Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao kết quả học tập môn ngữ văn thông qua việc rèn luyện kĩ năng vận dụng k...

Tài liệu Nâng cao kết quả học tập môn ngữ văn thông qua việc rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong bài văn nghị luận

.PDF
24
1552
124

Mô tả:

MỤC LỤC Nội dung Trang I. TÓM TẮT ĐỀ TÀI ........................................................................................2 II. GIỚI THIỆU...................................................................................................3 III.PHƯƠNG PHÁP ...........................................................................................4 1. Khách thể nghiên cứu .............................................................................4 2. Thiết kế nghiên cứu .................................................................................4 3. Quy trình nghiên cứu...............................................................................5 4. Đo lường và thu nhập dữ liệu ......................................................5 IV. PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ BÀN LUẬN KẾT QUẢ .......................6 V. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ...........................................................7 1. Kết luận.......................................................................................................7 2. Khuyến nghị ..............................................................................................8 VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................8 VII. PHỤ LỤC .....................................................................................................8 1 TÊN ĐỀ TÀI: NÂNG CAO KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN THÔNG QUA VIỆC RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VẬN DỤNG KẾT HỢP CÁC THAO TÁC LẬP LUẬN TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN I. TÓM TẮT ĐỀ TÀI: “ Văn học là nhân học ” câu nói khẳng định vai trò và tầm quan trọng của văn học : rèn luyện kĩ năng giao tiếp, trang bị những cảm xúc nhân văn, giúp con người hướng tới Chân-Thiện-Mĩ . Nhưng hiện nay , môn Ngữ Văn trong nhà trường lại ít được HS quan tâm, chú trọng đến vì nhiều nguyên nhân. Như ta đã biết môn Ngữ Văn là môn học vốn kết tinh đầy đủ nguyên lí kết hợp học với hành. Đây là môn học bộc lộ rõ nét hơn cả nhân cách của học sinh, là môn học xứng đáng được coi là có truyền thống lâu đời nhất, tạo được nhiều hứng thú cho học sinh nhất thì hiện nay kết quả ngược lại. Trong thực tế dạy phân môn làm văn: người dạy đã cố gắng hướng dẫn cho học sinh sử dụng thành thạo kiểu bài làm văn trong nhà trường phổ thông đó là làm văn nghị luận (Nghị luận xã hội và Nghị luận văn học). Các thầy cô giáo đã có nhiều cố gắng trong việc sử dụng công nghệ thông tin, nghiên cứu tài liệu tham khảo, đổi mới phương pháp dạy học… nhưng kết quả của môn Ngữ Văn rất thấp. Có một thực trạng là khi viết văn nghị luận thì học sinh chưa chú ý đến kĩ năng vận dụng kết hợp các thao tác lập luận, nên bài viết không lôgic, lập luận không chặt chẽ, luận điểm không thuyết phục,…Nếu có vận dụng kết hợp các thao tác lập luận thì cũng chưa rõ ràng , vì HS chưa biết chọn thao tác nào chủ yêú, thao tác nào phụ để bài văn chặt chẽ, thống nhất và thuyết phục. Giải pháp của tôi là rèn thêm cho học sinh “ kĩ năng vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong bài văn nghị luận” để nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ Văn. Nhằm giúp cho học sinh hiểu rõ hơn về chức năng của việc vận dụng các thao tác lập luận trong văn nghị luận, có kĩ năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo các kiểu thao tác lập luận thông dụng như : giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, so sánh, bác bỏ. Học sinh biết tự sửa và biết tránh các lỗi đã mắc khi vận dụng các thao tác lập luận trong văn nghị luận. Nhằm tránh tình trạng học sinh viết lan man, không lôgic trong lập luận, hoặc nếu có viết thì cũng rời rạc, không có hiệu quả. Nghiên cứu được tiến hành trên hai nhóm tương đương: lớp 12A7 và lớp 12A11 trường THPT Phan Bội Châu. Lớp 12A11 là lớp thực nghiệm và lớp 12A7 là lớp đối chứng. Lớp thực nghiệm được thực hiện giải pháp thay thế khi được giáo viên hướng dẫn cụ thể cho các cách vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong bài văn nghị luận. Kết quả đã cho thấy tác động đã có ảnh hưởng rõ rệt đến kết quả học môn Ngữ Văn của học sinh: lớp thực nghiệm 12A11 đã đạt kết quả học tập cao hơn so với lớp đối chứng12A7 . Điểm bài kiểm tra của lớp thực nghiệm là 6,8; điểm bài kiểm tra của lớp đối chứng là 6,0. Kết quả kiểm chứng t – test cho thấy p < 0,05 có nghĩa là có sự khác biệt lớn giữa điểm trung bình của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng. Điều đó chứng minh rằng việc rèn luyện cho học sinh kĩ năng vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong bài văn nghị luận sẽ nâng cao hiệu quả học tập môn Ngữ Văn của học sinh. 2 II.GIỚI THIỆU: Nhiều năm nay, nhà truờng phổ thông chúng ta rất coi trọng việc nâng cao trình độ viết văn cho học sinh. Cố gắng thì nhiều nhưng hình như kết quả vẫn chưa đuợc như ý. Sau mỗi kì tuyển sinh lớp 10, thi tốt nghiệp THPT hay kì thi đại học, qua phuơng tiện truyền thông chúng ta đều biết có một số bài văn gây sốc cho toàn xã hội. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như: học sinh thiếu hụt kiến thức, học sinh không yêu thích môn Ngữ Văn, học sinh không có kĩ năng làm bài… Về việc vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong văn nghị luận thì học sinh đã đuợc tìm hiểu và rèn luyện trong chưong trình Ngữ Văn THCS và thuờng xuyên đuợc củng cố trong quá trình viết bài văn nhưng chỉ dừng ở một vài thao tác nhỏ mà chưa kết hợp các thao tác ăn ý và vẫn còn nhiều học sinh chưa chú ý đến việc này. Trong giáo khoa Ngữ văn 12 (tập 1) cũng có bài ” Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong văn nghị luận ” nhưng thời gian chỉ có 45 phút, các em hoc sinh chỉ mới dừng lại ở việc làm các bài tập ở sách giáo khoa mà chưa có điều kiện thực hành thêm. Giải pháp thay thế: để thay đổi hiện trạng trên, trong đề tài nguyên cứu này tôi đã tập trung huớng dẫn cho học sinh thêm kĩ năng vận dụng kết hợp các thao tác lập luận : giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, so sánh, bác bỏ trong bài văn nghị luận . Về vấn đề rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp các thao tác lập luận để nâng cao kết quả học tập môn Ngữ văn, đăt biệt là làm văn đã có bài viết trình bày. Ví dụ: - “Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận” (SGK Ngữ văn 12, tập 1, trang 174- NXB giáo dục 2012). - “Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận” (SGV Ngữ văn 12, tập 1, trang 175- NXB giáo dục 2012). - Thiết kế bài giảng Ngữ Văn 12 ( Nguyễn Văn Đường – NXB Hà Nội 2008 ). - Muốn viết bài văn hay ( Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh - NXB giáo dục 2001 ). - Dàn bài làm văn 12, NXB giáo dục 2009. Tài liệu trên chủ yếu trình bày những suy nghĩ, những kinh nghiệm của tác giả để làm thế nào viết đuợc bài văn hay có lập luận chặt chẽ , hoặc sách giáo khoa chỉ đưa ra các bài tập mà chưa đi sâu rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong bài văn nghị luận. Qua việc huớng dẫn của giáo viên, học sinh tự mình khám phá kiến thức môn học, từ đó các em có niềm tin vàn bản thân, có hứng thú với môn Ngữ Văn hơn, đặc biệt là làm văn. Vấn đề nghiên cứu: Việc huớng dẫn cho học sinh vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong văn nghị luận có nâng cao kết quả học môn Văn của học sinh THPT hay không? Giả thuyết nguyên cứu : Việc huớng dẫn cho học sinh vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong văn nghị luận sẽ nâng cao kết quả học môn Văn của học sinh THPT. 3 III. PHƯƠNG PHÁP: 1. Khách thể nghiên cứu: Để có số liệu khách quan chính xác, tôi chọn 2 lớp là 12A7 và 12A11 truờng THPT Phan Bội Châu để khảo sát. Lớp thực nghiệm (TN) là lớp 12A11 và lớp đối chứng (ĐC) là lớp 12A7. Hai lớp đuợc chọn tưong đồng với nhau về mặt: - Số lượng học sinh, độ tuổi, nam, nữ. - Chất lượng học tập nói chung và môn Văn nói riêng ở 2 lớp có điểm số các môn tương đương nhau. - Các em có ý thức học tập. Bảng 1: Giới tính của học sinh 2 lớp . Lớp 12A7 12A11 Số HS các nhóm Tổng số Nam 41 17 44 17 Nữ 24 27 2. Thiết kế nghiên cứu : Chọn lớp 12A11 là nhóm thực nghiệm và 12A7 là nhóm đối chứng và tiến hành kiểm tra các kiến thức để đánh giá và so sánh mức độ 2 lớp. Kết quả kiểm tra cho thấy điểm trung bình của hai nhóm có sự khác nhau, do đó chúng tôi dùng phép kiểm chứng t – test để kiểm chứng sự chênh lệch giữa điểm số trung bình của hai nhóm truớc khi tác động. Kết quả: Bảng 2: Kiểm chứng để xác định các nhóm tương đương TBC p= Đối chứng 6,0 Thực nghiệm 6,8 0,105 p = 0,105 > 0,05 từ đó kết luận sự chệnh lệch điểm số trung bình của hai nhóm thực nghiệm và đối chứng là không có ý nghĩa, hai nhóm đuợc coi là tương đương. Tôi chọn thiết kế thứ hai là thiết kế nghiên cứu cho đề tài : Thiết kế kiểm tra truớc tác động và sau tác động đối với các nhóm tương đương 4 Bảng 3 : thiết kế nghiên cứu Nhóm Kiểm tra truớc TĐ Tác động Kiểm tra sau TĐ Thực nghiệm O1 Đối chứng O2 Huớng dẫn vận dụng kết hợp O3 các thao tác lập luận trong bài văn nghị luận Không tác động O4 Ở thiết kế này, chúng tôi sử dụng phép kiểm chứng t – test độc lập. 3. Quy trình nghiên cứu: Khảo sát thực trạng. Chuẩn bị bài của giáo viên: Trong các tiết dạy phân môn làm văn trên lớp, tiết luyện tập hoặc các buổi học tăng tiết ôn thi tốt nghiệp, khi huớng dẫn cho học sinh vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong bài văn nghị luận, tôi tiến hành thực nghiệm cùng một dạng đề nhưng theo hai cách: - Ở lớp thực nghiệm : Thiết kế bài học cho học sinh những cách vận dụng kết hợp các thao tác lập luận thông dụng nhưng có sự linh hoạt và sáng tạo ( tác động bằng hình thức bài tập chạy ). - Ở lớp đối chứng : Thiết kế bài học cho học sinh cách vận dụng kết hợp các thao tác lập luận bình thường ( không tác động ). Tiến hành thực nghiệm: Thời gian tiến hành theo kế hoạch dạy học chung của nhà trường và theo thời khóa biểu để đảm bảo tính khách quan. Bảng 4: Thời gian dạy thực nghiệm Thứ ngày Môn Lớp Tiết theo PPCT Tên bài dạy Thứ năm, Luyện tập vận dụng kết hợp 12A11 42 các thao tác lập luận trong ngày 4/11/2012 văn nghị luận 4. Đo luờng và thu nhập dữ liệu: Để xác định hiệu quả, việc kiểm tra và đánh giá chất lượng nắm bắt kiến thức của học sinh ở lớp thực nghiệm và lớp đối chứng đuợc tiến hành bằng các bài kiểm tra, kết quả tổng quát của một trong các bài kiểm tra đó ( đề kiểm tra và điểm số cụ thể ở phần phụ lục). Bài kiểm tra trước tác động là bài viết ở HK1. Bài kiểm tra sau tác động là bài viết ở HK2, sau khi HS đã được học các tiết thực nghiệm. Đánh giá HS sau tác động bằng phép kiểm chứng T- test độc lập và tính mức độ ảnh hưởng đối với nhóm thực nghiệm. 5 IV.PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ BÀN LUẬN KẾT QUẢ: Từ kết quả cho thấy: - Khi không huớng dẫn cho học sinh cách vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong bài văn nghị luận thì số học sinh viết bài văn có vận dụng kết hợp các thao tác lập luận đạt đuợc kĩ năng và kiến thức rất ít. - Khi huớng dẫn cho học sinh cách vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong bài văn nghị luận thì số học sinh viết bài văn có vận dụng kết hợp các thao tác lập luận đạt đuợc kĩ năng và kiếm thức cao. Bảng 5: So sánh điểm trung bình của bài kiểm tra sau tác động ĐTB Độ lệch chuẩn Giá tri P của t – test Chênh lệch giá trị TB chuẩn (SMD) Đối chứng 6,0 0,931 Thực nghiẽm 6,8 1,035 0,000026 0,86 Như trên đã chứng minh rằng kết quả 2 nhóm truớc tác động là tương đưong. Sau tác động kiểm chứng chênh lệng ĐTB bằng t – test cho kết quả P = 0,000026 , cho thấy sự chênh lệch giữa ĐTB nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng rất có ý nghĩa, tức là chênh lệch kết quả. ĐTB nhóm thực nghiệm cao hơn ĐTB nhóm đối chứng là không ngẫu nhiên mà do kết quả của tác động. Chênh lệch giá trị trung bình chuẩn SMD = ( 6.8 – 6.0) / 0,93 = 0,86. Theo bảng tiêu chí Cohen, chênh lệch kết quả điểm trung bình chuẩn SMD = 0,86. Điều đó cho thấy mức độ ảnh huởng của việc hướng dẫn cho học sinh kĩ năng vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong bài văn nghị luận đến việc học tập môn Ngữ Văn của nhóm thực nghiệm là lớn. Giả thuyết của đề tài: ” Nâng cao kết quả học tập môn Ngữ văn thông qua việc rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong bài văn nghị luận” đã đuợc kiểm chứng. 6 8 7 6 5 4 3 2 1 0 Thực Nghiem Đối Chứng Truớc TĐ Sau TĐ Hình 1. Biểu đồ so sánh ĐTB truớc tác động và sau tác động của nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng. Kết quả của bài kiểm tra sau tác động của nhóm thực nghiệm là TBC = 6,8 , kết quả bài kiểm tra tuơng ứng của nhóm đối chứng là TBC = 6,0. Độ chênh lệch điểm số giữa hai nhóm là 0,78; Điều đó cho thấy điểm TBC của hai lớp đối chứng và thực nghiệm đã có sự khác biệt rõ rệt lớp đuợc tác động có điểm TBC cao hơn lớp đối chứng. Chênh lệch giá trị trung bình chuẩn của các bài kiểm tra là SMD = 0,86. Điều này có nghĩa mức độ ảnh huởng của tác động là lớn. Phép kiểm chứng t – test ĐTB sau tác động của hai lớp là p = 0,000026 < 0,05. Kết quả này khẳng định sự chênh lệch ĐTB của hai nhóm không phải là do ngẫu nhiên mà là do tác động, nghiêng về nhóm thực nghiệm. * Hạn chế: Nghiên cứu này được thực hiện thông qua việc huớng dẫn cho học sinh nâng cao kĩ năng vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong bài văn nghị luận nên đòi hỏi nguời giáo viên phải có nhiều sáng tạo, linh động trong việc ra đề, đáp án, chấm bài cũng như trong quá trình dạy và học môn Ngữ văn. V.KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ: 1.Kết luận: Việc rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong bài văn nghị luận đã nâng cao hiệu quả làm bài của học sinh, giúp học sinh đạt kết quả cao hơn trong các đợt kiểm tra và thi, giúp các em hứng thú hơn với việc học môn Ngữ Văn . 7 2.Khuyến nghị: Đối với cấp lãnh đạo: cần quan tâm về cơ sở vật chất như trang thiết bị máy tính, máy chiếu Projector hoặc màn hình ti-vi rộng có bộ kết nối …cho nhà trường .Cần quan tâm hơn nữa đến các bộ môn xã hội, không nên chú trọng các môn tự nhiên.Tạo mọi điều kiện để giáo viên nâng cao trình độ chuyên môn bằng việc tự học và rèn luyện. Đối với giáo viên: không ngừng tự học, tự bồi dưỡng về chuyên môn, đổi mới cách ra đề và đáp án, biết khai thác thông tin trên mạng Internet, có kĩ năng sử dụng thành thạo các trang thiết bị dạy học hiện đại . Với kết quả của đề tài này, chúng tôi mong các bạn đồng nghiệp quan tâm, chia sẻ và đặc biệt đối với giáo viên dạy Ngữ Văn. Rất mong sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp. VI.TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách Giáo khoa Ngữ Văn 12 (tập 1), NXB giáo dục năm 2012 2. Sách Giáo viên Ngữ Văn 12 (tập 1), NXB giáo dục năm 2012 3. Thiết kế bài giảng Ngữ Văn 12 (tập 1), NXB Hà Nội năm 2012 4. Huớng dẫn giải các dạng đề thi quốc gia môn Ngữ Văn 12, NXB Hà Nội năm 2009 5. Tự Học Làm Văn (NXBGD , năm 2009) 6. Muốn viết bài văn hay (NXBGD 2001) 7. Dàn bài làm văn 12, NXBGD năm 2009 8. Tuyển tập đề bài và bài văn NLXH,NXBGD năm 2012 9. Tuyển tập tạp chí văn học và tuổi trẻ , NXBGD năm 2012. VII. PHỤ LỤC 1.Phụ lục : Kế hoạch bài học: Tiết 42 Làm văn LUYỆN TẬP VẬN DỤNG KẾT HỢP CÁC THAO TÁC LẬP LUẬN Tại sao cần phải vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong văn nghị luận ? Những kiến thức học sinh đã biết có liên quan đến bài học Các thao tác lập luận đã học như : - Giải thích - Phân tích - Chứng minh - So sánh - Bình luận - Bác bỏ Những kiến thức mới cần hình thành Kết hợp các thao tác lập luận trong bài văn nghị luận thật linh hoạt, chặt chẽ, thuyết phục, đúng và hay. 8 Mục tiêu: - HS biết kết hợp các thao tác lập luận, chọn thao tác nào chính và thao tác nào phụ. - Khi viết rõ vấn đề, nêu được chính kiến của mình, thuyết phục người đọc. - Kỹ năng lập luận tốt hơn, viết văn lưu loát hơn. - Làm văn NL dễ dàng, hay hơn. - Điểm bài viết cao hơn, HS thích học Văn hơn. Chuẩn bị phương tiện dạy học: - GV : Nếu dạy máy thì sưu tầm những đoạn, bài văn mẫu hay có vận dụng kết hợp các thao tác lập luận để chiếu cho HS tham khảo. Nếu dạy bảng thì phải có bảng phụ, các loại sách tham khảo để giới thiệu cho HS. Ra đề , hướng dẫn dàn ý và yêu cầu HS viết. - HS : Ôn lại các thao tác lập luận đã học để vận dụng kết hợp một cách linh hoạt. Mỗi HS phải có sách, vở, giấy nháp, bảng con. Các hoạt động dạy học Thời gian Nội dung 3’ 12’ 17’ 3’ Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh Phương tiện đồ dùng Kiểm tra Giới thiệu bài mới Hỏi: Ở lớp dưới các em HS trả lời, lớp nhận đã tìm hiểu các thao xét. tác lập luận nào ? GV giới thiệu bài mới. Bảng phụ ghi các thao tác lập luận. Luyện tập trên lớp N hắc lại kiến thức.bt1( SGK tr 174 ) Nhận diện.bt2 ( SGK tr 174 ) Trọng tâm là bt3 ( SGK tr 175 ). Theo gợi ý của SGK, GV ra đề cụ thể cho HS làm Hướng dẫn làm bt về nhà SGK tr 176 GV yêu cầu HS đọc kĩ đề, suy nghĩ và thảo luận xong trình bày . HS thực hiện các yêu cầu của 2 bài tập trong SGK. Sách, vở, giấy nháp hoặc bảng phụ. Đề: Nữ sinh đến trường nên mặc áo dài truyền thống hay đồng phục hiện đại. Hình thức bt chạy. HS dựa vào gợi ý gồm 3 bước của SGK để viết. Sách, vở, giấy nháp hoặc bảng phụ. GV yêu cầu HS làm 2 bt trong SGK HS làm 2 bt vào vở soạn văn. Sách, vở. 9 10’ Tập viết đoạn văn NL có vận dụng kết hợp các thao tác lập luận. Hình thức là làm bài tập chạy, có cộng điểm. GV cho một số đề như: HS làm vào vở soạn văn hay phiếu học -Học tập -Môi trường tập. -Giao thông -Những phẩm chất của HS, con người,… -Những tệ nạn hiện nay đang diễn ra trong đời sống…. Vở, giấy nháp. 2.Phụ Lục : Đáp án và đề kiểm tra Truờng THPT Phan Bội Châu Tổ Văn BÀI KIỂM TRA SỐ 1 MÔN VĂN Thời gian: 45 phút Đề bài: Sống giản dị - sự lựa chọn của mỗi chúng ta . Đáp án: A.Yêu cầu : 1.Về kĩ năng : HS biết cách làm văn nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lí. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. Đặc biệt cần có ý kiến riêng của bản thân. Bài văn cần vận dụng kết hợp các thao tác lập luận một cách linh hoạt, chặt chẽ , thuyết phục. 2.Về kiến thức : HS có thể trình bày theo các cách khác nhau nhưng cần nêu được các ý sau: 2.1. Từ thực tế đời sống mà đặt vấn đề và dẫn dắt vào bài. 2.2. Giải thích : Thế nào là sống giản dị, biểu hiện của lối sống giản dị. 2.3. Ý nghĩa của lối sống giản dị. 2.4. Phân tích, chứng minh : Sống giản dị sự lựa chọn đúng đắn của mỗi chúng ta . 2.5. Bình luận : Làm thế nào để sống giản dị, nêu những liên hệ ( bác bỏ ), suy nghĩ bản thân. 2.6. Khẳng định lại vấn đềi, rút ra bài học nhận thức và hành động. B. Biểu điểm: Ý 2.1 : 1đ , Ý 2.2: 2đ , Ý 2.3: 2đ, Ý 2.4: 2đ, Ý 2.5:2đ, Ý 2.6: 1đ Lưu ý: Trong từng ý chỉ cho điểm tối đa khi HS trình bày toát ý, diễn đạt trôi chảy và có vận dụng kết hợp các thao tác lập luận. 10 Truờng THPT Phan Bội Châu Tổ Văn BÀI KIỂM TRA SỐ 2 MÔN VĂN Thời gian: 45 phút Đề bài : Văn học là một trong những loại hình nghệ thuật không thể thiếu của con người.Song đa số học sinh ngày nay lại ngại học Ngữ Văn, nhất là làm văn. Anh (chị) hãy bày tỏ suy nghĩ về hiện tượng trên . Đáp án: A. Yêu cầu: 1.Về kĩ năng : HS biết cách làm văn nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. Đặc biệt cần có ý kiến riêng của bản thân. Bài văn cần vận dụng kết hợp các thao tác lập luận một cách linh hoạt, chặt chẽ, thuyết phục. 2.Về kiến thức : HS có thể trình bày theo các cách khác nhau nhưng cần nêu được các ý sau: 2.1. Từ thực tế đời sống mà đặt vấn đề và dẫn dắt vào bài. 2.2. Giải thích : Vì sao văn học là một trong những loại hình không thể thiếu của con người. Nhưng tại sao HS lại ngại học Văn . 2.3. Phân tích : nguyên nhân khi đặt ra vấn đề học Văn : ( vì khó, SGK chưa hay, nhà trường gò bó – mất tự do, ngại suy nghĩ , mệt óc, không cần thiết,….). 2.4. Chứng minh : thực trạng phổ biến trong nhà trường hiện nay ntn. Tác hại của việc ngại học Ngữ Văn ntn . Suy nghĩ như vậy là sai lầm ( bác bỏ ). 2.5. Bình luận : tầm quan trọng, ý nghĩa của việc học Văn ntn. Nên nhìn nhận đúng hơn việc học Văn, đề ra giải pháp cụ thể . 2.6. Suy nghĩ của bản thân về việc học Văn . Rút ra bài học . B. Biểu điễm: Ý 2.1 : 1đ , Ý 2.2: 2đ , Ý 2.3: 2đ, Ý 2.4: 2đ, Ý 2.5:2đ, Ý 2.6: 1đ Lưu ý : Trong từng ý chỉ cho điểm tối đa khi HS trình bày toát ý , diễn đạt trôi chảy và có vận dụng kết hợp các thao tác lập luận. Truờng THPT Phan Bội Châu Tổ Văn BÀI KIỂM TRA SỐ 3 MÔN VĂN Thời gian: 90 phút Đề bài: Vẻ đẹp bi tráng của hình tuợng người lính trong bài thơ “ Tây Tiến” của Quang Dũng. ĐÁP ÁN A.Yêu cầu: 1. Về kỹ năng: Biết cách làm một bài văn nghị luận văn học. HS có thể tự do lựa chọn phuơng thức biểu đạt, trong đó chủ yếu là phưong thức nghị luận với sự kết hợp các thao tác lập luận một cách linh hoạt, chặt chẽ, thuyết phục . Hành văn cần chặt chẽ, có dẫn 11 chứng, có sức thuyết phục, diễn đạt trôi chảy, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. Đặc biệt cần có ý kiến riêng của mình. 2. Về kiến thức: HS có thể trình bày theo các cách khác nhau nhưng cần nêu đuợc các ý chính sau: 2.1. Từ những hiểu biết về tg và tác phẩm để dẫn dắt vào bài. 2.2.Giải thích : Vẻ đẹp bi tráng của một hình tuợng ngệ thuật: vừa bi ai, vừa hùng tráng. 2.3.Phân tích và chứng minh : Biểu hiện vẻ đẹp bi tráng của nguời lính Tây Tiến: 2.3.1.Đuợc bộc lộ khi họ đối mặt với những thử thách đầy gian khổ của thiên nhiên hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt, thú dữ rình rập, bệnh tật hành hạ. 2.3.2.Đuợc tỏa sáng khi họ đối mặt với cái chết- thử thách nghiệt ngã nhất. 2.4.Bình luận : Đánh giá chung về nguời lính Tây Tiến và bút pháp nghệ thuật của Quang Dũng .( So sánh ) với Chính Hữu . 2.5.Ấn tuợng của bản thân về vẻ đẹp bi tráng của nguời lính trong bài thơ. B. Biểu điểm: Ý 2.1: 1đ. Ý 2.2: 2đ. Ý 2.3: 4đ. Ý 2.4: 2đ. Ý 2.5: 1đ. Lưu ý :Trong từng ý chỉ cho điểm tối đa khi HS trình bày toát ý, diễn đạt trôi chảy và có vận dụng kết hợp các thao tác lập luận. 3.Phụ lục : BẢNG ĐIỂM KIỂM TRA TRƯỚC TÁC ĐỘNG VÀ SAU TÁC ĐỘNG LỚP THỰC NGHIỆM 12A11 STT Giới tính Họ và Tên Điểm KT trước tác động Điểm KT sau tác động 1 Trương Quang DŨNG Nam 5,5 8,0 2 Trần Quang DUY Nam 6,0 7,0 3 Lê Phi ĐẠI Nam 4,5 6,0 4 Phạm Quốc ĐẠT Nam 4,5 7,0 5 Huỳnh Thị Vân HÀ Nữ 5,0 6,0 6 Phạm Thị Hoa HẠ Nữ 6,0 7,5 7 Đặng Hoàng Thanh HẰNG Nữ 6,5 8,5 8 Võ Thị Mỹ HIỀN Nữ 5,5 8,0 9 Nguyễn Thị HIỆP Nữ 5,5 7,0 12 10 Nguyễn Trương Thúy HÙNG Nữ 5,0 6,5 11 Ngô Thanh HUYỀN Nữ 7,0 8,5 12 Nguyễn Thị Diệu HUYỀN Nữ 5,0 6,5 13 Trần Thị Mỹ HUYỀN Nữ 5,5 7,5 14 Lê Thị KHẮP Nữ 6,0 7,0 15 Phan Thanh KIỆT Nam 4,5 6,0 16 Nguyễn Trần LÂM Nam 5,5 6,5 17 Huỳnh Lê Đức Thanh LIÊM Nam 5,0 5,5 18 Nguyễn Thị Thanh LOAN Nữ 6,0 6,5 19 Trương Thành LỘC Nam 5,5 7,0 20 Nguyễn Đăng LONG Nam 6,0 8,0 21 Lê Thị Bích NGỌC Nữ 5,5 6,5 22 Nguyễn Thị Phương NHI Nữ 7,0 8,5 23 Trần Huỳnh Ý NHI Nữ 6,0 7,0 24 Xíu Tố NHƯ Nữ 7,0 8,5 25 Trần Đình PHÁP Nam 5,0 5,5 26 Võ Hoàng Thái PHONG Nam 4,5 4,5 27 Lê Lý Lâm QUYỀN Nam 5,5 6,5 28 Lê Thị Phương QUỲNH Nữ 7,0 8,0 29 Nguyễn Anh SON Nam 5,5 7,0 13 30 Nguyễn Đức TÂM Nam 5,0 6,5 31 Diệp Tý THÙY Nữ 6,0 7,0 32 Đoàn Trúc THỦY Nữ 7,0 8,0 33 Hoàng Thị Lệ THỦY Nữ 5,0 4,5 34 Nguyễn Thị Thu THỦY Nữ 4,5 6,0 35 Phạm Thị Thu THỦY Nữ 5,0 6,5 36 Đặng Đức TRÍ Nam 6,0 5,5 37 Đặng Thị Thanh TRÚC Nữ 5,5 6,5 38 Phan Thị Thanh TRÚC Nữ 4,5 6,0 39 Phan Duy TRUNG Nam 5,0 5,5 40 Nguyễn Trương Nh. TRƯỜNG Nam 6,5 6,0 41 Nguyễn Nhật Kiều TUYÊN Nữ 5,5 5,5 42 Lương Mai VY Nữ 6,0 7,5 43 Nguyễn Thị Tường VY Nữ 5,0 4,5 44 Mai Phi YẾN Nữ 7,0 7,5 14 LỚP ĐỐI CHỨNG 12A7 STT Giới tính Họ và Tên Điểm KT trước tác động Điểm KT sau tác động 1 Lê Thị Ngọc ANH Nữ 5,0 6,0 2 Võ Huỳnh Thị Như ÁNH Nữ 5,5 5,0 3 Nguyễn Thị Kim CHI Nữ 5,0 7,0 4 Nguyễn Thị CHI Nữ 5,0 5,5 5 Nguyễn Thanh CƯỜNG Nam 4,5 5,5 6 Bùi Thị Thùy DUNG Nữ 5,5 6,5 7 Huỳnh Thị Thanh DUNG Nữ 5,5 7,5 8 Nguyễn Thị Đông ĐÔNG Nữ 4,5 6,0 9 Nguyễn Chí HÀO Nam 4,5 5,5 10 Nguyễn Quang HÀO Nam 5,5 5,0 11 Trần Quốc HUY Nam 4,5 5,0 12 Lê Hồ Hải KHÁNH Nữ 6,0 5,5 13 Nguyễn Quốc KHÁNH Nam 4,5 6,0 14 Lê Trung KIÊN Nam 5,0 6,0 15 Phạm KÍNH Nam 4,5 5,0 16 Nguyễn Thị Minh LƯƠNG Nữ 5,0 5,5 17 Hoàng Hà MY Nữ 5,0 6,5 18 Nguyễn Trường NAM Nam 5,0 5,5 19 Trần Hải NAM Nam 5,5 7,0 15 20 Trần Hồ Hữu PHÁT Nam 5,0 5,0 21 Trần Hữu PHƯỚC Nam 5,0 6,0 22 Phạm Ng. Trường SƠN Nam 7,0 7,0 23 Trần Thị Thanh TÂM Nữ 5,0 7,5 24 Nguyễn Công THÀNH Nam 5,5 6,0 25 Hồ Hưng THỊNH Nam 4,5 5,0 26 Ngô Thị Thanh THỦY Nữ 5,0 5,5 27 Hồ Thị Kiều TIÊN Nữ 5,5 7,5 28 Nguyễn Bảo Quỳnh TRANG Nữ 4,5 5,0 29 Trần Minh TRÍ Nam 5,0 7,5 30 Nguyễn Thị Mỹ TRỌNG Nữ 5,0 5,5 31 Nguyễn Thị Như TRÚC Nữ 4,5 4,5 32 Võ TRUNG Nam 4,5 7,5 33 Nguyễn Bá TUỆ Nam 5,0 4,5 34 Trần Quang TUYẾN Nam 5,5 6,0 35 Nguyễn Thị ÚT Nữ 4,5 5,5 36 Nguyễn Thị VÂN Nữ 5,0 7,5 37 Trần Thị Phong VÂN Nữ 5,0 5,5 38 Đặng Hoàng VINH Nam 4,5 7,0 16 39 Võ Thị Đoan VY Nữ 4,5 5,5 40 Nguyễn Ngọc Tường VY Nữ 5,5 7,5 41 Nguyễn Thị Bảo Nữ 5,0 5,5 YẾN 4.Phụ lục : sưu tầm và giới thiệu một số bài, đoạn văn hay, trong đó tác giả đã vận dụng kết hợp các thao tác lập luận khác nhau trong bài văn nghi luận. Những dòng sông đang chết không phải ngẫu nhiên mà chúng chết. Chúng đang bị giết chết…bởi sự tàn phá của con người. Rừng đầu nguồn bị đốn trụi, chất thải công nghiệp và sinh hoạt độc hại được đổ xuống dòng chảy không ngừng, nguồn nước bị khai thác vô hạn độ…là những gì đang xảy ra hằng ngày hằng giờ trên đất nước ta. Và chết không chỉ có sông …Cùng chung số phận với sông là rừng, là biển, là không khí…., là môi trường sống của chính con người chúng ta. […] Sức ép tăng trưởng có thể buộc chúng ta phải đẩy mạnh việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, đồng thời cắt giảm hoặc trì hoãn những khoản đầu tư không thể thiếu cho môi trường. Mà như vậy, những vấn đề về môi trường, như những căn bệnh, đang bị tích tụ lại và ngày càng trở nên nghiêm trọng. Nếu những vấn đề về môi trường không được giải quyết kịp thời, những chi phí bỏ ra để khắc phục chúng sẽ đắt đỏ gấp hàng chục, hàng trăm lần. Chưa kể đến việc có nhiều vấn đề sẽ không bao giờ khắc phục được nữa. Những hệ động thực vật bị tuyệt diệt là không thể tái sinh, những làng bản bị lũ cuốn mất là không thể xuất hiện trở lại, những thế hệ người Việt bị sinh ra dị dạng là khó có thể chữa lành,… Thật đáng tiếc, GDP chỉ đo được sự tăng trưởng về giá trị sản phẩm, không đo được sự cải thiện môi trường. Quan tâm đến GDP là đúng đắn, nhưng vì nó mà sao nhãng việc đầu tư cho môi trường thì thật rủi ro. Suy cho cùng, mọi sự giàu có đều trở nên vô nghĩa nếu như chúng ta không còn môi trường trong lành để sống, không còn sức khỏe để tận hưởng sự sung túc của mình. Phát triển thì phải có tăng trưởng, nhưng tăng trưởng không đồng nghĩa với phát triển. Một tư duy mới là rất quan trọng cho thời kì hội nhập. Với tư duy này, mọi sự tăng trưởng nhờ vào việc gây nên tổn hại cho môi trường không thể được coi là phát triển. Với tư duy này, chúng ta phải rất cẩn trọng khi phát triển những ngành nghề mà vì ô nhiễm môi trường, các nước phát triển tìm cách chuyển sang cho các nước đang phát triển như nước ta. […] Với tư duy này, chúng ta cần học cách tôn trọng thiên nhiên, cách sống hài hòa với thiên nhiên. ( Theo Nguyễn Sĩ Dũng, Không còn môi trường trong lành, giàu có là vô nghĩa, báo Tuổi trẻ, ngày 15 – 5 – 2007 ) . 17 BÀN VỀ ĐỌC SÁCH ( trích ) Học vấn không chỉ là chuyện đọc sách, nhưng đọc sách vẫn là một con đường quan trọng của học vấn. Bởi vì học vấn không chỉ là việc cá nhân, mà là việc của toàn nhân loại. Mỗi loại học vấn đến giai đoạn hôm nay đều là thành quả của toàn nhân loại nhờ biết phân công, cố gắng tích lũy ngày đêm mà có. Các thành quả đó sở dĩ không bị vùi lấp đi, đều là do sách vở ghi chép, lưu truyền lại. Sách là kho tang quí báu cất giữ di sản tinh thần nhân loại. cũng có thể nói đó là những cột mốc trên con đường tiến hóa học thuật của nhân loại. Nếu chúng t among tiến lên từ văn hóa, học thuật của giai đoạn này, thì nhất định phải lấy thành quả của nhân loại đã đạt được trong quá khứ làm điểm xuất phát. Nếu xóa bỏ hết các thành quả nhân loại đã đạt được trong quá khứ, thì chưa biết chừng chúng ta đã lùi điểm xuất phát về đến mấy trăm năm, thậm chí là mấy nghìn năm trước. Lúc đó, dù có tiến lên cũng chỉ đi giật lùi, làm kẻ lạc hậu. Đọc sách là muốn trả món nợ đối với thành quả nhân loại trong quá khứ, là ôn lại kinh nghiệm, tư tưởng của nhân loại tích lũy mấy nghìn năm trong mấy chục năm ngắn ngủi, là một mình hưởng thụ các kiến thức, lời dạy mà biết bao người trong quá khứ đã khổ công tìm kiếm mới thu nhận được. Có được sự chuẩn bị như thế thì một con người mới có thể làm được cuộc trường chinh vạn dặm trên con đường học vấn, nhằm phát hiện thế giới mới. Lịch sử càng tiến lên, di sản tinh thần nhân loại càng phong phú, sách vở tích lũy càng nhiều, thì việc đọc sách cũng ngày càng không dễ. Sách tất nhiên là đáng quí, nhưng cũng chỉ là một thứ tích lũy. Nó có thể làm trớ ngại cho nghiên cứu học vấn. Ít nhất có hai cái hại thường gặp. Một là, sách nhiều khiến người ta không chuyên sâu. Các học giả Trung Hoa thời cổ đại do sách khó kiếm, một đời đến bạc đầu mới đọc hết một quyển kinh. Sách tuy đọc được ít, nhưng đọc quyển nào ra quyển ấy, miệng đọc, tâm ghi, nghiền ngẫm đến thuộc lòng, thấm vào xương tủy, biến thành một nguồn động lực tinh thần, cả đời dùng mãi không cạn. Giờ đây sách dễ kiếm, một học trẻ đã có thể khoe khoang từng đọc hàng vạn cuốn sách. “ Liếc qua ” tuy rất nhiều, nhưng “ đọng lại ” thì rất ít, giống như ăn uống, các thứ không tiêu hóa được tích càng nhiều, thì càng dễ sinh ra bệnh đau dạ dày, nhiều thói xấu hư danh nông cạn đều do lối ăn tươi nuốt sống đó mà sinh ra cả.Hai là, sách nhiều dễ khiến người đọc lạc hướng. Bất cứ lĩnh vực học vấn nào ngày nay đều đã có sách vỡ chất đầy thư viện, trong đó những tác phẩm cơ bản, đích thực, nhất thiết phải đọc chẳng qua cũng mấy nghìn quyển, thậm chí chỉ mấy quyển. Nhiều người mới học tham nhiều mà không vụ thực chất, đã lãng phí thời gian và sức lực trên những cuốn sách vô thưởng vô phạt, nên không tránh khỏi bỏ lỡ mất dịp đọc những cuốn sách quan trọng, cơ bản. Chiếm lĩnh học vấn giống như đánh trận, cần phải đánh vào thành trì kiên cố, đánh bại quân địch tinh nhuệ, chiếm cứ mặt trận xung yếu. Mục tiêu quá nhiều, che lấp mất vị trí kiên cố, chỉ đá bên đông, đấm bên tây, hóa ra thành lối đánh “ tự tiêu hao lực lượng ” . Đọc sách không cốt lấy nhiều, quan trọng nhất là phải chọn cho tinh, đọc cho kĩ. Nếu đọc 10 quyển sách không quan trọng, không bằng đem thời gian, sức lực đọc 10 quyển ấy mà đọc một quyển thực sự có giá trị. Nếu đọc được 10 quyển sách mà chỉ lướt qua, không bằng chỉ lấy một quyển mà đọc mười lần. “ Sách cũ trăm lần xem chẳng chán / Thuộc lòng, ngẫm kĩ một mình hay ” , hai câu thơ đó đáng làm lời răn cho mỗi người đọc sách. Đọc sách vốn có ích riêng cho mình, đọc nhiều không thể coi là vinh dự, đọc ít 18 cũng không phải là xấu hổ. Đọc ít mà đọc kĩ, thì sẽ tập thành nếp suy nghĩ sâu xa, trầm ngâm tích lũy, tưởng tượng tự do đến mức làm đổi thay khí chất, đọc nhiều mà không chịu nghĩ sâu, như cưỡi ngựa qua chợ, tuy châu báu phơi đầy, chỉ tổ làm cho mắt hoa ý loạn, tay không mà về. Thế gian có biết bao người đọc sách chỉ để trang trí bộ mặt, như kẻ trọc phú khoe của, chỉ biết lấy nhiều làm quí. Đối với việc học tập, cách đó chỉ là lừa mình dối người, đối với việc làm người thì cách đó thể hiện phẩm chất tầm thường, thấp kém. Sách đọc nên chia làm mấy loại, một loại là sách đọc để có kiến thức phổ thông mà mọi công dân thế giới hiện nay đều phải biết, một loại là sách đọc để trau dồi học vấn chuyên môn. Muốn có kiến thức phổ thông, hiện nay các bài học ở trung học và năm đầu đại học, nếu chăm chỉ học tập thì cũng đủ dùng. Nếu chăm chỉ học tập mà chỉ đọc thuộc giáo trình thì chẳng có ích lợi gì, mỗi môn phải chọn lấy từ 3 đến 5 quyển xem cho kĩ. Môn học kiến thức phổ thông tổng số không quá mười mấy môn, mỗi môn chọn từ 3 đến 5 quyển, tổng cộng số sách cần đọc chẳng qua cũng chỉ trên dưới 50 quyển. Đây không thể xem là đòi hỏi quá đáng. Nói chung số sách mà một người đã đọc, phần lớn không chỉ có thế, nếu họ không thu được lợi ích thực sự là do họ thiếu lựa chọn, khi đọc lẽ ra đọc kĩ thì họ lại đọc qua loa. Kiến thức phổ thông không chỉ cần cho công dân thế giới hiện tại, mà ngay nhà học giả chuyên môn cũng không thể thiếu được. Khoa học cận đại phân loại chặt chẽ, những người chỉ chuyên một học vấn phần nhiều khép kín trong phạm vi của mình, lấy cớ là chuyên môn, không muốn biết đến các học vấn lien quan. Điều này đối với việc phân công nghiên cứu có thể là cần thiết, nhưng đối với việc đào tạo chuyên sâu thì lại là một sự hy sinh. Vũ trụ vốn là một thể hữu cơ, các qui luật bên trong vốn lien quan mật thiết với nhau, động vào bất cứ chỗ nào đều tất liên quan đến cái khác, do đó, các loại học vấn nghiên cứu qui luật, tuy bề ngoài có phân biệt, mà thực tế thì không thể tách rời. Trên đời không có học vấn nào cô lập, tách rời các học vấn khác. Ví như chính trị học thì phải liên quan đến lịch sử, kinh tế, pháp luật, triết học, tâm tí học, cho đến ngoại giao, quân sự…Nếu một người đối với các học vấn lien quan này mà không biết đến, chỉ có học một mình chính trị học thôi, thì càng tiến lên càng gặp khó khăn, giống như con chuột chui vào sừng trâu, càng chui sâu càng hẹp, không tìm ra lối thoát. Các học vấn khác đại khái cũng như vậy, không biết rộng thì không thể chuyên, không thông thái thì không thể nắm gọn. Trước hãy biết rộng rồi sau mới nắm chắc, đó là trình tự để nắm vững bất cứ học vấn nào. Trong lịch sử học thuật, phàm là người có thành tựu lớn trong bất kì một lĩnh vực nào, đều phải có cơ sở sâu sắc của nhiều môn học vấn khác. ( Chu Quang Tiềm, trong “ Danh nhân Trung Quốc bàn về niềm vui nỗi buồn của việc đọc sách ”. Bắc Kinh, 1995. Trần Đình Sử dịch ) GIÁO DỤC Người dốt nát không phải là người không được dạy dỗ, mà họ là những người không hiểu biết về chính bản thân mình. Còn người được dạy dỗ là người là những người xuẩn ngốc khi họ luôn phải dựa vào sách vở, dựa vào kiến thức và dựa vào những người đã truyền đạt kiến thức cho mình. Những hiểu biết chỉ xuất hiện thực sự qua sự tự biết mình. Sự tự biết mình là một ý thức về toàn bộ quá trình diễn biến tâm lí của chính bản thân 19 mình. Do đó giáo dục chính là sự am hiểu về chính bản thân mình, bởi vì trong mỗi chúng ta luôn tụ hợp toàn bộ quá trình tồn tại. Giáo dục ngày nay có lẽ đã thất bại khi nó đã cường điệu quá mức vai trò và chức năng của kĩ thuật. Một khi chúng ta cường điệu quá mức như thế tức là chúng ta đã hủy hoại con người. Việc trau dồi khả năng và hiệu quả mà không cần đến sự hiểu biết về cuộc sống, không cần đến những kiến thức phổ thông về quá trình hình thành của những suy nghĩ và những ước mơ, tất yếu sẽ chỉ làm cho con người ngày càng trở nên tàn nhẫn và độc ác, đây chính là nguồn gốc của tội ác và chiến tranh, hai hiểm họa đáng sợ nhất của con người. Việc trau dồi những kĩ năng kĩ thuật riêng biệt đã sản sinh ra những nhà khoa học, những nhà toán học, những kĩ sư xây dựng, những nhà chinh phục vũ trụ,..nhưng liệu những người này có am hiểu về cuộc sống hay không ? Sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật vẫn không thể giải quyết được những rắc rối đối với con người, thậm chí còn phát sinh thêm nhiều rắc rối xem ra còn phức tạp hơn. Việc sinh tồn mà không thèm đếm xỉa gì đến tính đa dạng và phức tạp của cuộc sống chính là lời mời gọi những khổ đau và hủy diệt đối với chính con người. Nhu cầu lớn nhất và cũng là vấn đề nan giải nhất đối với mọi cá nhân chính là việc nhận thức về cuộc sống để từ đó có thể hiểu đúng đắn về bản thân mình. Chính điều này sẽ giúp con người có khả năng đối mặt và vượt qua mọi khó khăn, phức tạp bất tận ở đời. Hệ thống giáo dục hiện đại của chúng ta đã hoàn toàn thất bại. Bạn không tin như vậy sao? Khi bạn bước ra đường phố, bạn trông thấy những kẻ giàu và người nghèo, bạn chứng kiến những người được gọi là có giáo dục đan cãi vã, đang đánh nhau…mà điển hình là những cuộc chiến tranh liên miên trên khắp hành tinh này. Ngày nay, sự phát triển của khoa học kĩ thuật giúp chúng ta có thể sản xuất đủ thức ăn, đủ quần áo mặc, đủ nơi trú ngụ cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, bạn thấy đấy, tại sao vẫn còn đó những người chết đói, những kẻ lang thang không nhà cửa ? Các chính trị gia và các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới đều là những đều là những người có giáo dục, có học hàm học vị, những nhà khoa học, nhưng họ vẫn không tạo ra được một thế giới mà tất cả mọi sinh linh đều có thể được sống một cách hạnh phúc. Vậy thì nền giáo dục hiện đại đã làm được gì, nếu không nói là hoàn toàn thất bại ? Mục tiêu nhân văn cao cả của giáo dục là gì? Là giúp cho con người tự nhận thức về bản thân, để chung sống hòa hợp với nhau. ( Theo J. Kríhnamurt “ Bạn làm gì với đời mình ?” NXB TH TP Hồ Chí Minh, 2005) HẠNH PHÚC LÀ GÌ ? Một sớm mùa xuân, khi nhìn nụ hoa đỏ hồng vươn lên từ thân xương rồng xù xì gai nhọn bên cửa sổ, tôi nghe lòng mình xốn xang một cảm xúc khó tả. Lần đầu tiên cầm trên tay tập sách Hạnh phúc là gì ? tập hợp những bức thư của Nguyễn Văn Thạc và Phạm Thị Như Anh tôi tự hỏi lòng mình: Phải chăng khi Như Anh hỏi Thạc: “Hạnh phúc là gì ?” thì cả hai cùng mơ về một ngày xa xôi phía trước - 30/4 - ngày hạnh phúc? Và phải chăng cảm giác khi tôi nhìn thấy mầm hoa ấy chính là cảm giác hạnh phúc ? Học giả Trung Quốc – Lâm Ngữ Đường khi bàn về sống đẹp có nói: “Hạnh phúc của ta thuộc về cảm giác”. Mỗi người có một cảm giác về hạnh phúc khác nhau nhưng xét cho cùng đó là niềm hân hoan, vui sướng của tâm hồn. Ta thấy hạnh phúc ánh lên trong đôi mắt của người cha khi đứa con xa về thăm nhà. Hạnh phúc hiện hình trong nụ cười móm mém của 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng