Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Nâng cao chất lượng đào tạo phóng viên truyền hình ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Nâng cao chất lượng đào tạo phóng viên truyền hình ở việt nam hiện nay

.DOC
238
539
69

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN TRẦN TIẾN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO PHÓNG VIÊN TRUYỀN HÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC HÀ NỘI – 2016 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN TRẦN TIẾN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO PHÓNG VIÊN TRUYỀN HÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Báo chí học Mã số: 62 32 01 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1- TS. NGUYỄN TRÍ NHIỆM 2- TS. TRẦN THỊ THU NGA HÀ NỘI – 2016 MỤC LỤC Danh mục các chữ viết tắt Danh mục bảng biểu MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .................................................11 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO PHÓNG VIÊN TRUYỀN HÌNH Ở VIỆT NAM ......................................38 1.1. Các khái niệm cơ bản của vấn đề nghiên cứu .....................................38 1.2. Yêu cầu đối với phóng viên truyền hình trong bối cảnh hiện nay .......46 1.3. Các yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo phóng viên truyền hình ở Việt Nam ............................................................................................................53 Chương 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO PHÓNG VIÊN TRUYỀN HÌNH Ở VIỆT NAM 65 2.1. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................65 2.2. Kết quả khảo sát ..................................................................................69 2.3. Kết quả nghiên cứu các yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo báo chí truyền hình ở một số quốc gia trên thế giới ..............................................102 Chương 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO PHÓNG VIÊN TRUYỀN HÌNH Ở VIỆT NAM ............................115 3.1. Những vấn đề đặt ra từ thực trạng đào tạo phóng viên truyền hình ở Việt Nam hiện nay ....................................................................................115 3.2. Mô hình nâng cao chất lượng đào tạo phóng viên truyền hình ở Việt Nam ..........................................................................................................120 3.3. Các giải pháp thực hiện mô hình nâng cao chất lượng đào tạo phóng viên truyền hình ở Việt Nam ....................................................................122 3.4. Một số khuyến nghị ...........................................................................153 KẾT LUẬN ..................................................................................................159 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ...........................................................163 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................164 PHỤ LỤC .....................................................................................................175 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT AJC : Học viện Báo chí và Tuyên truyền BCTH : Báo chí truyền hình BC&TT : Báo chí và Tuyên truyền CĐTH : Cao đẳng Truyền hình CLĐT : Chất lượng đào tạo CTV : Trường Cao đẳng Truyền hình, Đài Truyền hình Việt Nam GD&ĐT : Giáo dục và đào tạo GV : Giảng viên PTTH : Phát thanh truyền hình PV : Phóng viên PVTH : Phóng viên truyền hình SV : Sinh viên THVN : Truyền hình Việt Nam VN : Việt Nam VTV : Đài Truyền hình Việt Nam DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Biểu/Bảng Nội dung Trang Biểu đồ 2.1 Phương thức tuyển sinh ngành báo chí 70 Biểu đồ 2.2 Hình thức xét tuyển ngành báo chí 71 Bảng 2.1 Đánh giá mức độ cần thiết một số môn chuyên ngành 74 Biểu đồ 2.3 Trình độ giảng viên cơ hữu của Học viện BC&TT năm học 2014-2015 76 Biểu đồ 2.4 Đánh giá mức độ phù hợp về các phương pháp giảng dạy đối với khả năng tiếp thu nội dung các môn chuyên ngành 79 Biểu đồ 2.5 Mức độ thiết thực của các khối kiến thức 87 Biểu đồ 2.6 Đánh giá khối lượng kiến thức so với khả năng tiếp thu 87 Biểu đồ 2.7 Mức độ sử dụng thiết bị của giảng viên chuyên ngành 92 Biểu đồ 2.8 Đề nghị tăng phương pháp giảng dạy các môn chuyên ngành 93 Biểu đồ 2.9 Đề nghị giảm phương pháp giảng dạy các môn chuyên ngành 93 Biểu đồ 2.10 Đề nghị tỷ lệ thời gian học môn chuyên ngành 94 Biểu đồ 2.11 Tổ chức thực hành nghề tại cơ quan báo chí năm thứ 3 95 Biểu đồ 2.12 Tổ chức thực hành nghề tại cơ quan báo chí năm thứ 4 95 Biểu đồ 2.13 Ý kiến về tài liệu tham khảo các môn chuyên ngành 97 Biểu đồ 2.14 Ý kiến đánh giá về trang thiết bị, phòng thực hành/studio cho các môn chuyên ngành 98 Biểu đồ 2.15 Hình thức thi phù hợp nhất của các môn chuyên ngành 101 Bảng 3.1 Những tiêu chí cần có của phóng viên truyền hình 135 Bảng 3.2 Mức độ cần thiết của mỗi tiêu chí 136 1 MỞ ĐẦU 1- LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI: 1.1. Đào tạo báo chí đa phương tiện đang là xu hướng nhưng nhu cầu sử dụng phóng viên truyền hình vẫn rất lớn trong hiện tại và tương lai. Khai sinh từ ngày 7/9/1970, trải qua hơn 45 năm phát triển, ngành truyền hình Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc, đặc biệt trong khoảng 10 năm trở lại đây. Từ chỗ chỉ có một đài truyền hình với thời lượng phát sóng ít ỏi hàng ngày, đến hết năm 2015, hệ thống truyền hình từ trung ương đến địa phương đã có 65 đài. Ngoài 105 kênh truyền hình quảng bá, hệ thống truyền hình trả tiền phát triển mạnh bằng nhiều công nghệ truyền dẫn như truyền hình cáp (gồm cả IPTV), truyền hình mặt đất kỹ thuật số, truyền hình trực tiếp qua vệ tinh và truyền hình di động với 73 kênh phục vụ khoảng 9,9 triệu thuê bao trên toàn quốc (trong đó thuê bao truyền hình cáp chiếm 80,8%). Ngoài ra, có 06 kênh truyền hình hoạt động không có hạ tầng phát sóng truyền hình riêng, bao gồm các kênh: Truyền hình VOV, Truyền hình Công an nhân dân, Truyền hình Thông tấn, Truyền hình quốc phòng, Truyền hình Quốc hội, Truyền hình Nhân dân. [110] Nguồn nhân lực làm truyền hình đã góp phần làm nhân lực làm báo cả nước có “tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm là 6,5%” (Tờ trình số 229TTr/BCSĐ ngày 27/3/2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông về Quy hoạch Báo chí Toàn quốc đến năm 2020). Bên cạnh đó, nhiều công ty truyền thông cũng tham gia sản xuất chương trình truyền hình. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Quy hoạch phát triển dịch vụ phát thanh, truyền hình Việt Nam đến năm 2020” (số 1448/QĐ-TTg ngày 19/8/2013), theo đó, từ năm 2015 cung cấp ổn định 70 đến 80 kênh truyền hình phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền thiết yếu. Đảm bảo cung cấp khoảng 40 đến 50 kênh truyền hình chuyên biệt của Việt Nam cho dịch vụ truyền hình trả tiền. Đến năm 2020, cả nước có khoảng 60% đến 70% số hộ sử dụng dịch vụ này. Có thể thấy, sự phát triển của truyền hình đặt ra yêu cầu nguồn nhân lực cho lĩnh vực này phải gia tăng cả về 2 số lượng và chất lượng. Việc đào tạo chuyên sâu vào chuyên ngành vẫn có giá trị thực tiễn khi đáp ứng nhu cầu làm việc trong lĩnh vực truyền hình. Thực tiễn cho thấy truyền hình đang phát triển theo hướng đa nền tảng. Theo V.V.Vô-rô-si-lốp: "Bước chuyển của báo chí, phát thanh và truyền hình sang công nghệ số đang mở ra những triển vọng chưa từng có cho ngành báo chí" [97, t.119]. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, ngày nay khán giả không chỉ tiếp cận với truyền hình theo cách truyền thống, cho thấy đây vẫn là phương tiện thông tin truyền thông không thể thiếu đối với họ. Truyền hình đang biến đổi phương thức tiếp cận với công chúng, không chỉ theo cách xem tivi truyền thống mà tận dụng lợi thế của mạng xã hội để đưa truyền hình đến với đa dạng đối tượng, nhất là khán giả trẻ. Đồng thời, qua đó kéo khán giả trở lại với màn hình tivi trong những chương trình trọng điểm. Nhiều đài truyền hình nhanh chóng xuất hiện trên mạng xã hội Youtube. Gần đây, chương trình thời sự của Đài Truyền hình Việt Nam đã có mặt trên mạng xã hội Facebook là một ví dụ điển hình. Hay khán giả có thể xem trực tiếp hoặc xem lại các chương trình truyền hình trên website chính thức của các đài truyền hình, giúp họ không có điều kiện xem tivi trực tiếp, đặc biệt là khán giả ở nước ngoài được tiếp cận với những thông tin chính thống ở trong nước không bằng tivi truyền thống. Phân tích dưới góc độ đào tạo, muốn đào tạo sinh viên báo chí có kỹ năng đa phương tiện, vẫn phải đào tạo từng kỹ năng, trong đó có kỹ năng báo chí truyền hình. Sinh viên sẽ phải tích lũy tất cả các kỹ năng được gói gọn trong một chương trình đào tạo. Nếu các nhà trường xây dựng cấu trúc chương trình theo tư duy “phép cộng” các kỹ năng sẽ khó đòi hỏi sinh viên đạt đến mức độ thành thạo nghề, bởi giới hạn của khối lượng kiến thức với thời gian đào tạo được quy định ở mỗi trình độ đào tạo. Nếu sinh viên không có kỹ năng thành thạo, chuyên sâu để đáp ứng nhu cầu của xã hội, rõ ràng chất lượng đào tạo có vấn đề. Do đó, khi xã hội vẫn có nhu cầu tuyển dụng chuyên sâu về lĩnh vực báo chí truyền hình, một chương trình đào tạo chuyên ngành này sẽ đáp ứng được đòi hỏi về chất lượng nguồn nhân lực. 3 1.2. Chất lượng đào tạo phóng viên truyền hình phải theo kịp những đòi hỏi của thực tiễn nghề nghiệp. Ngày nay, khán giả có thể tiếp cận với các chương trình truyền hình bằng nhiều phương thức khác nhau. Thị trường lao động trong ngành truyền hình vẫn còn rất lớn ở hiện tại và tương lai bởi đây là loại hình đáp ứng nhu cầu của đông đảo khán giả. Vấn đề đặt ra là chất lượng nguồn nhân lực như thế nào và có đáp ứng được sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực này? Thực tiễn làm truyền hình thay đổi nhanh chóng bởi sự tác động của khoa học công nghệ và trong sự cạnh tranh khốc liệt của các loại hình báo chí, truyền thông. Khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển thúc đẩy sự phát triển của công nghệ truyền hình. Từ truyền hình đen trắng, đến truyền hình màu; từ truyền hình có độ phân giải thấp đến độ phân giải cao rồi siêu cao… . Đến nay công nghệ kỹ thuật số đã làm thay đổi quy trình sản xuất các chương trình truyền hình. Mỗi khi cập nhật công nghệ làm truyền hình là một lần thay đổi quy trình sản xuất. Điều này chi phối mạnh mẽ hoạt động đào tạo chức danh phóng viên truyền hình, buộc những cơ sở đào tạo các chức danh cho truyền hình nói chung, chức danh phóng viên truyền hình nói riêng phải thường xuyên khảo sát và cập nhật nội dung chương trình nếu muốn “sản phẩm đào tạo” đáp ứng nhu cầu của xã hội. Kỷ nguyên số đang đặt ra những yêu cầu về kỹ năng tác nghiệp đối với phóng viên truyền hình đòi hỏi chất lượng đào tạo ngày càng cao. Trong sự phát triển của truyền hình, người hưởng lợi sau cùng chính là khán giả. Nhưng ở một khía cạnh khác là sự cạnh tranh ngày càng mãnh liệt hơn giữa các đài/kênh truyền hình trong việc “giành giật” khán giả. Tất yếu, họ phải sử dụng đội ngũ tinh thông trong sản xuất chương trình. Các tiêu chí tuyển dụng ngày một khắt khe hơn đối với phóng viên truyền hình như: yêu cầu kỹ năng “2 trong 1” (phóng viên kiêm quay phim), thậm chí “3 trong 1” (kiêm thêm dựng hình). Trước sự thay đổi đó, không phải chương trình đào tạo phóng viên truyền hình ở các cơ sở đào tạo báo chí Việt Nam cũng bổ sung một thời lượng đáng kể cho học phần kỹ thuật và nghệ thuật dựng hình cũng như các điều kiện về thiết bị, giảng viên chuyên ngành nhằm thực hiện việc dạy và học có hiệu quả. Điều 4 này đặt ra vấn đề về tính linh hoạt trong kết cấu chương trình đào tạo hoặc khả năng nghiên cứu thị trường lao động và cập nhật vào chương trình đào tạo của các nhà trường. Để làm ra một sản phẩm truyền hình từ tiền kỳ đến phát sóng cần nhiều chức danh, trong đó không thể thiếu phóng viên. Phóng viên truyền hình có những kỹ năng và sự đòi hỏi khu biệt với phóng viên của các loại hình báo chí khác. Những kỹ năng này cần phải được trang bị đầy đủ ngay từ khi họ đang học tập trong trường. Người sử dụng lao động mong muốn sinh viên sau khi ra trường sẽ tác nghiệp được ngay, có nghĩa, người học phải có một kiến thức tổng quát đủ rộng, năng lực chính trị vững vàng, kỹ năng chuyên nghiệp. Tuy nhiên, thực tế cho thấy không phải sinh viên chuyên ngành báo chí truyền hình nào ra trường cũng đáp ứng được yêu cầu đó. Các nhân sự đều phải qua đào tạo lại mới đáp ứng được công việc trong quy trình sản xuất truyền hình. Điển hình như tại Đài THVN, theo kết quả khảo sát của tác giả, trong giai đoạn 2014-2015, Trung tâm đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ truyền hình trung bình tổ chức 100 khóa đào tạo mỗi năm, trong đó, 85% khóa học bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ phóng viên truyền hình. “Thực tế nhân lực tốt nghiệp chuyên ngành báo chí chỉ chiếm 41%, còn lại tốt nghiệp đại học chuyên ngành khác là 59%. Tỷ lệ này phản ánh thực tế là đào tạo tại các trường chuyên ngành đã không đáp ứng đủ nhu cầu phát triển của ngành” (Tờ trình số 229-TTr/BCSĐ ngày 27/3/2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông về Quy hoạch Báo chí Toàn quốc đến năm 2020). Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập toàn diện, báo chí – truyền thông là lĩnh vực dễ thâm nhập nhất đối với mọi quốc gia. Khi các quốc gia láng giềng đang đặt mục tiêu dùng truyền thông để hội nhập thì Việt Nam đặt ra mục tiêu này là tất yếu. Truyền hình Thông tấn (VNews) và Truyền hình Việt Nam (VTV) là các cơ quan báo chí đã có sự chuyển mình theo hướng này. Mật độ các tin tức, phóng sự của phóng viên Việt Nam thực hiện tại nước ngoài được công chiếu nhiều hơn. Nhưng muốn khẳng định một thương hiệu Việt về thông tin – truyền thông trên thị trường quốc tế, khó khăn nhất không phải là thiếu thiết bị hoặc cản trở bởi các yếu tố khách quan mà chính ở yếu tố con người – phóng viên, nhà 5 báo. Một số ý kiến cho rằng, Việt Nam cần hướng tới một chương trình đào tạo báo chí mang tầm cỡ quốc tế. Xét cho cùng, mong muốn ấy là làm thế nào để nước ta có thể đào tạo ra những người làm báo nói chung, phóng viên truyền hình nói riêng có đủ năng lực tác nghiệp trên trường quốc tế. Hội nhập đang xóa nhòa biên giới địa lý. Nếu không có sự thay đổi trong đào tạo, chúng ta sẽ “nhường” thị trường cho các cơ sở đào tạo quốc tế. Một số cơ sở đào tạo báo chí bậc cao với lịch sử hình thành, phát triển hàng chục năm đã có những đóng góp quan trọng cung cấp nguồn nhân lực chất lượng trong lĩnh vực báo chí, truyền thông. Thành tựu này xây dựng lên những thương hiệu đào tạo trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo hiện tại có đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội? Đào tạo phóng viên truyền hình hiện nay cần những thay đổi gì để phù hợp với sự phát triển của ngành truyền hình? Để đào tạo phóng viên truyền hình đi đúng với nhu cầu của xã hội và phù hợp với xu thế vận động, phát triển trong lĩnh vực truyền hình, tác giả thực hiện nghiên cứu đề tài: “Nâng cao chất lượng đào tạo phóng viên truyền hình ở Việt Nam hiện nay” nhằm khảo cứu một cách đầy đủ, toàn diện về đào tạo chuyên ngành phóng viên truyền hình và các điều kiện thực hiện tại Việt Nam hiện nay. Đó cũng là yêu cầu bức thiết, đòi hỏi khách quan từ thực tiễn phát triển của ngành truyền hình. 2- MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: 2.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở xây dựng khung lý thuyết về chất lượng đào tạo phóng viên truyền hình, luận án có mục đích đánh giá thực trạng đào tạo chuyên ngành phóng viên truyền hình ở trong nước, đồng thời tham khảo một số cơ sở đào tạo báo chí truyền hình nước ngoài và tìm hiểu từ thực tiễn những yêu cầu đối với phóng viên truyền hình, từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo phóng viên truyền hình dựa trên các yếu tố đảm bảo chất lượng trong quy trình đào tạo của nhà trường. 6 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận án phải thực hiện được một số nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản sau đây: Một là: Tiến hành tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. Hai là: Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến chất lượng đào tạo và phóng viên truyền hình. Ba là: Khảo sát các trường đào tạo chuyên ngành phóng viên truyền hình ở Việt Nam, rút ra những thành công, hạn chế và những vấn đề đặt ra. Bốn là: Thu thập ý kiến nhận xét, đánh giá của đại diện những người đang làm việc tại Đài truyền hình Việt Nam, một số đài truyền hình địa phương về chất lượng, hiệu quả và những yêu cầu đặt ra đối với phóng viên truyền hình trong bối cảnh hiện nay. Năm là: Tìm hiểu, đánh giá các yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo báo chí truyền hình ở một số quốc gia trên thế giới. Sáu là: Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo phóng viên truyền hình, tập trung vào các yếu tố đảm bảo chất lượng trong quy trình đào tạo của nhà trường. 3- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là chất lượng đào tạo phóng viên truyền hình ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án nghiên cứu quy trình đào tạo ngành báo chí chuyên ngành truyền hình ở trình độ cao đẳng và đại học, hình thức đào tạo chính quy tập trung. Các chương trình đào tạo chuyên ngành báo truyền hình được nghiên cứu áp dụng cho khóa học 2014-2017 (hệ cao đẳng) và 2014-2018 (hệ đại học). Các chương trình tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án. Đối với hoạt động đào tạo báo chí truyền hình ở nước ngoài, tác giả chỉ lựa chọn tham khảo một số quốc gia, tổ chức quốc tế có các yếu tố đảm bảo chất lượng đáng quan tâm nhằm tham chiếu với thực tiễn đào tạo của Việt Nam. 7 4- GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU: Giả thuyết thứ nhất: Trong nhiều thập kỷ qua, hoạt động đào tạo phóng viên truyền hình ở nước ta đã đạt được những kết quả nhất định cung cấp nguồn nhân lực cho các đài truyền hình trong cả nước. Tuy nhiên, thực tế nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về kỹ năng của phóng viên truyền hình. Tình hình đó cho thấy cần phải nhanh chóng xây dựng các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo phóng viên truyền hình, đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành truyền hình tại Việt Nam. Giả thuyết thứ hai: Sự bùng phát của công nghệ, kỹ thuật mới và sự vận động, phát triển mạnh mẽ của ngành truyền hình Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với phóng viên truyền hình. Trong bối cảnh đó, hoạt động đào tạo phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, gắn với thực tiễn. Theo đó, mục tiêu đào tạo và chuẩn đầu ra của chuyên ngành phóng viên truyền hình phải đáp ứng các yêu cầu cụ thể về phẩm chất nghề nghiệp, những tri thức cơ bản và kỹ năng chuyên nghiệp. Giả thuyết thứ ba: Nguyên tắc cơ bản của việc nâng cao chất lượng đào tạo phóng viên truyền hình là phải tạo nên một hoạt động đào tạo mềm dẻo, linh hoạt để thích ứng với sự thay đổi của thực tiễn nghề nghiệp. Trong đó, chương trình đào tạo được coi là yếu tố hạt nhân và phải được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố đảm bảo chất lượng trong quy trình đào tạo của nhà trường. 5- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 5.1. Phương pháp luận: Trong quá trình thực hiện luận án, tác giả sẽ sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, cụ thể là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về báo chí và về giáo dục-đào tạo; Lý thuyết về báo chí học (cơ sở lý luận báo chí, đặc trưng báo chí truyền hình...); Lý luận dạy học đại học; Nghiên cứu vấn đề chất lượng đào tạo phóng viên truyền hình trong bối cảnh hiện nay theo quan điểm hệ thống. 8 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài luận án thuộc lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng, vì vậy tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu thống kê, phân tích-tổng hợp, so sánh, nghiên cứu trường hợp, dự báo, phỏng vấn sâu, … . Cụ thể là: Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Được tiến hành với các công trình nghiên cứu khoa học, sách, giáo trình, tài liệu chuyên ngành thuộc lĩnh vực giáo dục đào tạo và báo chí ở trong nước, nước ngoài với mục đích khái quát, bổ sung hệ thống lý thuyết liên quan đến đề tài nghiên cứu. Phương pháp phân loại và hệ thống hóa: Được sử dụng để phân loại các tài liệu, công trình nghiên cứu khoa học khác nhau theo từng mặt cùng dấu hiệu bản chất và sắp xếp chúng trong một kết cấu theo mục đích nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu trường hợp: Dùng để phân tích các yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo chuyên ngành phóng viên truyền hình tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền; trường Cao đẳng Truyền hình, Đài THVN. Phương pháp so sánh: Áp dụng phương pháp này để so sánh triết lý đào tạo, nội dung, phương thức đào tạo báo chí truyền hình tại một số trường trong nước và quốc tế. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Dùng để phân tích, tổng hợp, đánh giá những kết quả nghiên cứu, góp phần xây dựng khung lý thuyết liên quan đến đề tài; Rút ra những thành công, hạn chế, những vấn đề đặt ra và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo phóng viên truyền hình. Phương pháp dự báo: Dự báo nguồn nhân lực ngành báo chí truyền hình trong xu thế phát triển dưới sự tác động của khoa học công nghệ và của bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Phương pháp phỏng vấn sâu: Tác giả sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu với hai nhóm đối tượng: * Thứ nhất: đại diện các lãnh đạo, nhà quản lý của một số đài phát thanh truyền hình (PTTH) ở trong nước nhằm thu thập các ý kiến đánh giá về ưu điểm, hạn chế của đội ngũ phóng viên (về kiến thức, kỹ năng, phẩm chất) cũng như những đề xuất của họ đối với công tác đào tạo phóng viên truyền hình. 9 * Thứ hai: đại diện giảng viên giảng dạy các môn chuyên ngành báo truyền hình tại các trường có đào tạo chuyên ngành này (chi tiết xin xem chương 2 và phụ lục 4). Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (Ankét): Tác giả sử dụng phiếu điều tra phát cho đối tượng là các phóng viên hiện đang công tác tại một số đài PTTH nhằm tìm ra các kết quả người học đánh giá chương trình đào tạo và thụ hưởng gì từ chương trình (Chi tiết xin xem chương 2; Mẫu phiếu và kết quả thống kê xin xem phụ lục 2 và 3). 6- Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN: Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa thiết thực đối với lý luận báo chí và đào tạo báo chí nói chung, đào tạo phóng viên truyền hình nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ phóng viên truyền hình, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Luận án sẽ góp phần quan trọng trong việc xây dựng khung lý thuyết về chất lượng đào tạo phóng viên truyền hình ở Việt Nam. Trên thế giới, mỗi quốc gia có một triết lý đào tạo riêng, từ đó chi phối hoạt động đào tạo. Nghiên cứu triết lý đào tạo của các quốc gia có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới và tìm ra những quan điểm mới để áp dụng xây dựng nội dung chương trình đào tạo cũng là một đóng góp về lý luận và thực tiễn đào tạo báo chí của luận án. Luận án sẽ đưa ra các giải pháp trong hoạt động đào tạo với những điều kiện để thực hiện một cách hiệu quả. Đó là các chương trình đào tạo, các yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo, các chuẩn đầu ra, hệ tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo. Nó sẽ đem lại giá trị thực tiễn cao trong đào tạo phóng viên truyền hình tại Việt Nam, góp phần đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho các đài/kênh truyền hình, các công ty truyền thông tham gia sản xuất chương trình truyền hình – những đơn vị hiện đang có nhu cầu lớn trong việc tiếp nhận chức danh phóng viên truyền hình. Bên cạnh đó, việc tìm ra, áp dụng triết lý đào tạo mới và xác định các yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo còn có giá trị làm cơ sở để nghiên cứu, áp dụng đào tạo các chức danh khác trong lĩnh vực báo chí – truyền thông. 10 Kết quả của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy ngành báo chí học tại các cơ sở đào tạo và nghiên cứu về báo chí. Đây cũng là nguồn tài liệu với các cứ liệu quan trọng được khảo sát, tổng hợp, phân tích, đánh giá từ thực tiễn trong nước và nước ngoài nhằm giúp các đơn vị chức năng định hướng hoạt động đào tạo báo chí. Lựa chọn nghiên cứu luận án: “Nâng cao chất lượng đào tạo phóng viên truyền hình ở Việt Nam hiện nay”, bên cạnh việc mong muốn đóng góp tri thức của mình vào việc nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ người làm báo hình ở nước ta, tác giả cũng mong muốn nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học của bản thân, áp dụng có hiệu quả vào quá trình công tác sau này. 7- KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN: Ngoài phần mở đầu, tổng quan, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung luận án gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề chất lượng đào tạo phóng viên truyền hình ở Việt Nam. Chương 2: Phương pháp nghiên cứu và kết quả khảo sát chất lượng đào tạo chuyên ngành phóng viên truyền hình ở Việt Nam. Chương 3: Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo phóng viên truyền hình ở Việt Nam. 11 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1. NHỮNG NGHIÊN CỨU ĐỀ CẬP ĐẾN TRIẾT LÝ ĐÀO TẠO, MÔ HÌNH ĐÀO TẠO “Secrets of success”, Philip Altbach (2005), the director of the Centre for International Higher Education at Boston College, (The Economist, September 10th 2005): Tác giả đã tìm ra triết lý giáo dục bậc cao của Hoa Kỳ, dẫn đến sự thành công trong giáo dục đào tạo của họ. Theo đó, nguyên tắc hàng đầu là chính quyền liên bang chỉ đóng một vai trò hạn chế. Nước Mỹ không có một quy hoạch trung ương cho các trường đại học của họ. “Hệ thống giáo dục bậc cao của Hoa Kỳ tốt nhất thế giới. Lý do là vì không có hệ thống nào cả”. Các đạo luật chỉ nhằm mở đường đến đại học cho mọi tầng lớp xã hội, và họ không ngừng đầu tư tài chính cho nghiên cứu khoa học. Đồng thời, các đại học được tự do kéo tài trợ cho các hoạt động của mình. Nguyên tắc thứ hai là sự cạnh tranh. Các trường đại học phải cạnh tranh nhau về mọi mặt, từ số lượng sinh viên cho đến số lượng giáo sư. Các giáo sư cạnh tranh để giành các khoản tài trợ nghiên cứu của liên bang. Các sinh viên cạnh tranh để giành học bổng. Điều này có nghĩa là các trường, nếu muốn thành công, thì không thể ỷ lại vào ánh hào quang của bản thân. Nguyên tắc thứ ba là miễn sao có lợi. Quan điểm nhấn mạnh vào việc “đem lại lợi nhuận” hiện vẫn là một nét văn hóa chi phối trong các học viện. Tuy nhiên, điểm nổi bật của hệ thống đào tạo này bao gồm tính linh hoạt và tính đa dạng không giới hạn. “Đào tạo truyền thông ở Đông Nam Á”, PGS.TS. Vũ Quang Hào (Báo chí Những vấn đề lý luận và thực tiễn – tập V, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2005): Tác giả công bố những nghiên cứu về hoạt động truyền thông, đào tạo truyền thông của một số nước trong khu vực, bao gồm: Singapore, Malaysia, Thái Lan. Nghiên cứu này không đi sâu phân tích chương trình đào tạo cụ thể. Tuy nhiên, tác giả đã tìm ra và khái quát những nét đặc thù trong đào tạo ở mỗi nước. Những tổng kết được rút ra từ mô hình đào tạo ở các quốc gia này là: Chương 12 trình đào tạo nặng về chuyên ngành, chú trọng đào tạo kỹ năng; Sự gắn kết giữa đào tạo truyền thông và nghiên cứu truyền thông; Chú trọng đào tạo nâng cao trình độ giảng viên; Rất quan tâm việc kết hợp với các cơ sở truyền thông trong quá trình thực tập nghiệp vụ của sinh viên; Cập nhật nội dung đào tạo theo sự thay đổi của bức tranh truyền thông ở mỗi nước. “Hệ thống đào tạo theo tín chỉ Mỹ và những gợi ý cho cải cách giáo dục đại học Việt Nam”, TS. Eli Mazur & TS. Phạm Thị Ly, (Bản tin “Giáo dục quốc tế” số 2-2006, Trung tâm Nghiên cứu và Giao lưu Văn hoá Giáo dục Quốc tế, Viện Nghiên cứu Giáo dục- Trường Đại học Sư phạm TP HCM): Các tác giả đã có những phân tích sâu sắc về tính phi tập trung hóa rất cao của nền giáo dục Hoa Kỳ. “Phần lớn sinh viên có thể dùng quyền tự do của mình để theo đuổi những bộ môn mà mình quan tâm và có được một bằng cấp phù hợp. Chính quyền liên bang và chính quyền bang không có vai trò gì đáng kể trong việc quyết định trường nào hay chương trình học nào là được công nhận. Mặc dù ngân sách liên bang trợ cấp cho sinh viên vay nợ và tài trợ cho việc nghiên cứu của đại học đều dựa trên điều kiện trường đó - kể cả trường công- phải được công nhận bởi một trong mười chín tổ chức kiểm định có uy tín quốc gia, những tổ chức này cũng không trực thuộc Nhà nước; họ sử dụng các chuyên gia trong từng lãnh vực để đánh giá các chương trình giảng dạy nhằm đảm bảo chất lượng”. Với triết lý giáo dục này, các đại học Mỹ xây dựng chương trình đào tạo với một số môn nòng cốt (bắt buộc), còn lại định hướng sinh viên tự chọn môn học, chuyên ngành theo vấn đề mà họ quan tâm. Các trường đại học tại quốc gia này vừa chú trọng giáo dục tổng quát vừa khuyến khích người học đi sâu nghiên cứu các chuyên ngành hẹp, đặc biệt là những công nghệ của tương lai. “Các mô hình quản lý và kiểm định chất lượng giáo dục đại học”, PGS.TS. Lê Đức Ngọc, Tập bài giảng giáo dục đại học, Học viện Quản lý giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội, 2006, tr.241-287: Bên cạnh hệ thống lại các khái niệm liên quan đến giáo dục đào tạo, tác giả khái quát các mô hình quản lý chất lượng ứng dụng trong đào tạo, trong đó nhấn mạnh tính phù hợp của mô hình quản lý Tổng thể (Total Quality Management-TQM) trong giáo dục. Ngoài ra, 13 tác giả đi sâu phân tích Kiểm định chất lượng giáo dục với các nội dung về quy trình kiểm định, phân biệt tự đánh giá và đánh giá ngoài trong kiểm định. Điểm kế thừa từ nghiên cứu này là sự phân biệt giữa các khái niệm liên quan đến đào tạo như: kiểm định chất lượng, đánh giá chất lượng… . “Model curricula for journalism education”, (UNESCO’s series on journalism education, Paris, 2007): Đây là bộ chương trình đào tạo báo chí được công bố bởi UNESCO. Triết lý đào tạo dùng để thiết kế chương trình dựa trên 3 trục phát triển: 1) Các chỉ tiêu, các giá trị, các công cụ, các tiêu chuẩn và thực tiễn của báo chí (Cung cấp các kiến thức cốt lõi về kỹ năng nghề báo chuyên nghiệp). 2) Nhấn mạnh các lĩnh vực xã hội, văn hóa, chính trị, kinh tế, pháp lý và đạo đức hành nghề trong và ngoài biên giới quốc gia (Sinh viên được trang bị kiến thức nhằm củng cố tính chuyên nghiệp thông qua sự hiểu biết về tính dân chủ và các ràng buộc về pháp lý, đạo đức). 3) Kiến thức về thế giới và những thách thức đặt ra của báo chí (Với quan điểm, báo chí không phải là một môn học độc lập, chương trình thiết kế nhằm kết hợp đào tạo trong các lĩnh vực nghệ thuật và khoa học, khuyến khích đào tạo báo chí hướng người học nghiên cứu mở rộng sang các lĩnh vực khác, tiếp cận thêm những tri thức hiện đại). Chương trình đào tạo được khuyến cáo hạn chế giảng dạy trên lớp mà hướng tới các hoạt động thực hành nghề. Mục tiêu đầu tiên là để đào tạo ra những nhà báo có các kỹ năng tổng hợp và làm chủ kiến thức, suy nghĩ để phân tích sự việc. Mục tiêu thứ hai: Phát triển năng lực trí tuệ. Điều đó có được từ kiến thức cơ sở báo chí và kiến thức chung về nghệ thuật, khoa học nhưng đồng thời bao gồm kiến thức ở những lĩnh vực chuyên ngành. Có thể nói, tư duy thiết kế chương trình có xu hướng tiệm cận với các triết lý giáo dục đào tạo của các nước phát triển, nhằm khuyến khích sự năng động, tích cực của người học, từ đó phát huy tính tự chủ, khả năng sáng tạo của họ. “Dạy và học báo ở Pháp”, Lê Hồng Quang, (Ghi nhận từ các khóa đào tạo trong khuôn khổ Dự án Pháp – Việt, Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí Hội Nhà báo Việt Nam, Hà Nội, 2007, tr.69-82): Bản thân tác giả học báo chí tại đại học Lille (Pháp) đã tổng kết lại phương pháp dạy làm báo ở đây là dạy nghề. 14 “Làm báo là làm thợ, chứ không phải là làm nghiên cứu”. Giảng viên dạy làm truyền hình là những nhà báo làm truyền hình. Họ đào tạo theo hướng trang bị kỹ năng thực hành ngay từ ngày đầu tiên. Bí quyết là dạy sinh viên nhớ kỹ năng từ những thất bại và phát huy kỹ năng làm việc theo nhóm – một kỹ năng tối quan trọng của người làm truyền hình. “Về phổ chất lượng đào tạo đại học”, GS.TSKH. Nguyễn Tài, (Tạp chí Xây dựng, số tháng 9/2007, tr.44-47): Theo tác giả, phải có các phổ chất lượng phù hợp với sự phân tầng giáo dục đại học: Loại có chất lượng hướng về nghiên cứu; Loại có chất lượng hướng về kỹ năng nghề nghiệp hướng thực hành; Loại có chất lượng thiên về những khả năng hành động sát với những vấn đề cần giải quyết của cộng đồng. Từ đó, tác giả phân tích những bất cập trong việc xác định mục tiêu đào tạo của các trường, dẫn đến chất lượng đào tạo không đạt yêu cầu. Với sự phát triển vũ bão của khoa học và công nghệ, khối lượng kiến thức ngày một đồ sộ. Do vậy, không thể xây dựng chương trình đào tạo cung cấp toàn bộ kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên. Điều quan trọng là đào tạo sinh viên có kiến thức, kỹ năng đạt đến trình độ làm nền tảng để họ tự chủ tiếp thu kiến thức khoa học mới. Giáo dục đại trà cần phải bỏ bớt các môn mang tính hàn lâm, tinh hoa để hướng tới một khối lượng kiến thức giáo dục tổng quát, phù hợp với “Thông điệp hướng dẫn tư duy về giáo dục trong thế kỷ 21” của UNESCO: Học để biết, học để làm, học để sống với nhau, học để làm người. Nghiên cứu này rất có ý nghĩa khi tiếp cận từ phổ chất lượng đào tạo đại học đến mục tiêu đào tạo trong phân tầng giáo dục đại học. Những đề xuất về giáo dục tổng quát rất có giá trị đối với giáo dục đại học nói chung, đào tạo báo chí nói riêng. “Báo chí thế giới và xu hướng phát triển”, PGS.TS. Đinh Thị Thúy Hằng, NXB Thông Tấn, Hà Nội, 2008: Đúng như lời mở đầu, “cuốn sách giới thiệu những lý luận, khái niệm, phạm trù và hoạt động báo chí thế giới đang được phổ biến tại các trường đại học trên thế giới và trong giới nghiên cứu báo chí”. Tác giả đã có những nghiên cứu về hiện trạng báo chí thế giới ở nhiều quốc gia, điển hình như Trung Quốc, Australia, và hệ thống phát thanh truyền hình BBC (Anh), đặc biệt là những nghiên cứu sâu sắc về “Hội tụ truyền thông” – coi đó là một xu 15 thế phát triển của báo chí thế giới. Những dự báo, nhận định của tác giả đã xuất hiện trong thực tiễn về sự bành trướng của các tập đoàn truyền thông, hội tụ của các loại hình báo chí, đa phương tiện báo chí, địa phương hóa thông tin báo chí. Tác giả chỉ ra những thách thức đối với báo chí Việt Nam, những đòi hỏi đối với nhà báo trong xu thế phát triển của báo chí. “50 năm đào tạo báo chí – truyền thông ở Thụy Điển”, TS Hakan Lindhoff, Giám đốc chương trình đào tạo báo chí bậc đại học (Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học Tổng hợp Stocholm, Thuỵ Điển), website: Songtre.tv, Chi hội nhà báo khoa Phát thanh truyền hình, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, (21/9/2008): Trong lịch sử đào tạo báo chí Thụy Điển, việc đào tạo được phân tách thành hai mảng lý thuyết và thực hành trong chương trình đào tạo báo chí dưới bậc cử nhân- năm đầu tiên học lý luận về báo chí (kết hợp với giảng dạy về truyền thông); năm tiếp theo học thực hành báo chí; nửa năm sau đó, hợp tác với các cơ quan truyền thông; nửa năm cuối cùng làm luận văn cử nhân. Tác giả đã rút ra 8 bài học ngắn gọn về quá trình đào tạo báo chí ở Thụy Điển, trong đó chú trọng việc giảng dạy lý thuyết gắn với thực hành, xem xét tới sự phát triển của công nghệ thông tin, xem xét vai trò của thị trường và xu thế toàn cầu hóa. “Đào tạo đại học chuyên ngành trong thời đại hội nhập truyền thông: Thực tiễn bản địa và đối thoại toàn cầu”, PGS. TS. Vương Hiểu Hồng & TS. Ngô Vĩ Hoa, Đại học Truyền thông Trung Quốc, website: Songtre.tv (21/9/2008): Những bài học kinh nghiệm trong quá trình tổ chức đào tạo các chuyên ngành (điển hình là phát thanh truyền hình), đó là sự thích ứng nhanh với nhu cầu đào tạo của xã hội để xây dựng chương trình đào tạo, hình thức đào tạo, nội dung đào tạo sát thực tiễn, kết hợp việc mời giảng viên giàu kinh nghiệm trong và ngoài nước giảng dạy. Đặc biệt, các tác giả đưa ra 4 yêu cầu để xây dựng đại học chuyên ngành là: Xây dựng cơ sở hạ tầng cho giảng dạy và nghiên cứu khoa học; Sự kiên trì và sáng tạo của mô hình giảng dạy tác động lẫn nhau và cơ chế hợp tác nghiên cứu; Mặt bằng thực tiễn hiện đại: mặt bằng giảng dạy thực tiễn đã thể hiện đầy đủ sức mạnh khoa học kỹ thuật và tinh thần nhân văn của truyền thông hội nhập thời đại; Kết hợp giữa hệ thống giảng dạy nghiêm ngặt với thiết chế
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan