. ......................................................... 43 3.3. Kết quả phân tích hồi quy ........................................................................................... 44 3.4. So sánh kết quả công bố thông tin phi tài chính giữa các phương diện quản lý và giữa các ngành ........................................................................................................ 50 Tóm tắt chương 3 .................................................................................................... 53 CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHO NHÀ QUẢN TRỊ 4.1. Kết luận ...................................................................................................................... 54 4.2. Hàm ý cho nhà quản trị ............................................................................................ 55 4.3. Hạn chế của đề tài ..................................................................................................... 61 4.4. Các hướng nghiên cứu tiếp theo .............................................................................. 61 Tóm tắt chương 4 .................................................................................................... 63 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... i PHỤ LỤC 1: ................................................................................................... v PHỤ LỤC 2: .................................................................................................. vi PHỤ LỤC 3: ................................................................................................ viii PHỤ LỤC 4: ................................................................................................ xii DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH BẢNG Bảng 1.1: Yêu cầu công bố thông tin CSR tại một số quốc gia trên thế giới ...... Bảng 2.1: Bảng tổng hợp kỳ vọng giả thuyết về tương quan giữa các biến độc 18 lập và biến phụ thuộc......................................................................... 37 Bảng 3.1: Bảng thống kê mô tả các biến ............................................................ 39 Bảng 3.2: Ma trận hệ số tương quan giữa các biến độc lập ................................ 42 Bảng 3.3: Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến ................................................. 43 Bảng 3.4: Kết quả hồi quy – Biến phụ thuộc: ROE, ROA .................................. 46 Bảng 3.5: Kết quả hồi quy – Biến phụ thuộc P/E ............................................... 48 Bảng 3.5: Mức độ công bố thông tin phi tài chính trung bình theo từng ngành và theo từng phương diện quản lý ........................................................ 51 HÌNH: Hình 1.1: Nguồn thông tin phi tài chính ............................................................ 7 Hình 1.2: Tỷ lệ doanh nghiệp công bố báo cáo CSR ......................................... 18 Hình 2.1: Sơ đồ tổng quát lý thuyết nghiên cứu ................................................ 24 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT CSR Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp FEM Mô hình tác động cố định GAAP Các nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi HOSE Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh HNX Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hà Nội REM Mô hình tác động ngẫu nhiên TTCK Thị trường chứng khoán –I– PHẦN MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài Thị trường chứng khoán là một kênh đầu tư và huy động vốn quan trọng của nền kinh tế. Trên lý thuyết, tại đây doanh nghiệp có thể tiếp cận được các nguồn vốn với chi phí thấp nếu như tính minh bạch và hiệu quả của thị trường được duy trì, mà việc tuân thủ các điều kiện niêm yết và công bố thông tin đầy đủ là một trong những nhân tố quyết định. Ngoài ra, đứng ở góc độ nhà quản trị, việc công bố các thông tin bao gồm các thông tin đánh giá hoạt động của doanh nghiệp cũng giúp nhà quản trị duy trì hiệu quả công tác quản trị. Tuy nhiên, chưa có đề tài nghiên cứu nào khẳng định được tầm quan trọng cũng như những tác động của thông tin phi tài chính đối với kết quả hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam. Trước thực trạng bất cân xứng thông tin trên TTCK Việt Nam, yêu cầu thông tin ngày càng phong phú từ nhà đầu tư cũng như những hạn chế của thông tin tài chính, đề tài nghiên cứu khoa học của tác giả mong muốn kiểm định giá trị thực tiễn của thông tin phi tài chính công bố trên thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Xuất phát từ mục tiêu này, tác giả tiếp cận nghiên cứu đề tài: “Mối quan hệ giữa thông tin phi tài chính trên báo cáo thường niên với kết quả hoạt động theo kế toán, giá thị trường của các công ty niêm yết Việt Nam”. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Mục tiêu chung: Công trình tập trung nghiên cứu tác động của công bố thông tin phi tài chính đến các chỉ số tài chính của kế toán và biến động giá trị thị trường của doanh nghiệp đồng thời kỳ vọng phát hiện được sự thay đổi theo thời gian của các mối tương quan kể trên. Mục tiêu cụ thể: - Hệ thống hóa lý thuyết và các nghiên cứu tại Việt Nam và trên thế giới về vai trò của thông tin phi tài chính và tính hữu dụng của công bố các thông tin này, từ đó hình thành các cơ sở lý thuyết về tác động của công bố thông tin phi tài chính đánh giá hoạt động đến kết quả hoạt động của kế toán và giá trị thị trường của doanh nghiệp. - Thống kê sơ bộ về tình trạng công bố thông tin phi tài chính trong phạm vi những dữ liệu được thu thập trong nghiên cứu này. – II – - Sử dụng các mô hình hồi quy với dữ liệu bảng để đánh giá tác động của công bố thông tin phi tài chính, sự thay đổi theo thời gian của các mối tương quan, so sánh với cơ sở lý thuyết nhằm phát hiện khác biệt. Tìm hiểu lý do cho những khác biệt này. - Trình bày một số gợi ý đối với nhà quản trị các công ty niêm yết cho vấn đề công bố thông tin phi tài chính và cho những đề tài sau này liên quan đến hướng nghiên cứu về thông tin phi tài chính. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng phân tích là các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK Việt Nam, bao gồm doanh nghiệp niêm yết trên cả hai sàn HOSE và HNX. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các thông tin phi tài chính và tài chính được công bố trong báo cáo thường niên của các doanh nghiệp. Các thông tin được thu thập trong phạm vi ba năm, từ năm 2010 đến năm 2012. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu này chủ yếu sử dụng thống kê mô tả để trình bày về thực trạng công bố thông tin phi tài chính của các công ty trong mẫu và phương pháp định lượng dữ liệu bảng với kỹ thuật hồi quy theo mô hình hồi quy tác động cố định (FEM) và mô hình hồi quy ảnh hưởng ngẫu nhiên (REM) để tìm hiểu mối tương quan trọng tâm của nghiên cứu. Tác giả sử dụng phần mềm Eview 7.0 và Stata 12 để phân tích dữ liệu. Dữ liệu được thu thập từ báo cáo tài chính và báo cáo thường niên của các doanh nghiệp niêm yết trong mẫu, được công bố trên trang web chứng khoán. Dữ liệu sau khi thu thập được trình bày dưới dạng bảng cân đối (Panel balanced) theo hai chiều không gian và thời gian. 5. Ý nghĩa của đề tài Đề tài mang lại một số ý nghĩa cho các nhà nghiên cứu, các nhà quản trị trong doanh nghiệp và sinh viên như sau: Một là, kết quả nghiên cứu này góp phần bổ sung vào cơ sở lý luận về thông tin phi tài chính. Bởi lẽ, vấn đề nghiên cứu trung tâm là mức độ công bố thông tin phi tài chính, vẫn là một nội dung nghiên cứu còn chưa được phổ biến tại thị trường chứng khoán Việt Nam hay Đông Nam Á. – III – Hai là, kết quả kiểm định trong đề tài sẽ khẳng định được vai trò của thông tin phi tài chính ảnh hưởng như thế nào đến kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị, giá trị thị trường của doanh nghiệp thông qua việc nhà đầu tư sử dụng thông tin này để ra quyết định. Từ đó, giúp nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam nhận thức được tầm quan trọng của thông tin phi tài chính trong quá trình kiểm soát hoạt động và công bố ra bên ngoài. Ba là, kết quả nghiên cứu gợi mở giải pháp quản lý cho nhà quản trị. Nhà quản trị xem xét xây dựng thước đo phi tài chính như thế nào hợp lý để có được thông tin phi tài chính phục vụ quá trình kiểm soát, cải thiện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cuối cùng là, đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, giảng viên, sinh viên về lý thuyết thông tin phi tài chính. Kết quả nghiên cứu sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cho những dẫn chứng của các công trình nghiên cứu kế tiếp. 6. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, kết cấu của đề tài được chia thành bốn chương. Chương 1 trình bày cơ sở lý thuyết về thông tin phi tài chính và tác động của nó đến kết quả hoạt động theo kế toán và giá trị thị trường của doanh nghiệp. Chương thứ hai tác giả trình bày phương pháp thu thập, xử lý dữ liệu, kiểm định và lựa chọn mô hình. Chương thứ ba trình bày kết quả mô hình hồi quy và các kiểm định khuyết tật của mô hình. Chương cuối cùng tóm tắt kết quả nghiên cứu, trình bày những đề xuất của tác giả đối với nhà quản trị và đề xuất các hướng nghiên cứu tiếp theo. Tên của các chương như sau: - Chương 1: Cơ sở lý thuyết - Chương 2: Phương pháp nghiên cứu - Chương 3: Kết quả kiểm định – bằng chứng từ các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - Chương 4: Kết luận và hàm ý cho nhà quản trị –1– CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1. Đo lường thành quả hoạt động bằng thước đo tài chính và thước đo phi tài chính Môi trường kinh doanh của Việt Nam luôn thay đổi trong suốt những năm gần đây. Các nhà quản lý doanh nghiệp phải đối mặt với một môi trường cạnh tranh ngày càng cao và phức tạp. Vì vậy, yêu cầu cần phải có những đổi mới trong việc quản lý và kinh doanh, đặc biệt là công việc đánh giá thành quả hoạt động của doanh nghiệp. “Mục đích cơ bản đằng sau mọi phép đo lường đánh giá là để cải thiện kết quả và nâng cao hiệu quả. Các phép đo lường đánh giá mà không trực tiếp cải thiện hiệu quả thì cũng là phương tiện để đạt được mục đích cuối cùng đó” (Banker, 2000). “Chỉ khi nào bạn đo lường được những điều bạn nói và thể hiện nó trên con số, bạn mới hiểu đôi điều về nó.” (Bushman, 1996) “Bạn chỉ có thể quản lý được những gì bạn đo lường được.” (Amir, 1996) Hai câu nói trên nêu lên được tầm quan trọng của đánh giá thành quả hoạt động. Trong quá trình không ngừng hoàn thiện mình của một tổ chức, đánh giá thành quả hoạt động đóng vai trò quan trọng giúp nhận diện và theo dõi tiến trình hiện thực hóa mục tiêu của tổ chức, nhận diện những cơ hội để cải thiện kết quả, so sánh kết quả của tổ chức với các tiêu chuẩn nội bộ và bên ngoài. Từ đó, có thể thấy việc đánh giá thành quả hoạt động nhằm phục vụ nhiều mục tiêu như: - Chúng là một phần của chiến lược mỗi tổ chức, giúp nhận định mức độ hoàn thành mục tiêu chiến lược. - Chúng được sử dụng bởi nhà quản trị khi ra quyết định phân bổ nguồn lực và xác định mức độ hoạt động phù hợp. - Đánh giá thành quả hoạt động giúp tập trung các nỗ lực của tổ chức vào mục tiêu được ưu tiên, giám sát các nỗ lực đó. - Là một kênh thông tin giúp chiến lược của tổ chức thông suốt qua các cấp. –2– Công tác đánh giá thành quả hoạt động được thực hiện bằng cách xác định và đo lường các chỉ tiêu phù hợp với đặc điểm hoạt động và mục tiêu của tổ chức. Các chỉ tiêu này phản ánh nhân tố quyết định đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp và có thể nằm dưới dạng các thước đo tài chính và phi tài chính. 1.1.1. Thước đo tài chính 1.1.1.1. Đặc điểm Các thước đo tài chính là những chỉ tiêu đánh giá có thể trình bày bằng đơn vị tiền tệ hoặc là những hệ số tài chính được tính toán từ những chỉ tiêu tiền tệ. Khi nhắc đến các chỉ tiêu đo lường hoạt động bằng đơn vị tiền tệ của một doanh nghiệp, chúng ta có thể thấy hầu hết những chỉ tiêu đó đều nằm trong báo cáo tài chính và bắt buộc công bố trong GAAP trên toàn thế giới. Ở Việt Nam, những chỉ tiêu tiền tệ về tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh, tình hình lưu chuyển tiền tệ đều được yêu cầu trình bày đầy đủ trong bộ báo cáo tài chính định kỳ của doanh nghiệp. Có thể kể đến những chỉ tiêu mà người sử dụng thông tin thường quan tâm như tổng tài sản, vốn luân chuyển, vốn chủ sở hữu, doanh thu, lợi nhuận, cổ tức và lợi nhuận chưa phân phối... Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các hệ số tài chính được phân thành nhiều nhóm chỉ tiêu đặc trưng, phản ánh nội dung cơ bản theo mục tiêu phân tích của doanh nghiệp. Nhưng nhìn chung có 4 nhóm chỉ tiêu cơ bản sau: - Nhóm chỉ tiêu khả năng thanh toán: Nhóm chỉ tiêu này thể hiện được năng lực thanh toán của doanh nghiệp. Đây là nhóm chỉ tiêu được nhiều người quan tâm như: các nhà đầu tư, người cho vay, người cung cấp nguyên vật liệu,… bởi lẽ họ luôn đặt ra câu hỏi là hiện doanh nghiệp có đủ khả năng trả các món nợ tới hạn không. Nhóm chỉ số này bao gồm các chỉ tiêu như: hệ số khả năng thanh toán hiện hành, hệ số khả năng thanh toán nhanh, hệ số khả năng thanh toán nợ dài hạn, hệ số khoản phải thu trên khoản phải trả, hệ số khả năng thanh toán lãi vay. - Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính và tình hình đầu tư: Các doanh nghiệp luôn thay đổi tỷ trọng các loại vốn theo xu hướng hợp lý (kết cấu tối ưu). Nhưng kết cấu này luôn bị phá vỡ do tình hình đầu tư. Vì vậy nghiên cứu cơ cấu nguồn vốn, cơ cấu tài sản, tỷ suất tự tài trợ sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quát về sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Các hệ số tài chính trong nhóm này bao gồm: hệ số nợ, hệ số –3– vốn chủ sở hữu (tỷ suất tự tài trợ), tỷ suất đầu tư vào tài sản dài hạn, tỷ suất tự tài trợ tài sản cố định, tỷ suất đầu tư vào tài sản ngắn hạn... - Nhóm chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động: Các chỉ số này dùng để đo lường hiệu quả sử dụng vốn, tài sản của một doanh nghiệp bằng cách so sánh doanh thu với việc bỏ vốn vào kinh doanh dưới các loại tài sản khác nhau. Nằm trong nhóm này gồm có các chỉ tiêu: số vòng quay hàng tồn kho, số ngày dự trữ hàng tồn kho, số vòng quay các khoản phải thu, kỳ thu tiền bình quân, số vòng quay tài sản ngắn hạn, hiệu suất sử dụng tài sản dài hạn, số vòng quay tổng tài sản. - Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời: Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp. Khi phân tích, lợi nhuận được đặt trong tất cả mối quan hệ với doanh thu, tài sản, vốn chủ sở hữu... Mỗi góc độ phân tích đều cung cấp cho nhà phân tích một ý nghĩa cụ thể trong việc ra quyết định. Tùy theo từng góc độ phân tích mà nhà phân tích có thể sử dụng tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (ROS), tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA), Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE). Ngoài bốn nhóm chỉ tiêu trên, thông tin tài chính của doanh nghiệp còn được sử dụng như các chỉ tiêu đánh giá khi so sánh theo chiều ngang (đánh giá tăng trưởng, biến động qua thời kỳ) hay theo chiều dọc (so sánh cơ cấu từng bộ phận trên tổng thể toàn công ty, công ty so với đối thủ hay toàn ngành). Hay các hệ số trong nhóm chỉ tiêu sinh lời được tổng hợp trong mô hình phân tích Dupont giúp tiếp cận, chỉ ra các nguyên nhân của hiện tượng đó thông qua phân tích một tỷ lệ sơ cấp (phản ánh hiện tượng), thành tích của các tỷ lệ thứ cấp (phản ánh nguyên nhân). Doanh nghiệp có thể chuyển hóa các thông tin này thành hệ số phục vụ cho từng mục tiêu trong công tác đánh giá hoạt động của mình. 1.1.1.2. Ưu điểm và nhược điểm Ưu điểm của thước đo tài chính: Thước đo tiền tệ và các hệ số tài chính có lợi thế chính là có tính so sánh được cao, không chỉ có khả năng đánh giá tính hiệu quả và năng lực của những bộ phận khác nhau trong cùng một tổ chức (như marketing, sản xuất, kỹ thuật...) mà còn có thể giúp so sánh các công ty hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau, từ những doanh nghiệp bán lẻ đến các công ty bưu chính viễn thông hay các hãng lữ hành... –4– Cũng chính nhờ lợi thế đồng nhất này, thông tin tài chính có thể được biến tấu thành nhiều chỉ tiêu đánh giá chất lượng rất đa dạng để phục vụ công tác đánh giá thành quả cũng như phân tích hoạt động của doanh nghiệp. Nhược điểm của thước đo tài chính: Thứ nhất, thước đo tài chính truyền thống không cung cấp đầy đủ các thông tin để đo lường, đánh giá thành quả hoạt động doanh nghiệp. Đánh giá thành quả hoạt động của doanh nghiệp theo thước đo tài chính truyền thống được thể hiện qua các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, báo cáo tài chính được xây dựng trên những chứng từ và dữ liệu của các nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh. Do đó, các báo cáo tài chính chỉ thể hiện được những thành quả trong quá khứ của doanh nghiệp, không phản ánh được tiềm năng của doanh nghiệp trong tương lai để đánh giá đúng tiềm năng và triển vọng của doanh nghiệp trong tương lai. Bên cạnh đó, báo cáo tài chính chỉ đưa ra kết quả cuối cùng mà rất hạn chế để thấy được những nguyên nhân dẫn đến kết quả đó. Từ đó, nhà quản trị gặp khó khăn khi họ hoạch định chiến lược trong tương lai. Thứ hai, thước đo tài chính truyền thống thường dẫn đến xu hướng quá chú trọng vào lợi ích ngắn hạn mà bỏ qua hoặc thậm chí đánh đổi lợi ích trong dài hạn. Đôi khi, các thông tin kế toán có thể bị bóp méo để phục vụ những mục đích tài chính ngắn hạn. Những thước đo tài chính truyền thống mà đa phần người sử dụng thông tin – các nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp – được lấy từ báo cáo tài chính do doanh nghiệp đó cung cấp. Trong nhiều trường hợp, vì những mục tiêu ngắn hạn như muốn thu hút nhà đầu tư bằng một EPS cao, hay chứng minh doanh nghiệp hoạt động hiệu quả bằng cách cắt giảm chi phí để có ROE cao mà doanh nghiệp đã thực hiện nhiều biện pháp vô tình gây tổn thương cho các mục tiêu dài hạn. Cụ thể, trong một doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trong thị trường cạnh tranh, muốn “làm đẹp” báo cáo tài chính để có thể thu hút đầu tư, doanh nghiệp cắt giảm chi phí nhân công hay các chi phí bán hàng (khuyến mãi, marketing,…), chi phí nghiên cứu phát triển... Với hành động trên, doanh nghiệp đã đẩy mức lợi nhuận lên cao nhằm thu hút đầu tư. Tuy nhiên, về lâu dài nhân công chán nản với mức sống thấp, lượng tiêu thụ hàng hóa giảm do không có chính sách kích thích tiêu thụ và bị thu hẹp thị phần hay sản phẩm không có những cải tiến. Rõ ràng, những hành động này ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích doanh nghiệp lâu dài. Một trường hợp khác, khi doanh nghiệp muốn –5– vay ngân hàng, nhà quản trị có thể cố tình bóp méo số liệu bằng những thủ thuật của kế toán để tạo ra báo cáo tài chính đủ sức thuyết phục. Cuối cùng, khi lợi nhuận doanh nghiệp tạo nên không đủ để bù đắp chi phí lãi vay, giá trị nội tại của doanh nghiệp sẽ suy giảm do những khoản thiệt hại ăn mòn vốn. Thứ ba, giá trị thực đơn vị tiền tệ của thước đo tài chính có thể biến động theo thời gian do ảnh hưởng của các nhân tố như lạm phát, suy thoái và tỷ giá hối đoái. Chính lý do này khiến việc so sánh giữa các tổ chức và so sánh thành quả hoạt động qua thời gian có thể bị bóp méo. Hiện nay, tại Việt Nam chưa có chuẩn mực kế toán cho ảnh hưởng của lạm phát. Trên thế giới, chuẩn mực kế toán số 29 về Báo cáo tài chính trong những nền kinh tế có mức lạm phát cao đã được công bố từ tháng 1 năm 1990. Tuy nhiên, chuẩn mực chỉ yêu cầu báo cáo tài chính của công ty phài điều chỉnh lại hoàn toàn khi tỷ lệ lạm phát trong 3 năm gần nhất vượt mức 100%. Trong bài nghiên cứu “Exploring the effect of Inflation on Financial Statements through Ratio Analysis”, Itner (2000) đã so sánh báo cáo tài chính được điều chỉnh theo lạm phát với báo cáo không được điều chỉnh của một công ty giả định với các dòng sự kiện liên quan đến tình hình tài chính của công ty trong 3 năm, với chỉ số lạm phát 2%/ tháng tương đương 26,82%/ năm. Itner (2000) nhận thấy những chỉ tiêu phi tiền tệ và hệ số tính toán từ các chỉ tiêu phi tiền tệ trên báo cáo tài chính như doanh thu, giá vốn hàng bán, tổng tài sản, vốn chủ sở hữu, hệ số vốn luân chuyển... đều tăng. Trong khi các chỉ tiêu như hệ số thanh toán nhanh, đòn bẩy tài chính, số vòng quay tài sản giảm nhẹ do mẫu số có chứa các chỉ tiêu phi tiền tệ. Tất cả các chỉ tiêu liên quan đến lợi nhuận như lợi nhuận biên, ROE, ROA đều giảm mạnh do lạm phát đã xóa đi gần hết lợi nhuận của công ty. Nghiên cứu cũng kết luận rằng lạm phát càng cao thì các tài sản tiền tệ càng mất giá trị và chỉ tiêu tiền tệ càng suy yếu. Các công ty dự trữ nguồn tiền càng dồi dào thì càng bị ảnh hưởng mạnh bởi lạm phát. Kể cả khi tiến hành áp dụng mô hình nghiên cứu tại nền kinh tế có chỉ số lạm phát thấp như Canada (chỉ số lạm phát sau 3 năm là 6.2%), nghiên cứu cho thấy lạm phát cũng làm suy giảm lợi nhuận của các công ty. 1.1.2. Thước đo phi tài chính 1.1.2.1. Đặc điểm Thước đo phi tài chính là những thông tin không được trình bày bằng đơn vị tiền tệ hay được tính toán từ các đơn vị tiền tệ. Với nguồn gốc và mối quan hệ mật –6– thiết tới các chu trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các thước đo phi tài chính có khả năng phản ánh một chính xác, khách quan, trực tiếp mọi mặt của doanh nghiệp, bao gồm cả giá trị các nguồn lực hay kết quả hoạt động kinh doanh. Mặt khác, các thước đo phi tài chính vô cùng đa dạng cả về phương pháp đo lường, tính toán, đơn vị đo lường được sử dụng... Mặc dù có lịch sử hình thành và phát triển lâu dài, nhưng vấn đề công bố các thước đo phi tài chính còn nhiều hạn chế. Theo yêu cầu công bố thông tin của Ủy ban Châu Âu đối với các doanh nghiệp, thước đo phi tài chính mà nhà đầu tư quan tâm có thể chia làm ba loại chính: (i) nhóm thước đo mô tả tình hình quản trị và chính sách hoạt động của công ty, (ii) nhóm thước đo trình bày kết quả hoạt động và (iii) nhóm thước đo trình bày rủi ro và các biện pháp quản trị rủi ro của doanh nghiệp. Bài nghiên cứu này tập trung nghiên cứu những thước đo phi tài chính trình bày và đánh giá kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Các thước đo phi tài chính trong đánh giá thành quả hoạt động thường nằm trong một số phương diện đánh giá hoạt động nhất định. Tham khảo hai nghiên cứu trước đây về các thước đo phi tài chính bao gồm Barcons (1999), Boesso (2004) có thể thấy các tác giả đều đặt trọng tâm nghiên cứu vào các phương diện mà người sử dụng thông tin quan tâm như thông tin về nhà đầu tư, khách hàng, nhà cung cấp, thông tin về học hỏi và phát triển, quy trình nội bộ, người lao động và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Các mô hình nghiên cứu đa phần được phát triển từ lý thuyết bảng điểm cân bằng – một công cụ đánh giá thành quả doanh nghiệp hữu hiệu, được xây dựng bởi Kaplan và Norton (1996). Ngoài phương diện tài chính, mô hình bảng điểm cân bằng bao gồm 3 phương diện phi tài chính: khách hàng, quy trình nội bộ, học hỏi và phát triển. Theo nghiên cứu về thị trường của Eurosif và Ủy ban hỗ trợ đầu tư bền vững toàn cầu – Global Sustainable Investment Alliance, đến năm 2011, giá trị của các tài sản được đánh giá bằng các thông tin phi tài chính trên phạm vi toàn cầu đã vượt mức 10.5 nghìn tỷ. Trong cuộc khảo sát năm 2013 trên 94 nhà đầu tư đến từ 18 quốc gia của Hiệp hội kế toán công chứng Anh, kết quả thống kê cho thấy 89% nhà đầu tư đánh giá trách nhiệm xã hội là thước đo phi tài chính quan trọng, 25% nhà đầu tư thường xuyên quan tâm tới các thước đo phi tài chính, 92% nhà đầu tư cho rằng những thông tin phi tài chính được công bố hiện nay không mang tính so sánh. Khảo –7– sát cũng cho thấy nguồn thông tin phi tài chính quan trọng nhất là từ báo cáo trách nhiệm xã hội/ báo cáo phát triển bền vững và báo cáo thường niên. Hình 1.1. Những nguồn thông tin phi tài chính Nguồn: Nghiên cứu của ACCA (2013). 1.1.2.2. Ưu điểm và nhược điểm Ưu điểm của thước đo phi tài chính Ưu điểm đầu tiên của những thước đo đánh giá thành quả phi tài chính là khả năng lý giải mối liên hệ hay các sự kiện không được trình bày rõ ràng trong báo cáo tài chính. Ví dụ, báo cáo tài chính không cho thấy bức tranh về quan hệ của doanh nghiệp với môi trường, với cộng đồng địa phương, hay sự phát triển công nghệ, mức độ hài lòng của người lao động, vấn đề an toàn lao động và môi trường... Đồng thời, báo cáo tài chính cũng không cung cấp cho người sử dụng nhiều thông tin về lợi thế cạnh tranh hay những điểm mạnh, điểm yếu của công ty so với đối thủ, thị phần, sự hài lòng của khách hàng, tốc độ phát triển các dòng sản phẩm mới hay công tác quản lý chất lượng, phát triển thương hiệu và nhiều vấn đề quan trọng khác... Ưu điểm thứ hai của các thước đo phi tài chính là chúng chỉ ra và có thể giúp giải quyết những yếu kém của hệ thống kế toán truyền thống mà đa phần chỉ ghi nhận và báo cáo các chỉ tiêu tài chính. Lịch sử kế toán từ thế kỷ thứ 14, trải qua hai –8– cuộc cách mạng công nghiệp, cho thấy kế toán truyền thống đóng vai trò quan trọng trong suốt thời kỳ đầu cách mạng tư bản khi hai nguồn lực sản xuất quan trọng nhất là nguyên vật liệu và sức lao động. Trong nghiên cứu “Performances measures for Managerial Decision Making: Performance Measurement Sygnergies in MultiAttribute Performance Measurement Systems”, Robert (2010) đã kết luận sau khi tổng kết các nghiên cứu trước đây về lịch sử phát triển của kế toán truyền thống: “kết quả của việc các doanh nghiệp phụ thuộc vào hệ thống đánh giá hoạt động dựa trên kế toán chi phí truyền thống chính là các nhà quản lý doanh nghiệp trở nên lệ thuộc và đánh giá hoạt động dựa trên các con số kế toán thay vì quan tâm đến hoạt động và chu trình đằng sau những con số đó”. Với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng về tỷ trọng tài sản trí tuệ và tài sản vô hình trong cơ cấu tài sản doanh nghiệp, khiến cho khả năng đo lường giá trị của những thước đo kế toán truyền thống đang suy giảm dần. Giá trị hiện tại của những lợi ích kinh tế trong tương lai mà các tài sản này mang lại rất khó ghi nhận, và nếu theo chuẩn mực kế toán quốc tế hiện hành, đa phần những tài sản vô hình chỉ có thể được ghi nhận trong báo cáo tài chính và sổ sách kế toán khi diễn ra quá trình chuyển nhượng, sáp nhập và hợp nhất. Đồng thời, cũng có nhiều nghiên cứu quan tâm đến vấn đề kế toán nguồn nhân lực và liệu giá trị của chúng có nên được trình bày trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp hay không và trình bày như thế nào. Theo Barcons và cộng sự (1999), kế toán nguồn nhân lực hiện nay chỉ được tiếp cận dưới hai góc độ: kế toán tài chính với đa phần các tài khoản liên quan là nợ phải trả và chi phí; và kế toán quản trị khi nó được ghi nhận tương quan với giá trị gia tăng do nguồn nhân lực tạo ra. Trong nghiên cứu “Kinh tế tri thức và sự cần thiết của kế toán nguồn nhân lực trong doanh nghiệp” (2012), Phạm Đức Hiếu đã viết: “Hệ thống kế toán hiện tại đã bỏ qua vai trò quan trọng của các giá trị nguồn nhân lực, vì thế các nhà quản lý không có được những thông tin cần thiết để đánh giá tính hiệu lực và hiệu quả trong đầu tư cho nguồn nhân lực. IASB đã ứng xử đối với hầu hết các chi phí liên quan đến nguồn nhân lực như là các chi phí thời kỳ thay vì vốn hóa các chi phí này như tài sản, vì thế công ty càng đầu tư nhiều cho nguồn nhân lực thì lợi nhuận kế toán lại càng giảm. Ở khía cạnh này, kế toán truyền thống đã không khuyến khích các nhà quản lý đầu tư cho các nguồn nhân lực của họ”. –9– Ưu điểm thứ ba, thông tin phi tài chính mang tính khách quan và khó có thể bị bóp méo so với thông tin tài chính. Thông tin tài chính bị điều chỉnh bởi những nguyên tắc kế toán như cơ sở dồn tích, tính phù hợp và thận trọng. Những nguyên tắc ghi nhận doanh thu và chi phí của kế toán tài chính dẫn tới sự chậm trễ trong thông tin và khả năng phù phép thông tin trên báo cáo tài chính. Trong khi đó thông tin phi tài chính có thể phản ánh trực tiếp và trung thực kết quả hoạt động qua các thước đo phi tài chính mà không cần quá nhiều những qui định ghi nhận. Thông tin phi tài chính có thể được cung cấp gần như ngay lập tức, thậm chí ngay khi quá trình sản xuất đang diễn ra. Ưu điểm cập nhật và kịp thời này làm gia tăng tính hữu ích của thông tin phi tài chính. Việc theo dõi đồng thời các thông tin phi tài chính bên cạnh các chỉ tiêu tài chính giúp ngăn chặn những hành vi điều chỉnh lợi nhuận hay hành vi làm đẹp báo cáo tài của chính nhà quản trị. Ngoài ra, khi thảo luận về các ưu điểm của thước đo phi tài chính, các nghiên cứu của Itner và cộng sự (1998), Banker (2000), Pangakar và Kirkwood (2006) đều đồng ý rằng những thước đo phi tài chính tốt hơn, và thậm chí còn là những chỉ tiêu dự báo kết quả tài chính tương lai tốt hơn so với những thước đo tài chính. Tuy nhiên, vẫn cần có thêm nhiều bằng chứng cụ thể hơn nữa về việc liệu những chỉ tiêu đánh giá phi tài chính có phản ánh được giá trị lợi ích kinh tế tương lai thuộc về doanh nghiệp hay không. Hiện nay, đây vẫn là vấn đề gây nên nhiều tranh cãi đối với những chuyên gia nghiên cứu kế toán. Nhược điểm của thước đo phi tài chính Việc thiết kế, phát triển và áp dụng một mô hình đánh giá hoạt động sử dụng các thước đo phi tài chính trong doanh nghiệp có thể gặp một số khó khăn. Bất lợi đầu tiên của các thước đo phi tài chính đã được nhắc đến trên đây: chúng có thể không phản ánh được hiện giá của sản phẩm, dịch vụ trong tương lai hay những lợi ích kinh tế công ty có thể nhận được dưới dạng số tuyệt đối hoặc phản ánh được các mối quan hệ trong tương lai qua các tỷ số. Thông tin phi tài chính là những dữ liệu mang tính mô tả (ví dụ như sự hài lòng của khách hàng) hay những tỷ số của những chỉ tiêu khác biệt về bản chất (ví dụ số lượng khiếu nại của khách hàng tính trên 1.000 sản phẩm bán ra), do đó, tính hữu dụng của thông tin phi tài chính bị giới hạn. Chúng được thiết kế nhằm giải thích theo cách phi tài chính những mối quan hệ đặc thù mà ta không thể trình bày rõ ràng bằng các thước đo tài chính của kế – 10 – toán truyền thống. Theo lý thuyết, các thước đo phi tài chính thậm chí có thể thay thế cho những thước đo tài chính, tuy nhiên điều này chỉ thực tế khi mối quan hệ giữa các sự kiện, các yếu tố, các lợi ích kinh tế trong tương lai được phản ánh trong thước đo phi tài chính và giá trị của chúng có thể được trình bày rõ ràng. Nhược điểm thứ hai của thước đo phi tài chính là chúng không có khả năng (ít nhất là không trực tiếp) tác động đến tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, mặc dù có những chỉ tiêu kết quả hoạt động bị ảnh hưởng bởi các giá trị mà những thước đo phi tài chính đo lường (ví dụ như sự hài lòng của khách hàng và nhà cung cấp, số lượng khiếu nại...). Về tổng thể, các thước đo phi tài chính chỉ có thể giúp giải thích được biến động của những chỉ tiêu này. Ví dụ, kết quả hoạt động của một công ty có thể phụ thuộc vào thị phần và mức độ hài lòng của khách hàng. Tuy nhiên, khả năng phản ánh giá trị này còn bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi cách tiếp cận để đánh giá cho từng lợi ích kinh tế. Các thước đo phi tài chính phản ánh sự thỏa mãn khách hàng chỉ có thể giải thích được biến động trong doanh số nếu như được sử dụng phối hợp với doanh thu được đo lường bởi thước đo tài chính. Nhược điểm thứ ba là mức độ tin cậy của thông tin phi tài chính cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp nếu chúng được trình bày trong các báo cáo. Mỗi công ty và mỗi ngành đều có những thang đo khác nhau và nội dung mà chúng phản ánh rất khác biệt. Bởi vậy, các kiểm toán viên độc lập không thể đảm bảo tính đáng tin cậy của số lượng lớn các thang đo này do những hạn chế cả về hiểu biết chuyên môn lẫn áp lực về khối lượng công việc. Itner và cộng sự (2000) đã trình bày về tính đang tin cậy về mặt thống kê của thước đo phi tài chính. Các thước đo phi tài chính tham gia vào hệ thống đánh giá có thể được tổng kết từ các cuộc khảo sát như sự hài lòng của khách hàng hay mức độ nhận biết thương hiệu. Tuy nhiên, nếu mẫu lựa chọn không đủ lớn hay bảng câu hỏi khảo sát không đủ chi tiết, thì các thước đo phi tài chính sẽ không có độ tin cậy về mặt thống kê cao, làm giảm khả năng nhận diện được sự thành công của doanh nghiệp cũng như khả năng dự đoán kết quả kinh doanh trong tương lai. Cuối cùng, một vấn đề cần quan tâm khi trình bày thước đo phi tài chính chính là mối liên hệ mật thiết của chúng với hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này tạo nên nỗi lo lắng về việc thông tin phi tài chính khi trình bày ra bên ngoài liệu các đối tượng bên ngoài có sử dụng những thông tin này với mục đích – 11 – không có lợi cho doanh nghiệp hay không. Do đó, các doanh nghiệp có xu hướng công bố những thông tin không cụ thể hoặc không cập nhật về hoạt động của mình. Việc sử dụng không đúng đắn các thước đo phi tài chính và không hiểu rõ mối liên hệ giữa các thước đo có thể làm chệch hướng quan tâm của nhà quản trị và kết quả là các nỗ lực cải thiện không mang lại hiệu quả như mong muốn. Và cuối cùng, Itner và cộng sự (2000) đánh giá rằng đo lường thành quả hoạt động sử dụng những thước đo phi tài chính làm tốn nhiều thời gian và công sức hơn so với các thước đo tài chính hiện nay. 1.1.3. Thông tin phi tài chính và vấn đề đánh giá hoạt động Có nhiều nghiên cứu và tài liệu khẳng định sự hữu dụng và tính cấp thiết cần phải sử dụng thước đo phi tài chính vào hệ thống đánh giá hoạt động của doanh nghiệp. Trong hai nghiên cứu của Kaplan và Norton (1992), Bushman (1996), về tổng quát, các nhà nghiên cứu trên đều phê bình việc đánh giá thành quả hoạt động chỉ dựa trên các chỉ tiêu tài chính lấy từ thông tin kế toán. Thông tin phi tài chính đang trở thành một yếu tố ngày càng được quan tâm trong hoạt động đánh giá thành quả. Vì vậy, trong mục 1.1.3, tác giả trình bày tóm tắt một số nghiên cứu chứng minh cho tính hiệu quả khi sử dụng thông tin phi tài chính để đánh giá hoạt động. Kaplan (1983) đã nghiên cứu các công ty sản suất tại Mỹ và so sánh năng suất của họ so với các công ty sản xuất tại Nhật và Châu Âu. Khi tìm hiểu lý do năng suất sản suất cao hơn tại Nhật và Châu Âu, Kaplan nhận thấy các công ty Mỹ cần phải phát triển các chỉ tiêu đánh giá phi tài chính để có một cái nhìn rõ ràng hơn về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu khuyến khích sự quan tâm của nhà quản lý chuyển từ những chỉ tiêu đánh giá ngắn hạn và là những con số tổng cộng sang những chỉ tiêu đánh giá phi tài chính liên quan tới mục tiêu dài hạn, ví dụ như năng suất, tiêu chuẩn chất lượng... Amir và Lev (1996) đã nghiên cứu về giá trị của những thông tin phi tài chính trong đánh giá hoạt động của ngành công nghiệp mạng không dây. Amir và Lev chỉ ra rằng những thông tin tài chính không quan trọng trong lĩnh vực này và cho rằng những thông tin phi tài chính, chủ yếu về tài sản vô hình, lại quan trọng và phù hợp hơn. Họ thừa nhận rằng trong ngành công nghiệp viễn thông di động, thay vì quan tâm đến những thông tin tài chính, nhà đầu tư lại coi trọng chỉ số thuê bao tiềm năng, hay còn gọi chỉ số thâm nhập. Họ xem đây là thước đo sự thành công của
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan