Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh...

Tài liệu Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh hà tĩnh giai đoạn 2009-2013

.PDF
102
933
130

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------ NGUYỄN CÔNG HẢI NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH HÀ TĨNH GIAI ĐOẠN 2009-2013 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC Hà Nội - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------ NGUYỄN CÔNG HẢI NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH HÀ TĨNH GIAI ĐOẠN 2009-2013 LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Chính trị học Mã số: 60 31 02 01 Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Thu Hoài Hà Nội - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Trần Thị Thu Hoài. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu của luận văn không trùng với các công trình khác. Tác giả luận văn Nguyễn Công Hải MỤC LỤC MỞ ĐẦU ………………………………………………………………… 4 1. Sự cần thiết của đề tài………………………………………………….. 4 2. Tình hình nghiên cứu đề tài……………………………………………. 5 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………….. 7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………... 7 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu…………………………….. 7 6. Đóng góp của luận văn………………………………………………… 8 7. Kết cấu của luận văn…………………………………………………… 8 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ ……………….. 9 1.1. Một số khái niệm chung …………………………………………… 9 1.1.1. Lý luận chính trị, trình độ lý luận chính trị………………………… 9 1.1.2. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở………………………………………….. 22 1.1.3. Vai trò của lý luận chính trị đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở…… 26 1.1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến trình độ lý luận chính trị của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở………………………………………………………... 35 1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở…………………………. 44 1.3. Một số vân đề mang tính nguyên tắc trong việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở………………………. 47 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY …….. 52 2.1. Thực trạng…………………………………………………………... 52 2.1.1. Tổng quan về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay…………………………………………………………………… 52 1 2.1.2. Thực trạng về trình độ lý luận chính trị của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay và nguyên nhân……………………………… 56 2.1.3. Thực trạng công tác giáo dục lý luận chính trị; nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay và nguyên nhân ……………………………………………………………… 63 2.2. Quan điểm và giải pháp nâng cao trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh ……………………. 70 2.2.1. Quan điểm của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh về nâng cao trình độ lý luận chinh trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở …………………. 70 2.2.2. Giải pháp nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay ……………………………... 73 KẾT LUẬN ……………………………………………………………... 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………… 95 2 DANH MỤC VIẾT TẮT CNXH Chủ nghĩa xã hội TW Trung ương BCH Ban Chấp hành UBND Ủy ban nhân dân HĐND Hội đồng nhân dân ĐH Đại hội Nxb Nhà xuất bản NQ Nghị quyết 3 MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết nghiên cứu luận văn Cán bộ là khâu then chốt, là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, cán bộ là nguyên nhân của mọi nguyên nhân, vấn đề cán bộ và công tác cán bộ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Mỗi giai đoạn cách mạng cần có đội ngũ cán bộ phù hợp, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của giai đoạn cách mạng đó. Đất nước ta đang chuyển sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, mô hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta chưa có tiền lệ trong lịch sử, vừa thực hiện vừa tổng kết rút kinh nghiệm, cùng với việc đất nước hội nhập sâu vào thế giới, trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp, thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen, tác động lẫn nhau đang đặt ra những yêu cầu và đòi hỏi rất cao cho đội ngũ cán bộ. Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới hết sức nặng nề, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực… phù hợp với yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Do đó, nhiệm vụ của hệ thống chính trị là phải nâng cao trình độ về mọi mặt cho cán bộ, đảng viên, nhất là về trình độ lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. 4 Thực tế cho thấy đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hiện nay nói chung và ở Hà Tĩnh nói riêng đa số trưởng thành từ thực tiễn, từ phong trào, họ ít được đào tạo lý luận chính trị một cách bài bản, nặng về kinh nghiệm, trình độ lý luận chính trị hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của địa phương. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở chính là những người trực tiếp đưa, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ở cơ sở và mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều được thiển khai thực hiện và kiểm nghiệm từ cơ sở. Vì vậy, để xây dựng được một đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ngang tầm, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa thì một trong những yêu cầu đặt ra đối với cán bộ là phải nâng cao trình độ lý luận chính trị. Với ý nghĩa đó, chúng tôi lựa chọn hướng nghiên cứu vấn đề: “Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2009 - 2013” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Chính trị học. 2. Tình hình nghiên cứu Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ nói chung, cán bộ cấp cơ sở nói riêng là nội dung quan trọng góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp. Xung quanh vấn đề này đã có một số công trình đề cập đến trên một số phương diện. Tiêu biểu là các công trình: Đề tài 0206 - KHXH: Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp huyện thuộc diện Tỉnh uỷ quản lý trong thời kỳ phát triển mới của tỉnh Hà Tĩnh. Cơ quan Chủ trì đề tài: Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, chủ biên: Nguyễn Thiện - Tháng 6/2006. Đề tài này đã đề cập được một số vấn đề về lý luận, tầm quan trọng và vai trò của công tác cán bộ trước yêu cầu mới, đặc biệt là trình độ lý luận chính trị của cán bộ cấp huyện. 5 - Đỗ Cao Quang: Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã miền núi hiện nay, Luận văn thạc sỹ, mã số: LA MSR - 140 Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1996. Luận văn này đã cung cấp một cách tương đối đầy đủ về việc nâng cao trình độ tư duy lý luận của cán bộ cấp cơ sở, nhưng chưa đầy đủ, đang mang nặng khái quát và nêu lên nhưng đặc thù khó khăn của miền núi, như văn hoá, trình độ, yêu cầu. Chưa làm rõ được trước yêu cầu hội nhập, đổi mới, cán bộ cơ sở cần có những yêu cầu cơ bản nào, phương pháp tiếp cận mới trong việc dạy và học tập lý luận chính trị... - Vũ Ngọc Am: Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia năm 2003. Một số vấn đề về đổi mới phương pháp giáo dục lý luận chính trị, Nxb Thông tấn 2009. Hai cuốn sách này mới chỉ nêu chung chung về phương pháp giáo dục chính trị tư tưởng. Tập trung đưa ra một số giải pháp cơ bản trên cơ sở nghiên cứu lý luận và yêu cầu chung. - Đề tài 08/2011/KQNC: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập môn Giáo dục công dân trong các trường THPT ở Hà Tĩnh. Cơ quan chủ trì đề tài: Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, chủ nhiệm: Đặng Quốc Vinh - Tháng 8/2011. Đề tài này đã đề cập được một số vấn đề về lý luận, tầm quan trọng của công tác giảng dạy môn Giáo dục Công dân ở các trường THPT ở Hà Tĩnh trước yêu cầu mới. - Ban Tuyên giáo Trung ương: Chương trình bồi dưỡng chuyên đề: Phương pháp giảng dạy lý luận chính trị dành cho giáo viên giảng dạy lý luận chính trị tại Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, Nxb Lao động xã hội, năm 2008. Cuốn sách này tập trung nêu các phương pháp giảng dạy lý luận, tập trung cho trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, ít đề cập đến tầm quan trọng của công tác lý luận chính trị đối với cán bộ nói chung, cán bộ cấp cơ sở nói riêng. 6 Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề nâng cao trình độ lý luận chính trị cấp cơ sở nói chung, ở Hà Tĩnh nói riêng, xuất phát từ thực tiễn trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh hiện nay cho thấy đây là lĩnh vực cần thiết phải nghiên cứu và có những đề xuất cụ thể. Vì vậy, luận văn chúng tôi tập trung làm rõ thực trạng công tác giáo dục lý luận chính trị ở Hà Tĩnh, từ đó đề xuất các giải pháp để khắc phục tình trạng trên. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Từ thực trạng công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở ở Hà Tĩnh và những nguyên nhân, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hà Tĩnh hiện nay. Từ đó vận dụng có hiệu quả vào công tác ở địa phương. 3.2. Nhiệm vụ - Phân tích, làm rõ tầm quan trọng và yêu cầu của việc nâng cao trình độ lý luận chính cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hiện nay. - Đánh giá thực trạng về trình độ lý luận chính trị của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hà Tĩnh và nguyên nhân của thực trạng đó. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hà Tĩnh hiện nay. 4. Đối tƣợng phạm vi nghiên cứu Đối tượng: Trình độ lý luận chính trị của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay. Phạm vi về thời gian: từ năm 2009 đến hết năm 2013 Phạm vi về không gian: tỉnh Hà Tĩnh. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở. 7 Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng với những phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể: phân tích, tổng hợp, thống kê, điều tra xã hội học... 6. Đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể tham khảo vận dụng cho các cấp ủy đảng, chính quyền trong việc nghiên cứu để xây dựng tiêu chuẩn, kế hoạch đào tạo lý luận chính trị đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở; xác định mục tiêu, phương pháp đào tạo, đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy lý luận chính trị ở trường chính trị, trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện…Nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn có cấu trúc gồm 2 chương, 5 tiết. 8 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG (VỀ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ) 1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Lý luận chính trị, trình độ lý luận chính trị Lý luận chính trị V.I Lênin đã khẳng định: “Chỉ Đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sỹ tiền phong” [24, tr.32]. Do đó, khi nói đến Đảng chính trị là đồng thời nói đến hệ thống lý luận chính trị của Đảng ấy. Vậy lý luận chính trị là gì? Để hiểu bản chất của lý luận chính trị, cần phải nghiên cứu khái niệm “lý luận” và “chính trị”. Lý luận là một phạm trù rộng lớn, tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Vì thế, khái niệm lý luận ngày càng được hiểu một cách đầy đủ hơn. Từ điển triết học, định nghĩa: “Lý luận là sự tổng hợp các tri thức về tự nhiên và xã hội tích luỹ được trong quá trình lịch sử”; là “hệ thống tư tưởng chủ đạo trong một lĩnh vực tri thức” [54, tr.526]. Từ điển Tiếng Việt viết: “Lý luận là hệ thống những tư tưởng được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. Lý luận là những kiến thức được khái quát và hệ thống trong một lĩnh vực nào đó” [52, tr.544 - 545]. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng lý luận. Người rất tâm đắc với câu nói nổi tiếng của V.I Lênin: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”. Và theo Người thì lý luận “Là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” [44, tr. 497]. 9 Như vậy, lý luận được hình thành từ thực tiễn trên cơ sở khái quát những kinh nghiệm của hoạt động thực tiễn phong phú, đa dạng của con người. Quan niệm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra đã góp phần làm sáng tỏ quan niệm triết học về lý luận, nêu ra nguồn gốc, cách thức, con đường hình thành lý luận. Lý luận thường được hiểu là những tri thức và kinh nghiệm được khái quát tích luỹ từ thực tiễn. Lý luận được truyền bá, vận dụng trong thực tiễn và luôn được bổ sung, phát triển làm cho phong phú hơn. Lý luận phản ánh mối liên hệ bản chất, tính quy luật của sự vận động và phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về lý luận nhưng đều thống nhất ở chỗ: Lý luận là sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn, là sự tổng hợp các tri thức về tự nhiên, xã hội được tích luỹ trong quá trình hoạt động lịch sử của con người; là phản ánh bản chất, tính quy luật của các sự vật, hiện tượng trong một lĩnh vực nào đó của hiện thực khách quan và có vai trò hướng dẫn hoạt động thực tiễn. Để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, con người buộc phải khám phá, tìm hiểu, nhận thức về thế giới. Nhưng những tri thức về thế giới phải thông qua hoạt động thực tiễn con người mới có nhận thức và hiểu biết. Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận thức chúng. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm; sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá để xây dựng thành lý luận khoa học phản ánh bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính trong quá trình 10 hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới mà nhận thức, lý luận của con người mới được hình thành và phát triển. Lý luận là cấp độ phát triển cao của quá trình nhận thức, là sự phản ánh hiện thực khách quan ở trình độ cao. Lý luận được hiểu theo nghĩa chung nhất là hệ thống những tri thức phản ánh các mối liên hệ bản chất và tính quy luật của các sự vật, hiện tượng, được con người tích luỹ trong quá trình hoạt động thực tiễn và có vai trò hướng dẫn hoạt động thực tiễn. Lý luận ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Mỗi ngành, mỗi lĩnh vực cụ thể khác nhau đều phải có lý luận riêng và mỗi ngành, mỗi lĩnh vực hoạt động cụ thể muốn phát triển được đều phải bắt đầu bằng việc phát triển lý luận. Có lý luận trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, lý luận trong lĩnh vực khoa học xã hội, lý luận trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, lý luận trong lĩnh vực kinh tế, lý luận trong lĩnh vực chính trị. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Chính trị là một hiện tượng lịch sử xuất hiện và tồn tại khi xã hội phân chia giai cấp và hình thành Nhà nước. Chính trị giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Nó cũng là lĩnh vực hoạt động phức tạp luôn thu hút các nhà tư tưởng đi vào suy nghĩ, khám phá, cố gắng làm sáng tỏ bản chất đầy bí ẩn của chính trị. Có nhiều quan điểm khác nhau về chính trị. Khái niệm Chính trị theo tiếng Hi Lạp là “Politics” có nghĩa là những việc liên quan đến thành bang, những công việc quốc gia. Trong đó điều cốt lõi nhất, quan trọng nhất, thực chất nhất là tổ chức ra cơ quan cai trị hay là Chính phủ. Sau này từ thế kỷ XVI trở đi gọi là Nhà nước [4, tr.7]. “Chính trị - theo nguyên nghĩa của nó là những công việc Nhà nước, là phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực Nhà nước” [1, tr.507]. 11 Lênin cũng khẳng định “chính trị với nghĩa là công việc Nhà nước, là việc vạch hướng đi cho Nhà nước, là việc xác định hình thức, nhiệm vụ, nội dung của Nhà nước” [27, tr.404]. Hơn nữa chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, là đấu tranh giai cấp trong giành, giữ, thực thi quyền lực Nhà nước và suy cho cùng là vấn đề lợi ích kinh tế. V.I Lênin nêu ra một nguyên tắc cơ bản trong chính trị mà những người Cộng sản phải quán triệt và đó cũng chính là bản chất của chính trị là: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế” [30, tr.349]. Có nghĩa, chính trị do kinh tế quyết định. Các tổ chức chính trị, các hình thức Nhà nước muốn tồn tại và phát triển phải dựa trên một cơ sở kinh tế của xã hội. Có thể nói, kinh tế là nguồn gốc, là cơ sở của chính trị. Chế độ chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng và phải thích ứng với cơ sở kinh tế. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì sẽ giữ địa vị thống trị xã hội về chính trị. Là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, song chính trị không phải là “bản sao”, không phải là biểu hiện thụ động, không phải là “cái gương soi” của kinh tế. Ngược lại, chính trị có tính độc lập của nó và tác động trở lại mạnh mẽ đến kinh tế. Nó định hướng cho sự phát triển, lựa chọn các mô hình và điều tiết sự phát triển của kinh tế. Chính trị thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển của kinh tế, thâm nhập và chi phối mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì lẽ đó, V.I Lênin đã khẳng định: Chính trị không thể chiếm vị trí ưu tiên so với kinh tế. Ưu tiên cho chính trị là ưu tiên cho việc giành lấy quyền lực chính trị và cho xây dựng các quyết sách chính trị đúng. Kinh tế phát triển phải thông qua chính trị, thông qua hệ thống đường lối, chính sách pháp luật, quyền lực Nhà nước và giai cấp nào muốn lãnh đạo kinh tế phát triển, đạt mục tiêu, lợi ích đề ra thì không được sai lầm về chính trị. Chính trị phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị, đồng thời luôn tìm cách dẫn dắt xã hội theo tư tưởng chính trị của giai cấp cầm quyền. Chính trị mang trong nó yếu tố năng động đặc biệt và 12 không có một công thức, cách thức chung duy nhất nào. Chính trị không phải là con đường thẳng, thuận lợi dễ đi. V.I Lênin cho rằng: “Chính trị giống đại số hơn là số học, càng giống toán học cao cấp hơn là toán học sơ cấp”, “Chính trị là vận mệnh thực tế của hàng triệu con người” [28, tr.150]. Chính trị là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt của con người, nó có quan hệ chặt chẽ với hoạt động thực tiễn của con người, biểu hiện lợi ích kinh tế nhất định của các tầng lớp dân cư trong xã hội, gắn liền với vận mệnh của nhân dân. Chính trị được đưa vào thực tiễn cuộc sống nhờ hệ thống thiết chế chính trị, Đảng phái chính trị, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội. Tùy theo cách thức tiếp cận mà có những quan niệm khác nhau về chính trị, song theo nghĩa chung nhất, chính trị được hiểu là đại diện của các quan hệ giữa các giai cấp, quan hệ về giai cấp mà cốt lõi là quan hệ giai cấp về kinh tế. Mục đích của chính trị là vấn đề chính quyền sẽ thuộc về tay giai cấp nào, chính Đảng nào. Từ sự phân tích trên, có thể khái quát như sau: Lý luận chính trị là lý luận trong lĩnh vực chính trị. Lý luận chính trị ra đời khi xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp để đại diện cho lợi ích của một Đảng, một giai cấp nhất định trong xã hội. Lý luận chính trị là hệ thống các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của một Đảng, một giai cấp để giành, giữ và thực thi quyền lực Nhà nước. C.Mác cho rằng “Vũ khí của sự phê phán không thể thay thế được sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất khi nó xâm nhập vào quần chúng”.Thấm nhuần quan điểm của Lênin: “Không thể là một nhà lãnh đạo tư tưởng mà lại không làm công tác lý luận..., cũng như không thể là một nhà lãnh đạo tư tưởng mà lại không hướng công tác đó theo những nhu cầu của sự nghiệp, mà lại không tuyên truyền trong công nhân những kết luận 13 của lý luận đó và không giúp đỡ họ tổ chức nhau lại” [24, tr.382], hơn nữa, “tư tưởng căn bản không thể thực hiện tốt được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [36, tr.181] và “phải làm sao để những tư tưởng đó bắt rễ sâu hơn vào một giới được rèn luyện hơn, và phải làm cho đội tiên phong ấy... thấm nhuần những tư tưởng đó” [25, tr.559]. Bìa tác phẩm Đường Kách mệnh của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, xuất bản 1927 tại Quảng Châu, Trung Quốc ghi rõ: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động… Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”. Đặc biệt, trong tác phẩm kinh điển lý luận đó, Hồ Chí Minh cũng khẳng định rằng: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”, và “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất ấy, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Vì vậy, với ý nghĩa: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”, Hồ Chí Minh đã rất coi trọng công tác giáo dục lý luận cho đội ngũ đảng viên của Đảng. Từ thực tiễn phong trào cách mạng trong nước những năm đấu tranh giành chính quyền, Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh: “Sự hiểu biết lý luận và chính trị của các đồng chí An Nam rất thấp, việc học tập và đọc sách báo ở thuộc địa gần như không có được” và “vì thiếu kiến thức lý luận, buộc các đồng chí ấy phải mò mẫm từng bước, luôn luôn vấp váp vì thiếu thốn”, cho nên “phải cung cấp cho các đồng chí ấy những kiến thức tối cần thiết về lý luận soi đường, tạo điều kiện dễ dàng cho các đồng chí ấy tiến hành công tác”, “bằng cách tạo điều kiện cho các đồng chí tiếp thụ được những kiến thức 14 sơ đẳng nhất mà mỗi chiến sỹ đều phải có”. Sau đó, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và những năm cả nước tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Người nhận thấy những khuyết điểm: kém lý luận, khinh lý luận, lý luận suông mà nhiều cán bộ, đảng viên còn mắc phải là rất nghiêm trọng. Theo Người, nguyên nhân của những khuyết điểm đó là do chưa nhận thức rõ vai trò của lý luận, do lười học tập, lười nghiên cứu lý luận, hoặc trình độ lý luận chưa theo kịp thực tiễn. Người nói, “vì kém lý luận nên gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất bại”, và cũng "vì trình độ lý luận thấp kém cho nên đứng trước nhiệm vụ cách mạng ngày càng mới và phức tạp, trong việc lãnh đạo, Đảng ta không khỏi lúng túng, không tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm",... Từ đó, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lý luận rất quan trọng”, “lý luận rất cần thiết” và trong Báo cáo Chính trị đọc tại Đại hội lần thứ II của Đảng (2/1951), Người khẳng định: “Học tập lý luận là một sự bức thiết đối với Đảng ta”. Người thể hiện rõ quan điểm: “Đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”. Vì vậy, phải học tập lý luận, phải trang bị hệ thống luận điểm cách mạng, khoa học, phương pháp luận biện chứng của học thuyết Mácxít - Lêninnít cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, để từ đó nâng cao giác ngộ lý tưởng cách mạng, củng cố niềm tin vào thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản bằng các cơ sở khoa học, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Cũng từ thực tiễn lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước, Hồ Chí Minh chỉ rõ: vì “Học tập 15 chủ nghĩa còn kém, cho nên tư tưởng của nhiều cán bộ và đảng viên chưa thuần thục, trình độ lý luận còn non nớt”. Từ đó, Người nhấn mạnh: “Có học tập lý luận Mác-Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm được tốt công tác Đảng giao phó cho mình”. Không chỉ học tập, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Người còn chỉ rõ nhiệm vụ: “Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác-Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác-Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra đường lối, phương châm, bước đi có thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”. Coi hiểu biết lý luận là một nội dung hàng đầu trong 12 chuẩn mực xác định tư cách của một đảng chân chính cách mạng, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải học lý luận để: thứ nhất, “học để sửa chữa tư tưởng”; thứ hai, “học để tu dưỡng đạo đức cách mạng”; thứ ba, “học để tin tưởng”; thứ tư, “học để hành”. Bác Hồ dã dạy: Đã lựa chọn đúng cán bộ còn cần phải dạy bảo lý luận cho cán bộ. Chỉ thực hành mà không có lý luận cũng như có một mắt sáng, một mắt mờ. Người còn chỉ rõ: “Có học tập lý luận Mác - Lênin mới cũng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm tốt công tác Đảng giao phó cho mình” [44, tr.247]. Đối với cán bộ chủ chốt, Bác càng nhấn mạnh sự cần thiết phải không ngừng học tập, nghiên cứu lý luận Mác - Lênin và đó là lý luận thiết thực, chỉ đạo cho hành động. Nắm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin không phải “để trang sức” mà nắm cái tinh thần xử trí đối với việc, đối với người, đối với mình để “sống với nhau có tình có nghĩa”, là nắm những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. 16 Luận giải những nội dung trên, Hồ Chí Minh nói: “Học để sửa chữa tư tưởng”, vì nếu tư tưỏng chưa thực sự là tư tưởng cách mạng, nhất định cán bộ, đảng viên phải học để sửa chữa cho đúng, để từ đó hành động đúng và làm tròn nhiệm vụ cách mạng được giao phó. “Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng”, vì đạo đức là gốc của người cách mạng, nếu không có đạo đức thì không thể phấn đấu, hy sinh cho cách mạng và không thể lãnh đạo được quần chúng nhân dân. Cũng theo Người, người cán bộ, đảng viên học tập lý luận chính trị không chỉ nhằm nâng cao trình độ lý luận, chống lại ách thống trị của đế quốc thực dân mà còn để “cải tạo” mình, giúp họ trở thành những người vừa “hồng”, vừa “chuyên” - tiêu chuẩn cơ bản mà Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải có. Với ý nghĩa đó, Người chỉ rõ: “Những tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ quốc cho đồng bào là bạn. Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ quốc cho đồng bào là kẻ thù. Thế là chẳng những ở ngoài, mà chính ở trong mình ta cũng có bạn và thù. Vì vậy chúng ta cần phải ra sức tăng cường bạn ở trong và ở ngoài, kiên quyết chống lại kẻ thù ở ngoài và ở trong mình ta”. “Học để tin tưởng”. Tin tưởng vào đoàn thể. Tin tưởng vào nhân dân. Tin tưởng vào tương lai của dân tộc, vì có lý tưởng và niềm tin vững chắc thì người cách mạng khi gặp thuận lợi không kiêu, lúc gặp khó khăn không nản, không ngại gian khổ, hy sinh. Vì thế, muốn học tập lý luận đạt kết quả tốt, nhất thiết người học phải tuân thủ nguyên tắc lý luận liên hệ với thực tiễn, lý luận thống nhất với thực tiễn và trước hết, cán bộ, đảng viên cần phải khắc phục bệnh kém lý luận, bệnh khinh lý luận. Kém lý luận, khinh lý luận dẫn tới bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều và cho kinh nghiệm là yếu tố quyết định thành công trong hoạt động thực tiễn. Hơn nữa, khi không có lý luận, hay trình độ lý luận kém sẽ làm cho bệnh kinh nghiệm thêm trầm trọng. Một số cán bộ, đảng viên "chỉ bo bo giữ lấy kinh nghiệm lẻ tẻ”, không hiểu rằng lý luận rất quan trọng cho 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan