Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt thành phố hà tĩn...

Tài liệu Nâng cao chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt thành phố hà tĩnh hiện nay

.PDF
99
835
110

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------ HỒ THỊ HƯƠNG GIANG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUY HOẠCH CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHỦ CHỐT THÀNH PHỐ HÀ TĨNH HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC Hà Nội - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------ HỒ THỊ HƯƠNG GIANG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUY HOẠCH CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHỦ CHỐT THÀNH PHỐ HÀ TĨNH HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Chính trị học Mã số: 60 31 02 01 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Minh Quân Hà Nội - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Lê Minh Quân. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Hồ Thị Hương Giang i MỤC LỤC MỞ ĐẦU .........................................................................................................1 Chương 1. MỘT SÔ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUY HOẠCH CÁN BỘ VÀ CHẤT LƯỢNG QUY HOẠCH CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHỦ CHỐT ................................................................................8 1.1. Cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt và quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ...............................................................................................8 1.2. Chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, chủ chốt và tiêu chí đánh giá chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, chủ chốt .............................................19 Chương 2. QUY HOẠCH CÁN BỘ VÀ CHẤT LƯỢNG QUY HOẠCH CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHỦ CHỐT Ở THÀNH PHỐ HÀ TĨNH HIỆN NAY ..........................................................32 2.1. Khái quát về Thành phố Hà Tĩnh, đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở Thành phố Hà Tĩnh và công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở Thành phố Hà Tĩnh hiện nay ............................................32 2.2. Đánh giá chất lượng và kết quả quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở Thành phố Hà Tĩnh hiện nay .........................................................41 Chương 3. NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUY HOẠCH CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHỦ CHỐT Ở THÀNH Ở PHỐ HÀ TĨNH HIỆN NAY ...........................53 3.1. Những quan điểm về nâng cao chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở Thành phố Hà Tĩnh ...........................................................53 3.2. Những giải pháp về nâng cao chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở Thành phố Hà Tĩnh hiện nay ............................................59 KẾT LUẬN .....................................................................................................83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................85 PHỤ LỤC........................................................................................................88 ii NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNXH : Chủ nghĩa xã hội HĐND : Hội đồng nhân dân HTCT : Hệ thống chính trị UBND : Ủy ban nhân dân UBMTTQ : Ủy ban Mặt trận Tổ quốc XHCN : Xã hội chủ nghĩa iii MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đánh giá vai trò của cán bộ, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc"[3, tr.269]; "Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém" [31, tr.240]. Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng đều khẳng định và đánh giá rất cao vai trò đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII) của Đảng xác định: Cán bộ có vai trò cực kỳ quan trọng, hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình đổi mới; Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước nhấn mạnh: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng" [20, tr.66]. Từ đó, Đảng, Nhà nước ta đã tập trung nhiều công sức xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, các lĩnh vực ngày càng lớn mạnh. Trong quá trình đó, cùng với các khâu khác trong công tác cán bộ, quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu, đảm bảo cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Tổng kết thực hiện ba nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương khóa VII và khoá VIII về công tác tổ chức và cán bộ, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX) đã đề ra nhiệm vụ: Tăng cường công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo và quản lý. Đặc biệt quan tâm tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý trẻ có thành tích xuất sắc, những cán bộ xuất thân công nhân, con em công nông, gia đình có công với cách mạng, cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ nữ. Trên cơ sở quy hoạch, đẩy mạnh việc đào tạo, đào tạo lại cán bộ theo chức danh và cán bộ dự nguồn. Tháng 11 năm 2004, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá IX) đã ban hành Nghị quyết số 42 - NQ/TW về 1 Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đây là lần đầu tiên Đảng ta ban hành một nghị quyết chuyên đề quan trọng về công tác quy hoạch cán bộ. Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, và các văn bản hướng dẫn của Tỉnh ủy, Trung ương, Ban Thường vụ Thành ủy Hà Tĩnh đã ban hành các nghị quyết, hướng dẫn về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong Thành phố. Qua thực hiện, công tác quy hoạch cán bộ đã có bước chuyển biến rõ nét về nhận thức và đạt được những kết quả: các ban, ngành, đoàn thể cấp thành phố và các xã, phường, đảng ủy trực thuộc đã tiến hành xây dựng quy hoạch cán bộ, đồng thời, chỉ đạo cấp dưới tiến hành quy hoạch cán bộ đối với các chức danh đã phân cấp. Quy hoạch cán bộ nhìn chung đã được các đơn vị thực hiện theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, khách quan, công khai, thực hiện theo đúng quy trình, phương châm, tạo được nguồn cán bộ, góp phần khắc phục dần tình trạng bị động, lúng túng trong công tác cán bộ. Tuy nhiên, công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý của Thành phố cũng còn những thiếu sót, khuyết điểm: còn tình trạng khép kín trong công tác quy hoạch cán bộ; tình trạng hẫng hụt cán bộ lãnh đạo, quản lý xảy ra ở một số nơi; chất lượng cán bộ trong quy hoạch chưa cao; chưa khắc phục tình trạng bị động, lúng túng trong lựa chọn nhân sự, v.v.. Thực tiễn công tác cán bộ và công tác quy hoạch cán bộ ở Thành phố Hà Tĩnh nói chung, quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy Hà Tĩnh quản lý nói riêng hiện nay đòi hỏi phải làm tốt công tác quy hoạch cán bộ đáp ứng được yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt Thành phố Hà hiện nay” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học của mình. 2 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn Những năm gần đây, công tác quy hoạch cán bộ đã được nhiều địa phương, nhiều cơ quan và nhiều nhà nghiên cứu đề cập. Nhiều đề tài khoa học, luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ và các công trình nghiên cứu khác đã được nghiệm thu, công bố, đăng trên sách, báo, tạp chí chuyên ngành. a) Các đề tài khoa học: Đề tài khoa học cấp nhà nước (2005), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, do PGS.TS Trần Đình Hoan làm chủ nhiệm. b) Sách: TS. Đỗ Minh Cương (2009), Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, Nxb CTQG, Hà Nội. c) Các bài Tạp chí khoa học: PGS.TS Tô Huy Rứa (1998), Đào tạo, bồi dưỡng phục vụ tốt công tác quy hoạch cán bộ, Tạp chí Cộng sản, số 21. Chu Văn Rỵ (1997), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, trước hết là người đứng đầu, Tạp chí Cộng sản, số 5. Trần Phước Hường (1998), Tính cấp thiết của vấn đề quy hoạch cán bộ Thành phố Đà Nẵng hiện nay, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9. Nguyễn Văn An (1998), Tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng, làm tốt quy hoạch cán bộ là nhiệm vụ trọng yếu của công tác xây dựng Đảng về tổ chức trong năm 1998, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 3. PGS.TS Tô Huy Rứa (1997), Xây dựng và thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ thời kỳ đổi mới, Tạp chí Cộng sản, số 3. PGS Lê Văn Lý (1999), Quan niệm khoa học về quy hoạch cán bộ- lịch sử vấn đề và quá trình tiếp cận vấn đề, Tạp chí Thông tin lý luận, số 6. PGS.TS Tô Huy Rứa (1999), Xây dựng và thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ trong thời kỳ mới, Tạp chí Cộng sản, số 3. TS. Ngô Kim Ngân (2002), Công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị- một số giải 3 pháp chủ yếu, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6. Hà Đăng (2003), Về vấn đề cán bộ và quy hoạch cán bộ, Tạp chí Cộng sản, số 8. PGS.TS Trần Đình Hoan (2003), Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Tạp chí Cộng sản, số 33. TS. Nguyễn Duy Hùng (2003), Mối quan hệ giữa đánh giá, quy hoạch, đào tạo và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5. Nguyễn Phương Hồng (2005), Về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, Tạp chí Cộng sản, số 4. PGS.TS Nguyễn Trọng Điều (2005), Về đánh giá, quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 20/2005. c) Các luận văn, luận án: Trần Đình Thấu (2000), Công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Tỉnh ủy quản lý ở tỉnh Đồng Nai, Luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Thái Sơn (2002), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Luận án Tiến sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Trương Thị Mỹ Trang (2004), “Quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị các xã ở tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Thị Lan (2005), Công tác quy hoạch tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý của Thành phố Hồ Chí Minh- thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Trần Cát Điền (2005), Công tác quy hoạch cán bộ chủ chốt cấp quận thuộc diện thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh quản lý trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Thị Thắng (2006), Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp quận, huyện thuộc diện 4 Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Ngọc Lâm (2006), Quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý ở các tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc nước ta giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Hoàng Nguyên Hoà (2007), Chất lượng quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ nước ta giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Trần Thị Thanh Nhàn (2007), Quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ Quận ủy Hoàng Mai,Thành phố Hà Nội quản lý giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Phạm Minh Phúc (2008), Công tác quy hoạch cán bộ chủ chốt diện Ban Thường vụ Thành ủy Thành phố Cần Thơ quản lý trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Các đề tài khoa học, sách, bài tạp chí, luận văn, luận án trên đã làm rõ những cơ sở khoa học chung của công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý và đưa ra các giải pháp có tính giai đoạn (chủ yếu phù hợp với giai đoạn trước đây). Còn công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý giai đoạn hiện nay của Thành phố Hà Tĩnh chưa được tổng kết và chưa có đề tài nghiên cứu để rút ra những kinh nghiệm, xác định cơ sở khoa học, làm rõ các quan điểm, nhận thức và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ của Đảng bộ Thành phố nói chung và quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy Hà Tĩnh quản lý nói riêng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH của Thành phố. 5 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Trên cơ sở làm rõ những căn cứ lý luận và thực tiễn cơ bản, cần thiết và có liên quan, luận văn đề xuất một số phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy Hà Tĩnh quản lý giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ - Làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác cán bộ và quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy Hà Tĩnh quản lý. - Đánh giá thực trạng công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy Hà Tĩnh quản lý thời gian qua (từ năm 2010 đến nay). - Xác định phương hướng cơ bản và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy Hà Tĩnh quản lý giai đoạn hiện nay (2011 - 2015) và những năm tiếp theo. 3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là vấn đề chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở Thành phố Hà Tĩnh hiện nay. Khách thể nghiên cứu là công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở Thành phố Hà Tĩnh hiện nay; là đội ngũ cán bộ trong diện quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy Hà Tĩnh quản lý và công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ này giai đoạn hiện nay. Các chức danh bao gồm: Ủy viên BCH Đảng bộ thành phố; Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy; Trưởng ban, phó trưởng ban các ban đảng Thành ủy và tương đương; Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, UBND thành phố; Chủ tịch, Phó chủ tịch UBMTTQVN thành phố; cấp trưởng, cấp phó các đoàn thể chính trị - xã hội cấp thành phố; Bí thư, Phó bí thư của các xã, phường; Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, UBND các xã, phường. 6 Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu vấn đề quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy Hà Tĩnh quản lý từ 2010 đến nay, nhất là quy hoạch Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và các chức danh chủ chốt cấp thành phố, cấp xã, phường nhiệm kỳ 2010 - 2015. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận văn vận dụng những nguyên lý, lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ nói chung và công tác quy hoạch cán bộ nói riêng; các nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh, của Thành ủy Hà Tĩnh về cán bộ và quy hoạch cán bộ. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng tổng hợp các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp lô gíc và lịch sử đồng thời chú trọng phương pháp tổng kết kinh nghiệm, điều tra, khảo sát, thống kê, tổng hợp và phương pháp phân tích số liệu, tổng kết thực tiễn. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt Thành phố Hà Tĩnh quản lý giai đoạn hiện nay. Làm rõ chất lượng và tiêu chí đánh giá chất lượng công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt Thành phố Hà Tĩnh quản lý giai đoạn hiện nay. Nêu những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt Thành phố Hà Tĩnh quản lý giai đoạn hiện nay và những năm tới. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kiến nghị, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. 7 Chương 1 MỘT SÔ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUY HOẠCH CÁN BỘ VÀ CHẤT LƯỢNG QUY HOẠCH CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHỦ CHỐT 1.1. Cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt và quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt 1.1.1. Khái niệm cán bộ và cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt; quy hoạch cán bộ và quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt Theo Từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 1998, cán bộ có hai nghĩa “1- Người làm công tác có nghiệp vụ, chuyên môn trong cơ quan nhà nước; 2- Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường không có chức vụ” [34, tr. 105]. Theo Điều 1 của Pháp lệnh Công chức do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 9/3/1998 thì: “Cán bộ, công chức là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách”. Từ những quan niệm trên có thể hiểu “cán bộ” là khái niệm dùng để chỉ những người ở trong cơ cấu của một tổ chức nhất định, có trọng trách hoàn thành nhiệm vụ theo chức năng được tổ chức đó phân công. Có nhiều quan niệm về cán bộ, nhưng tựu trung lại, có hai cách hiểu cơ bản: Một là, cán bộ bao gồm những người trong biên chế nhà nước, làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị xã hội, các doanh nghiệp nhà nước và các lực lượng vũ trang nhân dân từ Trung ương đến địa phương và cơ sở. Hai là, cán bộ là những người giữ chức vụ trong một cơ quan hay một tổ chức để phân biệt với người không có chức vụ. Từ những khái niệm về cán bộ nêu trên cho thấy, người cán bộ có bốn đặc trưng cơ bản: - Cán bộ được sự ủy nhiệm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức khác trong HTCT, v.v. lấy danh nghĩa của các tổ chức đó để hoạt động. Cán bộ giữ một chức vụ, một trọng trách nào đó trong một tổ chức của 8 HTCT. - Cán bộ phải thông qua tuyển chọn hay phân công công tác sau khi hoàn thành chương trình đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề; cán bộ được bổ nhiệm, đề bạt hoặc bầu cử. - Cán bộ được hưởng lương và chính sách đãi ngộ căn cứ vào nội dung, chất lượng hoạt động và thời gian công tác của họ. Như vậy, hiểu theo nghĩa chung nhất, cán bộ là người lãnh đạo, quản lý hoặc người làm chuyên môn, nhà khoa học hay công chức, viên chức làm việc, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn khác. Họ được hình thành từ tuyển dụng, phân công công tác sau khi tốt nghiệp ra trường, từ bổ nhiệm, đề bạt hoặc bầu cử. Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về cán bộ hết sức khái quát, giản dị và dễ hiểu. Theo Người: "Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng" [30]. Luật cán bộ, công chức năm 2008, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 đã quy định phân biệt rõ nét hơn ai là cán bộ, và ai là công chức, thể hiện ở Điều 4 như sau: 1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. 2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị Công an nhân 9 dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. 3. Cán bộ xã, phường, thị trấn là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực HĐND, UBND, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.” - Cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt: là những người có chức vụ, có vai trò nòng cốt trong hệ thống chính trị, có tác động, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của hệ thống chính trị, góp phần quyết định vào sự nghiệp xây dựng và phát triển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng… ở địa phương. Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt là việc lập dự án xây dựng đội ngũ cán bộ, dự kiến bố trí, sắp xếp tổng thể đội ngũ cán bộ theo một ý đồ nhất định, làm cơ sở lập kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ đó đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thành phố giai đoạn hiện nay. Cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt Thành phố Hà Tĩnh quản lý là những đồng chí: Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy; Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, UBND Thành phố; trưởng, phó các ban Đảng và tương đương; Chủ tịch, Phó chủ tịch UBMTTQVN Thành phố; cấp trưởng, cấp phó các đoàn thể chính trị - xã hội cấp Thành phố; Bí thư, Phó bí thư của các xã, phường; Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, UBND các xã, phường. 10 1.1.2. Nguyên tắc, phương châm và quy trình quy hoạch cán bộ và quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt 1.1.2.1. Nguyên tắc quy hoạch cán bộ và quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt Xuất phát từ những quan điểm cơ bản về công tác cán bộ của Đảng ta hiện nay, việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị và tổ chức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Công tác cán bộ phải dựa trên quan điểm giai cấp công nhân; giữ vững nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ; nguyên tắc tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tôn trọng pháp luật và điều lệ của các tổ chức; phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị. Nghị quyết số 42 - NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác quy hoạch cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đã nêu rõ các nguyên tắc trong công tác quy hoạch cán bộ. Vận dụng các nguyên tắc vào công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, chủ chốt Thành phố Hà Tĩnh quản lý, phải đảm bảo các vấn đề chủ yếu sau: Công tác quy hoạch cán bộ phải đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Thành ủy, đồng thời phát huy vai trò của chính quyền và các đoàn thể, trên cơ sở mở rộng dân chủ, công khai: Giữ vững nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý toàn diện công tác cán bộ là yếu tố quan trọng trong công tác quy hoạch cán bộ. Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở Thành phố Hà Tĩnh phải do Thành ủy trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, đồng thời phát huy vai trò, quyền hạn của các tổ chức trong hệ thống chính trị; trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu, của cơ quan tham mưu về công tác cán bộ; phát huy dân chủ của cán bộ, công chức, quần chúng nhân dân, tính tích cực cá nhân trong quá trình quy hoạch. 11 Phát huy và kế thừa những kết quả đã đạt được trong công tác quy hoạch cán bộ của Thành phố trong những năm qua. Quy hoạch cán bộ phải được tiến hành dân chủ và công khai trong phạm vi rộng để cán bộ, đảng viên, quần chúng giám sát, giúp đỡ cán bộ đã được quy hoạch; cán bộ trong quy hoạch có điều kiện phấn đấu, rèn luyện tốt hơn. Công khai từ khâu tuyển chọn nguồn cán bộ đưa vào quy hoạch đến quá trình đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện thực tiễn và bố trí, sử dụng cán bộ. Dân chủ trong quy hoạch cán bộ là thực hiện từ quy trình thăm dò đề cử cán bộ vào quy hoạch, công khai quy hoạch và kết quả đánh giá quá trình phấn đấu của từng cán bộ trong quy hoạch để cho toàn thể cán bộ, quần chúng được biết. Muốn vậy, Thành ủy phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thường xuyên cán bộ trong quy hoạch, chú ý lắng nghe ý kiến đánh giá, nhận xét của quần chúng đối với cán bộ để giúp họ khắc phục những hạn chế, khuyết điểm và cũng qua đó để đánh giá đúng cán bộ. Cần cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ thành các quy chế, chế độ trong quy hoạch cán bộ. Xác định rõ trách nhiệm của cấp ủy, thường vụ, người đứng đầu cơ quan tham mưu về công tác cán bộ. Xác định rõ mối quan hệ giữa Thành ủy, UBND Thành phố, UBMT Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội Thành phố trong quy trình thực hiện quy hoạch đối với từng loại cán bộ. Đây là vấn đề khó, cần có sự sáng tạo trong quá trình xây dựng quy hoạch và sự nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm. Công khai trong công tác quy hoạch cán bộ bao gồm: công khai kết quả đánh giá cán bộ để đưa vào dự nguồn, công khai quy trình tuyển chọn cán bộ và công khai quy hoạch. Việc công khai các khâu trên có lợi là tạo điều kiện cho mọi người đều có thể biết và tham gia vào công tác nhận xét, đánh giá, kiểm tra, giám sát cán bộ. Để từ đó nâng cao chất lượng cán bộ đưa vào quy hoạch và đây cũng là cơ hội tốt để cán bộ nhìn lại mình mà có hướng phấn đấu, phát huy những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm. 12 Quy hoạch cán bộ phải xuất phát từ tình hình thực tiễn và dự báo được yêu cầu phát triển của Thành phố, nắm chắc đội ngũ cán bộ hiện có: Nắm chắc tình hình của Thành phố và dự báo nhu cầu phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước, của Tỉnh, của Thành phố có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo nguồn cán bộ, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài. Dự báo trước được về nhu cầu cán bộ, qua đó Thành ủy chủ động tìm nguồn cán bộ, dự kiến kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để trong một thời gian nhất định, Thành phố xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Dự báo sai nhu cầu phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội sẽ dẫn tới việc tìm nguồn và đào tạo ra được những cán bộ không đáp ứng được yêu cầu. Điều đó, không chỉ gây lãng phí lớn mà còn gây ra những tác hại nghiệm trọng, làm trầm trọng hơn tình trạng hẫng hụt cán bộ. Để làm tốt công tác này, Thành ủy, Ban Thường vụ Thành ủy, người đứng đầu các ban, ngành về công tác tổ chức và cán bộ phải luôn được nâng cao trình độ để có được tầm nhìn chiến lược trong công tác cán bộ. Quy hoạch cán bộ phải đảm bảo tính khoa học và tính thực tiễn: Quy hoạch cán bộ là công tác về con người, do đó, nó chỉ đạt được hiệu quả cao nhất nếu biết kết hợp tốt giữa tính khoa học và tính thực tiễn. Tính khoa học trong công tác quy hoạch thể hiện ở các quy trình đánh giá, lựa chọn, giới thiệu, quyết định nguồn cán bộ đưa vào quy hoạch. Quy trình này gồm các bước được thực hiện chặt chẽ và gắn kết với nhau. Vì thế, trong quá trình thực hiện không được bỏ qua một bước nào thì công việc mới đạt hiệu quả. Tuy vậy, thực tế cuộc sống cho thấy, có nhiều yếu tố thực tiễn sẽ tác động, chi phối, ảnh hưởng đến công tác xây dựng và quyết định quy hoạch. Công tác quy hoạch cán bộ được thực hiện theo quy trình, nhưng thực tế cho thấy, có nhiều cán bộ được đánh giá là tốt khi đưa vào quy hoạch, nhưng đã không phát huy được tác dụng và sau một thời gian phải đưa ra khỏi quy 13 hoạch. Có những cán bộ có năng lực công tác và sức khoẻ tốt, nhưng vì tuổi cao nên đã không được xét duyệt đưa vào quy hoạch, gây ra những nỗi bức xúc trong cán bộ, chưa phù hợp với tình hình cụ thể. Vì thế, công tác quy hoạch không nên quá cứng nhắc, máy móc mà phải linh hoạt, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể. Muốn vậy, yếu tố quyết định là phải nắm chắc, hiểu rõ cán bộ và đội ngũ cán bộ để không đưa nhầm người không xứng đáng vào quy hoạch hoặc bỏ sót người xứng đáng. 1.1.2.2. Phương châm quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở Thành phố Hà Tĩnh Theo Nghị quyết 42 - NQ - TW của Bộ Chính trị, quy hoạch cán bộ phải thực sự gắn kết với các khâu khác trong công tác cán bộ như: nhận xét, đánh giá cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân chuyển, sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ. Đánh giá đúng cán bộ là khâu quan trọng nhất, là tiền đề cho việc bố trí cán bộ và cho quy hoạch cán bộ; đồng thời quy hoạch cán bộ là cơ sở để thực hiện luân chuyển, đào tạo cán bộ cho nhu cầu trước mắt và lâu dài. Theo đó: - Thực hiện quy hoạch “động” và “mở”: một chức danh có thể quy hoạch nhiều người và một người có thể quy hoạch nhiều chức danh; quy hoạch phải luôn được xem xét, đánh giá để bổ sung, điều chỉnh hằng năm, đưa ra khỏi quy hoạch những người không còn đủ tiêu chuẩn và điều kiện, bổ sung vào quy hoạch những nhân tố mới có triển vọng. - Quy hoạch cán bộ phải đồng bộ từ trên xuống dưới; cấp trên chỉ đạo, hướng dẫn cấp dưới quy hoạch cán bộ, lấy quy hoạch cán bộ cấp dưới làm cơ sở cho quy hoạch cán bộ cấp trên; quy hoạch cấp trên thúc đẩy quy hoạch cấp dưới. - Quy hoạch cán bộ phải mang tính khoa học và thực tiễn, vừa tạo nguồn cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, vừa tạo động lực thúc đẩy, phát huy nhân tố chủ quan, phấn đấu vươn lên của cán bộ, bảo đảm sự đoàn 14 kết trong sự phát triển của toàn đội ngũ cán bộ, đề phòng tư tưởng cơ hội, chạy theo quy hoạch; không cứng nhắc, máy móc trong xây dựng và thực hiện quy hoạch. - Thực hiện công khai trong công tác quy hoạch cán bộ; cơ quan có thẩm quyền quyết định quy hoạch thì quyết định phạm vi, đối tượng, thời điểm, mức độ và cách thức công khai quy hoạch. 1.1.2.3. Quy trình trong công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở Thành phố Hà Tĩnh Thực hiện Nghị quyết số 42 - NQ/Tv ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị về công tác Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Căn cứ Hướng dẫn số 15 - HD/TCTW, ngày 05/11/2012, đặc biệt là theo Kết luận số 24 - KL/TW ngày 05/6/2012, Công văn số 3648 - CV/BTCTW ngàơy 03/4/2008 của Ban Tổ chức Trung ương về việc thực hiện Nghị quyết số 42 - NQ/TW của Bộ Chính trị, Kế hoạch số 22 - KH/TU ngày 28/2/2003, Hướng dẫn số 01 - HD/TU ngày 28/2/2003, Kế hoạch số 41 - KH/TU ngày 2/1/2007, Hướng dẫn số 06 HD/TC ngày 01/2/2007 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy về “Hướng dẫn công tác quy hoạch cán bộ”, Công văn số 1766 CV/BTCTU, ngày 14/1/2014, công văn 1271 - CV/TU ngày 03/7/2014 về thực hiện công tác quy hoạch cán bộ, Công văn số 2179 - CV/BTC TU ngày 27/8/2014 về việc soát xét, bổ sung quy hoạch cán bộ từ kinh nghiệm thực tiễn tiến hành công tác quy hoạch cán bộ của Thành ủy Hà Tĩnh, có thể khái quát quy trình xây dựng quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy Hà Tĩnh quản lý gồm các bước và nội dung sau: Bước 1, chuẩn bị kế hoạch xây dựng quy hoạch: Ban Thường vụ Thành ủy thảo luận, thống nhất việc rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện tại và đội ngũ cán bộ trong quy hoạch, 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan