ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------
PHẠM VĂN TÁM
NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT
TỈNH BẾN TRE - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------
PHẠM VĂN TÁM
NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT
TỈNH BẾN TRE - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đoàn Trường Thụ
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Đoàn Trường Thụ. Các số liệu và
trích dẫn trong luận văn là trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên
cứu của mình.
Học viên
Phạm Văn Tám
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
NỘI DUNG .................................................................................................. 6
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ................................................. 6
1.1. Khái niệm.............................................................................................. 6
1.2. Yêu cầu phải nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt
trong giai đoạn hiện nay ............................................................................. 14
1.3. Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt - Vấn đề cốt tử
trong xây dựng Đảng hiện nay .................................................................. 19
Chương 2. THỰC TRẠNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
TỈNH BẾN TRE .......................................................................................... 23
2.1. Vài nét về Cán bộ chủ chốt tỉnh Bến Tre .......................................... 23
2.1.1. Những nhân tố ảnh hưởng tới năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ
chủ chốt tỉnh Bến Tre.................................................................................... 23
2.1.1.1. Nhân tố khách quan ................................................................. 23
2.1.1.2. Nhân tố chủ quan ..................................................................... 33
2.1.2. Trình độ chuyên môn được đào tạo bồi dưỡng .................................. 36
2.2. Năng lực thực tế và yêu cầu phải nâng cao năng lực lãnh đạo của
đội ngũ cán bộ chủ chốt tỉnh Bến Tre ....................................................... 40
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ
NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT
TỈNH BẾN TRE TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .............................. 60
3.1. Quan điểm ............................................................................................ 60
3.2. Phương hướng và những giải pháp cơ bản ....................................... 62
3.2.1. Phương hướng ..................................................................................... 62
3.2.2. Những giải pháp.................................................................................. 65
3.2.2.1. Đổi mới công tác đánh giá, quy hoạch cán bộ ........................ 65
3.2.2.2. Công tác bố trí cán bộ ............................................................. 78
3.3. Một số khuyến nghị ............................................................................. 93
KẾT LUẬN .................................................................................................. 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 103
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là một tỉnh nông nghiệp khu vực đồng bằng sông Cửu Long, việc
có được một đội ngũ cán bộ có năng lực ở tỉnh Bến Tre nhằm đáp ứng yêu
cầu mới của đất nước là công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên cơ sở một nền
nông nghiệp bền vững là một việc gặp nhiều khó khăn. Trong lịch sử đấu
tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Bến Tre đã có những
đóng góp không nhỏ. Lịch sử Việt Nam thế kỷ XX đã ghi nhận phong trào
Đồng Khởi như một mốc son chói lọi của sự nghiệp giữ nước. Thời kỳ hoà
bình, xây dựng cuộc sống mới, Bến Tre cũng đóng góp những thành tựu quan
trọng trong kinh tế, văn hoá, xã hội như nuôi trồng, đánh bắt thuỷ, hải sản,
phát triển các làng nghề giống cây trồng, tổ hợp kinh doanh dừa, du lịch sinh
thái, du lịch văn hoá…. và với sự phát triển kinh tế chung của cả nước, Bến
Tre đến nay đã không còn là một ốc đảo.
Những thành tựu ấy, có sự đóng góp không nhỏ của một đội ngũ
cán bộ chủ chốt của các ban ngành trong tỉnh bên cạnh sự nỗ lực của nhân
dân, các ban, ngành và các cấp trong hệ thống chính trị. Nhưng so với yêu cầu
mới của sự nghiệp phát triển đất nước, thì những thành quả ấy chưa thực sự
xứng với tiềm năng con người, mà cụ thể là tiềm năng, năng lực lãnh đạo của
một đội ngũ cốt cán của tỉnh. Điều này có thể nhìn thấy, rằng đứng trước
những điều kiện rất thuận lợi của đất nước như tình thế giao lưu, hội nhập sâu
vào các thể chế quốc tế, chính sách mở cửa nền kinh tế của Đảng và Nhà
nước Việt Nam, bên cạnh là sự phát triển của các địa phương láng giềng như
Tiền Giang, TP. Hồ Chí Minh, Long An… và thế mạnh riêng có về tự nhiên,
văn hoá, con người Bến Tre thì việc phát triển về các mặt như hiện nay, là
chưa thực sự đáp ứng.
1
Việc nghiên cứu năng lực của đội ngũ cán bộ chủ chốt của tỉnh Bến
Tre, tìm hiểu, phát hiện ra những năng lực còn tiềm ẩn để phát huy và vận
dụng trong thực tiễn, tìm ra những mặt còn hạn chế của đội ngũ này để có
hướng khắc phục nhằm góp phần xây dựng được một đội ngũ cán bộ giữ các
vị trí chủ chốt ở các ngành, các cấp của tỉnh có chất lượng, là một việc làm
cần thiết và cấp bách. Việc nghiên cứu và những phát hiện của nghiên cứu ấy,
có thể đóng góp cho thực tiễn Việt Nam trong quá trình tiếp theo là đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, và nghiên cứu ấy, cũng có thể góp
thêm về mặt lý luận đối với chủ đề khoa học lãnh đạo và phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao.
Vì những lý do nêu trên, tác giả luận văn tiếp cận chủ đề nghiên cứu
này với đề tài cụ thể là "Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt
tỉnh Bến Tre - Thực trạng và giải pháp" làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt là một vấn đề quan
trọng, có tính thời sự, được nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn quan
tâm ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Có thể kể đến một số công trình cơ
bản như:
Về sách nghiên cứu, thảo luận: Quân vương, Niccolò Machiavelli,
NXB Tri thức, Hà Nội, 2010; Phát triển kỹ năng lãnh đạo, John C.Maxwell,
NXB Lao động-xã hội-2012; Con người chính trị Việt Nam - Truyền thống và
hiện đại, GS.TS Nguyễn Văn Huyên, NXBCTQG, Hà Nội, 2009; Đảng cộng
sản cầm quyền - Nội dung và phương thức cầm quyền của đảng, GS.TS
Nguyễn Văn Huyên (chủ biên), NXB CTQG, Hà Nội, 2011; 21 nguyên tắc
vàng của Nghệ thuật lãnh đạo, John C.Maxwell, NXB Lao động- xã hội2012; Văn kiện đại hội Đảng XI, Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam (đã được
2
sửa đổi bổ sung) và những quy định mới về chức năng nhiệm vụ quy chế hoạt
động của các cơ sở Đảng, NXB lao động- 2011; “ Phương thức Đảng lãnh
đạo Nhà nước”, Trần Đình Huỳnh, Nxb Hà Nội - 2001; Vấn đề điều chỉnh
chức năng và thể chế của nhà nước dưới tác động của toàn cầu hoá, Phạm
Thái Việt, NXB KHXH, 2008; Văn hoá và con người, Nguyễn Trần Bạt,
NXB Hội nhà văn - 2011; Cải cách và sự phát triển, Nguyễn Trần Bạt, NXB
Hội nhà văn - 2011; Nhà nước trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay,
Lê Minh Quân, NXB Chính trị Quốc gia - 2010;
Về các bài đăng trên tạp chí:
- Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Quốc hội trong thời kỳ mới, Trần Đình Thắng (2010), Tạp chí Lịch sử Đảng,
số chuyên đề 8 (237) tháng 8.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối với bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân góp phần nâng cao văn hoá dân chủ và văn hoá pháp luật
cho nhân dân ở nước ta hiện nay, Tống Đức Thảo (2011).
- Xây dựng Nhà nước thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, Nguyễn Phú Trọng (2011), Tạp chí Cộng sản, số 827.
- Quan điểm của Đảng về phòng, chống suy thoái phẩm chất chính
trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên thời kỳ mới, Đỗ Xuân Tuất
(2012), , tạp chí Lịch sử Đảng, số 2 (225).
Các công trình trên đây đã đề cập được những chủ đề lớn, ở những
góc độ và mục đích khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình
khoa học nào nghiên cứu về: Năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt
của tỉnh Bến Tre trong giai đoạn hiện nay. Luận văn này cố gắng kế thừa
những giá trị quý báu đã có, tiếp tục đi sâu nghiên cứu những vấn đề cần được
làm sáng tỏ trong điều kiện hiện nay và những năm tiếp theo.
3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Phân tích thực trạng về năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ
chốt tỉnh Bến Tre trong giai đoạn hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế,
nêu lên phương hướng và giải pháp đổi mới, nhằm tăng cường năng lực lãnh
đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt của tỉnh.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ những vấn đề lý luận về: cán bộ, cán bộ chủ chốt, năng lực
lãnh đạo, năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt …Khảo sát, phân tích thực
trạng, làm rõ mặt tốt, hạn chế và khó khăn, vướng mắc trong sự lãnh đạo của
đội ngũ cán bộ chủ chốt của Bến Tre hiện nay.
- Nêu phương hướng, giải pháp đổi mới năng lực lãnh đạo của đội
ngũ cán bộ chủ chốt của Bến Tre nhằm góp phần xây dựng năng lực lãnh đạo
của đội ngũ cán bộ chủ chốt ở Bến Tre nói riêng và góp phần xây dựng hệ
thống chính trị của tỉnh vững mạnh.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về công tác cán bộ, về đảng cầm quyền, về quyền lực chính trị và thực thi
quyền lực chính trị, về vai trò của tổ chức đảng và vai trò của cán bộ đảng viên.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
4
- Phương pháp phân tích hệ thống để xác định vị trí và mối tương
quan giữa các chủ thể trong hệ thống chính trị, nhất là vai trò, nhiệm vụ, khả
năng quy tụ, tập hợp của từng cán bộ chủ chốt nói riêng và của cán bộ đảng
viên nói chung và kết hợp phương pháp kết hợp lịch sử - logic; phương pháp
phân tích, tổng hợp; phương pháp điều tra, phỏng vấn.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt tỉnh Bến Tre giai đoạn từ
năm 2000 đến nay, dẫn chứng tư liệu từ thực tiễn của tỉnh.
Phạm vi về thời gian: từ 2000 đến nay.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Hệ thống hoá, phân tích các khái niệm: năng lực lãnh đạo; cán bộ
chủ chốt; năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt… Phản ánh và phân tích thực
trạng năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt tỉnh Bến Tre thời gian
qua và hiện nay.
- Góp phần luận giải rõ thêm lý luận về năng lực lãnh đạo của cán
bộ chủ chốt cấp tỉnh và tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong
điều kiện hiện nay và những năm tiếp sau.
- Đưa ra ý kiến mới về các giải pháp xoay quanh công tác quy
hoạch, đào tạo, đào tạo lại và bố trí đội ngũ cán bộ chủ chốt của tỉnh Bến Tre.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn gồm 03 chương, 8 tiết.
5
NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm:
- Cán bộ: Xung quanh khái niệm cán bộ cho đến nay vẫn còn nhiều
ý kiến khác nhau. “ Ở nước ta, theo cách hiểu thông thường cán bộ được coi
là tất cả những người thoát ly, làm việc trong bộ máy chính quyền, Đảng,
đoàn thể, quân đội. Trong quan niệm hành chính cán bộ được coi như những
người có mức lương từ cán sự (cũ) trở lên, để phân biệt với nhân viên có mức
lương thấp hơn cán sự một” [38, tr.16]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nói và
khái niệm cán bộ. Trong tác phẩm sửa đổi lối làm việc, Người viết: “Cán bộ
là những người đem chính sách của Đảng, Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cho
Đảng, cho chính phủ rõ, để đặt chính sách cho đúng” [34, tr.269].
Như vậy theo quan niệm chung nhất, “cán bộ là khái niệm chỉ những
người có chức vụ, vai trò và cương vị trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng
đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều
hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức” [38, tr.18].
- Cán bộ chủ chốt: Theo nghĩa rộng “bao gồm những ai giữ chức vụ
và trách nhiệm cao trong một tổ chức, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của tổ
chức, của bộ máy, có vai trò tham gia định hướng, điều khiển hoạt động của
cả bộ máy” [38, tr.33].
Theo Lênin, cán bộ lãnh đạo chủ chốt là “người đại diện tiên tiến có
khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [37, tr.473].
Cán bộ chủ chốt còn là “Khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai
trò và cương vị nòng cốt trong bộ máy tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến
hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý điều
hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức” [38; tr.20].
6
"Đó là những người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ cao nhất
trong một tập thể, có quyền ra những quyết định và chủ trương, có trách nhiệm
và quyền điều hành một tập thể, một đơn vị, một tổ chức, để thực hiện những
nhiệm vụ của tập thể hoặc tổ chức ấy, thậm chí có thể chi phối, dẫn dắt toàn bộ
hoạt động của một tổ chức nhất định [38, tr.33].
Như vậy, cán bộ chủ chốt là những cán bộ lãnh đạo quan trọng nhất
của tổ chức, là người đứng đầu tổ chức, là những người cầm lái, điều hành tổ
chức và chịu trách nhiệm về hoạt động của tổ chức đó tùy theo vị trí, cương vị
của họ ở mỗi cấp và lĩnh vực mà họ đảm nhiệm.
Cán bộ chủ chốt, nhìn chung là chỉ những người đứng đầu, phụ
trách một tổ chức, đơn vị, phong trào nào đó do bầu cử hoặc chỉ định. Do vậy,
cán bộ chủ chốt có trách nhiệm đề ra những phương hướng, chủ trương,
quyết định liên quan tới tổ chức, đơn vị, phong trào mà họ phụ trách. Cán bộ
chủ chốt còn là người dẫn dắt, tổ chức phong trào theo một hướng đi cụ thể.
Họ là những người điều hành, chỉ đạo thông qua các quyết định. Chính họ
cũng là người điều chỉnh những quyết định sao cho phù hợp với điều kiện
thực tiễn.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt là những người đứng hàng đầu quan trọng
nhất, có tác động chi phối chính toàn bộ hoạt động của một tổ chức nhất định.
Trên ý nghĩa đó, cũng có thể hiểu cán bộ chủ chốt là cán bộ lãnh
đạo của mỗi cơ quan quyền lực hay của mỗi đơn vị quản lý. Cán bộ chủ chốt
cũng có thể coi là các nhà chính trị. Trong thời đại dân chủ, hệ thống quyền
lực nhà nước đều do một hay một số đảng chính trị liên minh nắm quyền. Do
đó, các vị trí cán bộ chủ chốt đồng thời cũng là những vị trí do người của
đảng cử ra, hoặc do người của đảng đứng ra để tranh cử vào nắm các vị trí ấy.
Trong hệ thống quyền lực có nhiều nhân tố cấu thành, lại phân ra
trên nhiều thang bậc khác nhau, do đó, có thể nói cán bộ chủ chốt là những
7
người đứng đầu trong hệ thống các thang bậc của hệ thống quyền lực, cả hệ
thống đảng, chính quyền và các đoàn thể.
- Năng lực lãnh đạo:
Theo từ điển tiếng Việt, năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan
sẳn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Theo nhà Tâm lý học người Nga
Cơvaliốp: Năng lực là một tập hợp hoặc tổng hợp những thuộc tính cá nhân
con người đáp ứng những nhu cầu của hoạt động và bảo đảm cho hoạt động
có kết quả cao..
Như vậy, nói đến năng lực là nói đến khả năng đạt được kết quả
hoạt động nào đó. Năng lực không phải là những thuộc tính cá nhân riêng lẽ
mà là một tổ hợp các thuộc tính cá nhân đáp ứng yêu cầu cao của hoạt động.
Các thuộc tính ấy có quan hệ tác động lẫn nhau, thống nhất với nhau trong
một chỉnh thể.
Mỗi con người có thể tích hợp nhiều năng lực tiềm ẩn, những năng
lực đó được bộc lộ ra hay không tùy thuộc vào những điều kiện chủ quan hay
khách quan. Đối với những người có tài năng đặc biệt và thiên tài, năng lực
của họ được phát triển và bộc lộ mạnh mẽ khiến họ đạt đến đỉnh cao ở nhiều
lĩnh vực khác nhau.
Năng lực vừa mang tính bẩm sinh có sẵn, vừa là kết quả của quá
trình học tập, rèn luyện, hoạt động thực tiễn của con người. Theo Hồ Chí
Minh năng lực con người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, mà một
phần lớn do công tác, do luyện tập mà có. Vì thế, năng lực không chỉ là tư
chất bẩm sinh thuần tuý vốn có của con người, mà là kết quả của sự phối hợp
những tư chất bẩm sinh vốn có với sự rèn luyện, tu dưỡng, học tập thông qua
hoạt động thực tiễn của con người.
Cấp tỉnh là cấp trực tiếp lĩnh hội những chủ trương, nghị quyết của
Đảng và triển khai, tổ chức, vận động nhân dân thực thi đường lối, chủ trương
8
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trên địa bàn, đòi hỏi đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt của hệ thống chính trị phải có năng lực toàn diện, nhất định
trên nhiều lĩnh vực mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Ngoài ra cán
bộ lãnh đạo chủ chốt còn phải có năng lực sáng tạo, tính quyết đoán và khả năng
làm việc với con người.
Năng lực lãnh đạo là năng lực điều khiển mang tính định hướng đối
với đối tượng lãnh đạo bằng các phương pháp như ra lệnh, động viên, giáo
dục, thuyết phục … nhằm đạt mục tiêu nhất định.
- Năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt:
Người cán bộ lãnh đạo nói chung, cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải có
năng lực nhất định. Trong đó, năng lực tư duy lý luận và năng lực tổ chức
thực tiễn là hai nhân tố quan trọng nhất. Hai yếu tố này có quan hệ chặt chẽ
với nhau, không tách rời nhau, cái này hỗ trợ cái kia phát triển. Không có
năng lực tư duy lý luận thì không có khả năng khái quát, sáng tạo và vận dụng
đúng đắn linh hoạt các qui luật khách quan. Ngược lại không có năng lực thực
tiễn thì sa vào bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, quan liêu, mệnh lệnh xa rời
thực tiễn, thoát ly cuộc sống đầy sôi động đang cuộn chảy.
Cấp tỉnh là cấp trung gian, là cấu nối giữa Trung ương và địa
phương trong việc triển khai, tổ chức, vận động nhân dân thực thi đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đòi hỏi đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải có năng lực toàn diện, nhất định trên nhiều
lĩnh vực mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Ngoài ra cán bộ
chủ chốt còn phải có năng lực sáng tạo, tính quyết đoán và khả năng làm
việc với con người.
Từ những phân tích như trên có thể hiểu, năng lực lãnh đạo của cán
bộ chủ chốt là tổng hợp khả năng lãnh đạo, quản lý điều hành hoạt động của
hệ thống chính trị với chất lượng và hiệu quả cao bao gồm:
9
* Năng lực tư duy lý luận
Là tổng thể tri thức trí tuệ, phương pháp luận của chủ thể đáp ứng
yêu cầu phát triển, nhận thức nhanh nhạy, đúng đắn về những vấn đề thực tiễn
ở cấp độ lý luận, giúp cho cán bộ chủ chốt có những phản ứng sắc bén, khả
năng vận dụng sáng tạo linh hoạt lý luận vào thực tiễn để nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý. Nó được biểu hiện cụ thể:
Thứ nhất, đó là khả năng tiếp thu lý luận, đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước một cách đúng đắn, khả năng phát
hiện những mâu thuẫn, những vấn đề mới, khả năng tổng kết thực tiễn và khả
năng vận dụng sáng tạo lý luận, đường lối, chủ trương, chính sách để xây
dựng chương trình, kế hoạch công tác, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phù
hợp với thực tiễn.
Thứ hai, năng lực tư duy lý luận mang tính khái quát, là khả năng
liên kết tri thức các lĩnh vực, các ngành nghề, các bộ phận phong phú đa dạng
thành một chỉnh thể ở mức độ khái quát cao. Đồng thời phân định được tính
đặc thù, tính riêng biệt của các loại lĩnh vực, bộ phận để khi lãnh đạo, chỉ đạo
vừa mang tính lịch sử cụ thể vừa mang tính khái quát tổng hợp.
Thứ ba, năng lực hiện thực hoá tri thức đó là khả năng biến những
tri thức đã lĩnh hội được thành các chủ trương, chương trình, kế hoạch hành
động làm biến đổi hiện thực trực tiếp. Nó thực hiện khả năng vận dụng lý luận
vào thực tiễn, liên hệ lý luận với thực tiễn, vận dụng cái chung một cách đúng
đắn vào từng tình huống cụ thể. Đó cũng là khả năng tổng hợp để có cái nhìn
hệ thống, nắm được cái chủ yếu, cái bản chất của sự vật hiện tượng trong sự
vận động của chúng, trên cơ sở đó đưa ra những quyết định đúng đắn phù hợp
với thực tiễn.
Như vậy, năng lực tư duy lý luận của cán bộ chủ chốt có giá trị định
hướng đúng đắn hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của đội ngũ này.
Cơ sở của năng lực tư duy lý luận là tri thức lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
10
tưởng Hồ Chí Minh, kho tàng tri thức của nhân loại, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và sự trải nghiệm thực tiễn trong phong trào cách mạng.
* Năng lực tổ chức thực tiễn
Là năng lực tổ chức vận hành bộ máy hệ thống chính trị có nhiệm
vụ xác định hoạt động nhịp nhàng cân đối có trật tự, có hiệu lực, hiệu quả
nhằm hiện thực hoá những mục tiêu đề ra. Biểu hiện cụ thể của năng lực lãnh
đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt như sau:
Một là, có khả năng thu nhập và xử lý thông tin liên quan đến mọi
mặt của đời sống xã hội: Chính trị, kinh tế, văn hoá, quốc phòng- an ninh …
một cách nhanh chóng và có hiệu quả cụ thể, thiết thực. Công tác lãnh đạo
quản lý là biểu hiện mối quan hệ giữa chủ thể lãnh đạo quản lý và khách thể
bị lãnh đạo, quản lý. Mối quan hệ này được phản ánh qua thông tin hai chiều
giữa chủ thể và khách thể. Thiếu thông tin hoặc xử lý thông tin không kịp
thời, chính xác người lãnh đạo quản lý dễ rơi vào tình trạng quan liêu, độc
đoán, chuyên quyền xa rời thực tiễn…
Đội ngũ cán bộ chủ chốt, họ vừa phải tổ chức thực hiện các chỉ thị,
nghị quyết của cấp trên, vừa phải bám sát địa phương, nắm chắc tình hình địa
phương để triển khai thực hiện nhiệm vụ kế hoạch đúng đắn phù hợp với thực
tiễn, với đặc thù của tỉnh. Vì vậy, thu thập xử lý thông tin đầy đủ trước hết phải
nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, chỉ thị Nghị quyết của
cấp trên. Đồng thời phải xây dựng phương pháp làm việc khách quan, khoa học
hình thành mạng lưới cung cấp thông tin xác thực từ địa phương, kết hợp với
việc đi sâu, đi sát cơ sở nắm vững những diễn biến hoạt động kinh tế, xã hội, an
ninh- quốc phòng…trên địa bàn của tỉnh. Sau khi có đầy đủ thông tin người
cán bộ lãnh đạo chủ chốt lại phải có khả năng tổng hợp, khái quát, phân tích để
rút được những đặc điểm nguyên nhân đề ra được những giải pháp, quyết định
đúng đắn, giải quyết có hiệu quả những nhiệm vụ đặt ra.
11
Hai là, khả năng tổ chức bộ máy, phối hợp các lực lượng, các bộ
phận, các cá nhân thực hiện nhiệm vụ đặt ra ở địa phương.
Cán bộ chủ chốt phải có tư duy tổ chức phối hợp các bộ phận trên
cơ sở phát hiện ra những điểm mạnh, điểm yếu của đội ngũ cán bộ thuộc
quyền để bố trí phù hợp với năng lực, sở trường. Phải là trung tâm đoàn kết,
tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện những nhiệm vụ đang đặt ra.
Ba là, làm tốt công tác kiểm tra, giám sát để duy trì, điều chỉnh việc
thực hiện các quyết định quản lý. Phát hiện kịp thời những vấn đề mới nảy
sinh để giải quyết tìm ra những lệch lạc sai sót để sửa chữa, điều chỉnh các
vấn đề thực tế đặt ra để các quyết định có hiệu lực, hiệu quả có ý nghĩa rất
quan trọng. Lênin chỉ rõ: “ Khi mục tiêu và nhiệm vụ đã được xác định, quyết
định được thông qua, bộ máy con người đã được sắp xếp thì trọng tâm của sự
lãnh đạo, quản lý phải chuyển sang lĩnh vực kiểm tra và gắn với kiểm tra là
đôn đốc, uốn nắn, tổ chức thực hiện đến cùng quyết định” [41, tr.248].
Công tác kiểm tra, giám sát làm tăng hiệu quả các quyết định quản
lý, đảm bảo cho việc hoàn thành nhiệm vụ một cách triệt để, tránh được các
căn bệnh vốn có như qua loa, đại khái, hạn chế các tiêu cực có thể nảy sinh
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Năng lực này còn thể hiện ở khả năng đánh giá, hiệu quả việc thực
hiện các quyết định và khả năng đúc rút kinh nghiệm thực tiễn, kịp thời vận
dụng nó vào cuộc sống.
* Năng lực sáng tạo và tính quyết đoán
Năng lực sáng tạo là khả năng vận dụng tri thức lý luận và khoa học
vào thực tiễn không rập khuôn máy móc, nhằm tìm ra những con đường mới,
những phương pháp mới, giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra phù hợp
với đòi hỏi khách quan. Với tư duy năng động người cán bộ chủ chốt phải nắm
bắt được sự vận động biến đổi không ngừng trên quan điểm khách quan, toàn
diện, lịch sử cụ thể và phát triển để đưa ra những quyết sách đúng.
12
Bên cạnh đó phải tìm ra cái mới, phân tích được nguyên nhân phát
sinh, xu hướng vận động của các vấn đề đặt ra để có những giải pháp phù
hợp. Thực tiễn hết sức phong phú, vì vậy người cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải
có khả năng phân loại hệ thống hoá vấn đề, xác định được trọng tâm, mâu
thuẫn cơ bản để có phương án giải quyết sát đúng, ra những quyết định nhanh
nhạy phát huy được nguồn lực, tiềm năng của địa phương để ổn định chính
trị- xã hội, phát triển kinh tế. Đi cùng với tính sáng tạo là tính quyết đoán, đó
là khả năng nắm bắt được vấn đề, ra những quyết định quả quyết, dứt khoát,
không do dự, không rụt rè, đùn đẩy, thoái thác trách nhiệm. Trên cơ sở nắm
vững cơ sở khoa học của vấn đề, nắm vững phương pháp luận trong giải
quyết vấn đề, tính quyết đoán tăng thêm hiệu lực, hiệu quả quản lý, tạo được
niềm tin cho người thực hiện, bảo đảm sự thống nhất, nhất quán trong việc ra
quyết định lãnh đạo, chỉ đạo. Nó là sản phẩm của tính kiên quyết, tính chủ
động, tư duy sáng tạo, sự thận trọng và niềm tin khoa học.
Tính quyết đoán thể hiện trước hết ở khả năng phán đoán chính xác
tình hình, đưa ra được quyết định chỉ đạo nhanh, chính xác trong những tình
huống bất ngờ mà không đòi hỏi thời gian chờ đợi để phân tích dữ kiện hoặc
chưa có đủ dữ kiện cần thiết để phân tích. Quyết định này có được do sự nhạy
cảm của trực giác, khả năng phán đoán, phân tích, tổng hợp nhanh nhạy trên
cơ sở tri thức phong phú đã được tích lũy. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải giải
quyết kịp thời, đúng đắn những vấn đề thực tiễn đặt ra. Nếu không giải quyết
kịp thời sẽ không đạt được hiệu quả công tác lãnh đạo quản lý; mất thời cơ,
lúng túng, bị động, công việc dồn ép, làm chậm, kìm hãm, cản trở…Nếu
quyết định sai, chậm trễ sẽ gây mất lòng tin, có thể là ngòi nỗ bùng phát xung
đột hoặc tăng thêm bùng phát xung đột gây mất ổn định trật tự xã hội. Nếu
không quyết đoán, trông chờ ỷ lại cấp trên, dựa dẫm vào tập thể thì hiệu quả
công tác kém. Vì thế người cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải không ngừng học tập,
rèn luyện để có tri thức nhận biết được sự vận động của thực tiễn, hiểu và nắm
13
vững công việc mình phụ trách, có phương pháp luận khoa học, rèn luyện tính
quyết đoán để có khả năng ra quyết định một cách dứt khoát và dám chịu trách
nhiệm về quyết định của mình.
*Năng lực làm việc với con người
Môi trường hoạt động của cán bộ lãnh đạo chủ chốt luôn gắn liền với
con người. Công tác lãnh đạo quản lý của họ là sự tác động đến con người bằng
nhiều phương thức khác nhau. Vì thế khả năng giao tiếp vừa thể hiện năng lực
lãnh đạo vừa là một nghệ thuật để nâng cao năng lực lãnh đạo. Phần lớn thời
gian làm việc của cán bộ lãnh đạo chủ chốt là giao tiếp với cấp trên (để nhận
chỉ đạo) và với cấp dưới để triển khai thực hiện công việc. Chất lượng công tác
phụ thuộc rất nhiều vào khả năng giao tiếp, làm việc với con người.
Năng lực làm việc với con người là khả năng nắm bắt được tâm lý,
tư tưởng của đối tượng thông qua giao tiếp để chuyển được chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống thông qua con người. Người cán
bộ chủ chốt phải xây dựng được các mối quan hệ, phải thu hút mọi người
tham gia vào công việc chung xuất phát từ lợi ích chung. Có thái độ điềm
tĩnh, cư xử nhã nhặn, lịch sự, tế nhị, khiêm tốn, tôn trọng hiểu rõ tâm tư tình
cảm của cán bộ cấp dưới và nhân dân. Biết tự phê bình và phê bình, phát huy
sáng kiến nhân dân, nghiêm khắc với những tiêu cực. Do vậy, cán bộ lãnh đạo
chủ chốt phải có khả năng đoàn kết, phát huy sức mạnh của đội ngũ cán bộ
trong hệ thống chính trị, sức mạnh của toàn dân và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân để thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương .
1.2. Yêu cầu phải nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ
chốt tỉnh Bến Tre trong giai đoạn hiện nay
Trong những giai đoạn cách mạng khác nhau luôn đặt ra những
nhiệm vụ chính trị khác nhau. Chính những nhiệm vụ chính trị khác nhau của
từng giai đoạn cách mạng đã đặt ra những yêu cầu khác nhau về cán bộ mà
nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt.
14
Khi chưa có chính quyền trong tay thì Đảng cần đến một đội ngũ
cán bộ có bản lĩnh, có nhiều kinh nghiệm, tri thức về đấu tranh vũ trang, vận
động quần chúng, hoạt động bí mật. Khi đó, yêu cầu của Đảng đối với cán bộ,
trước hết là người có lòng trung thành, có tinh thần căm ghét kẻ thù, dũng
cảm, dám hy sinh vì sự nghiệp của giai cấp, của dân tộc.
Lênin mặc dù không có tác phẩm chuyên bàn về cán bộ chủ chốt
nhưng trong tư tưởng đã nêu khá toàn diện yêu cầu đối với người cán bộ cách
mạng, người lãnh đạo Đảng như sau: "Người cán bộ lãnh đạo trước hết phải là
người tiêu biểu cho lý tưởng cách mạng, cho lẽ sống, là người có tri thức toàn
diện và uyên thâm của thời đại mình. Những tri thức đó chỉ có thể trở thành
hành động cách mạng, đưa cách mạng phát triển đúng hướng khi gắn liền và
thống nhất với lý tưởng, lẽ sống, lòng trung thực, tính kiên nghị, tự nguyện
tham gia vào hàng ngũ những người chiến sĩ cách mạng. Người chiến sĩ cách
mạng đòi hỏi sự thống nhất trong mình tính khoa học của nhà khoa học và
lòng nhiệt thành của người chiến sĩ" [35, tr.13].
Khi đã có chính quyền trong tay, có hệ thống chính trị, cuộc cách
mạng đã chuyển sang giai đoạn mới và đặt ra những nhiệm vụ mới trong bảo
vệ và xây dựng đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiệm
vụ mới đã đặt ra yêu cầu với đội ngũ cán bộ mà nhất là cán bộ chủ chốt không
chỉ có lòng trung thành, biết đặt lợi ích của Đảng, của giai cấp, của dân tộc
lên trên lợi ích cá nhân, mà còn phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tính
kiên trì tháo vát, đầu óc sáng suốt, có tài tổ chức thực tiễn.
Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc đòi hỏi riêng của thời chiến
đối với cán bộ và cán bộ chủ chốt, trong sự nghiệp xây dựng đất nước trong
thời kỳ đổi mới, trong quá trình hội nhập nền kinh tế tri thức còn đòi hỏi ở cán
bộ chủ chốt những phẩm chất đạo đức, tri thức và phong cách hành xử mang
đặc điểm khác.
15
Đối với cán bộ chủ chốt hiện nay, đòi hỏi phải là một đội ngũ cán
bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có lòng trung thành với lý tưởng cách
mạng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trung thực
gương mẫu về đạo đức và lối sống, "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư "
[34, tr.268] có ý thức tổ chức kỷ luật cao, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập
trung dân chủ, có trình độ chuyên môn phù hợp với nhiệm vụ đảm đương.
Cán bộ chủ chốt còn phải có trình độ lý luận chính trị chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và có năng lực nắm bắt tốt quan điểm,
chủ trương đường lối của Đảng. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
khi nói về tư cách của đảng viên chân chính cách mạng. Người đòi hỏi ở cán
bộ đảng viên "Phải hiểu biết lý luận" [34, tr.249]. Khi miền Bắc Việt Nam
chuyển từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp sang xây dựng CNXH thì
nhiệm vụ cách mạng đã thay đổi, lúc đó Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
"Yêu cầu cán bộ và đảng viên chẳng những thạo về chính trị mà còn phải giỏi
về chuyên môn..." [31, tr.221].
Cán bộ chủ chốt còn phải có kiến thức khoa học xã hội, bồi dưỡng
cho mình nhân sinh quan và thế giới quan của người cách mạng. Đó là nền
tảng của tư duy và bản lĩnh chính trị của người cán bộ, là cơ sở để nâng cao
trình độ quản lý và khả năng quán triệt đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước. Đòi hỏi ở cán bộ chủ chốt còn phải có kiến thức về khoa học quản
lý, để tăng cường năng lực quản lý và xử lý các tình huống có thể xảy ra trong
mối quan hệ giữa người quản lý và người bị quản lý.
Để đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi trên, cán bộ chủ chốt cần phải biết
nắm thông tin, biết dự đoán tương lai vận động của ngành mình, địa phương
mình để đề ra mục tiêu thích hợp. Phải biết lập kế hoạch, tổ chức thực hiện kế
hoạch, có năng lực tổ chức vận động và kiểm tra quá trình thực hiện kế hoạch
của người chấp hành. Cán bộ chủ chốt còn phải là người biết chủ động, quyết
16
- Xem thêm -