BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ NHƢ MINH NAM
NĂNG LỰC VIÊN CHỨC VIỆN KHOA HỌC
TỔ CHỨC NHÀ NƢỚC, BỘ NỘI VỤ
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số : 60 34 04 03
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG MAI
HÀ NỘI, NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Năng lực viên chức Viện Khoa học Tổ
chức Nhà nước, Bộ Nội vụ” là kết quả nghiên cứu của riêng bản thân tôi.
Nội dung của Luận văn là kết quả của quá trình thu thập thông tin, số
liệu, nghiên cứu, tổng hợp tài liệu, báo cáo của Viện Khoa học Tổ chức Nhà
nước, các văn bản quy định có liên quan đến nội dung Luận văn, đảm bảo tính
chính xác và khoa học.
Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu của Luận văn chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.Nếu sai, tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả Luận văn
Lê Nhƣ Minh Nam
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài “Năng lực viên chức Viện Khoa học Tổ chức
Nhà nước, Bộ Nội vụ”, em xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô giáo đã tận
tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu ở Học viện
Hành chính Quốc gia.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn Cô giáo hướng dẫn TS. Hoàng Mai
đã tận tình, chu đáo hướng dẫn em thực hiện Luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn các tổ chức, cá nhân đã cung cấp cho tôi nhiều
nguồn tư liệu, tài liệu hữu ích phục vụ cho đề tài nghiên cứu. Tôi xin bày tỏ
lời cảm ơn chân thành đến cán bộ, viên chức Viện Khoa học Tổ chức Nhà
nước, Bộ Nội vụ đã giúp đỡ tôi rất nhiều, rất hiệu quả trong suốt quá trình
thực hiện nghiên cứu.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách tốt nhất, song
cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà bản thân chưa thấy
được, em rất mong được sự góp ý của quý Thầy Cô giáo để Luận văn được
hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả Luận văn
Lê Nhƣ Minh Nam
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ASEAN
: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CV
: Chuyên viên
ĐBTQ
: Đại biểu toàn quốc
GDP
: Gross Domestic Product - Tổng sản phẩm nội địa
NCV
: Nghiên cứu viên
NCVC
: Nghiên cứu viên chính
NCVCC
: Nghiên cứu viên cao cấp
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
A. PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của Luận văn ...................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn ........................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn ...................................... 3
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của Luận văn ................. 3
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn ............................................... 3
6. Kết cấu của Luận văn ................................................................................ 4
CHƢƠNG 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC VIÊN CHỨC VÀ
NĂNG LỰC VIÊN CHỨC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ...................... 5
1.1. Viên chức và viên chức làm công tác nghiên cứu khoa học .............. 5
1.2. Năng lực viên chức nghiên cứu khoa học ........................................ 10
Tiểu kết Chương 1....................................................................................... 30
CHƢƠNG 2.THỰC TRẠNG NĂNG LỰC VIÊN CHỨC VIỆN KHOA
HỌC TỔ CHỨC NHÀ NƢỚC, BỘ NỘI VỤ.......................................... 31
2.1. Giới thiệu về Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước, Bộ Nội vụ.......... 31
2.2. Phân tích thực trạng năng lực viên chức nghiên cứu khoa học tại
Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước, Bộ Nội vụ ....................................... 36
2.3. Thực trạng công tác phát triển năng lực viên chức nghiên cứu khoa
học tại Viện Khoa học Tổ chức nhà nước, Bộ Nội ................................ 51
2.4. Đánh giá chung về năng lực viên chức nghiên cứu khoa học của
Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước, Bộ Nội vụ ....................................... 57
Tiểu kết Chương 2................................................................................... 63
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC VIÊN
CHỨC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VIỆN KHOA HỌC TỔ CHỨC
NHÀ NƢỚC, BỘ NỘI VỤ........................................................................ 66
3.1. Sự cần thiết khách quan phải nâng cao năng lực viên chức nghiên
cứu khoa học ........................................................................................... 66
3.2. Một số giải pháp nâng cao năng lực viên chức nghiên cứu khoa học
Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước, Bộ Nội vụ ....................................... 71
3.3. Kiến nghị, đề xuất ............................................................................ 83
Tiểu kết Chương 3................................................................................... 94
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 95
PHỤ LỤC SỐ 1. MÃ SỐ VÀ TIÊU CHUẨN CHỨC DANH NGHỀ
NGHIỆP VIÊN CHỨC CHUYÊN NGÀNH KHOA HỌC...................... 101
PHỤ LỤC SỐ 2. PHIẾU KHẢO SÁT BIỂU TỔNG HỢP KẾT QUẢ
KHẢO SÁT TẠI VIỆN KHOA HỌC TỔ CHỨC NHÀ NƢỚC............. 114
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Luận văn
Trong nhiều văn kiện quan trọng, Đảng và Nhà nước CHXHCN Việt
Nam luôn khẳng định cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ là
quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển công nghệ - xã hội, là điều kiện
cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công xã hội chủ
nghĩa. Nâng cao nǎng lực nội sinh, xây dựng, phát triển tiềm lực khoa học và
công nghệ của nước nhà; đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ viên chức khoa
học và công nghệ và công nhân lành nghề; trẻ hoá và phát triển đội ngũ viên
chức khoa học và công nghệcó đủ đức, tài; kiện toàn hệ thống tổ chức, tǎng
cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, mở rộng các nguồn cung cấp thông tin, từng
bước hình thành một nền khoa học và công nghệ hiện đại của Việt Nam có
khả nǎng giải quyết phần lớn những vấn đề then chốt được đặt ra trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quan điểm, định hướng đúng đắn đó tiếp
tục được khẳng định trong các chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng
như: Kết luận Hội nghị Trung ương 6, khoá XI (năm 2012) về khoa học và
công nghệ; Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2010 (năm
2003); Đề án đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ (năm 2004)…
Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XI) khẳng định “Trong quá trình thực hiện
công cuộc đổi mới, mặc dù điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng
nhờ có sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực, tâm huyết của đội ngũ
các nhà khoa học, sự cố gắng của các doanh nghiệp và nhân dân, khoa học và
công nghệ nước ta đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp thiết thực vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Trong bối cảnh khả năng phát triển
kinh tế theo chiều rộng đã tới mức trần, Việt Nam đứng trước đòi hỏi phải
bằng mọi cách chuyển từ lợi thế so sánh dựa trên lao động giá rẻ và nhờ cậy
1
vào tài nguyên, môi trường, sáng tạo ra lợi thế cạnh tranh chủ yếu dựa trên
phát huy nguồn lực con người, nguồn nhân sự chất lượng cao, nắm vững khoa
học để tạo ra các sản phẩm nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn, có giá trị trên thị
trường và thực sự hữu ích cho xã hội.
Để góp phần nâng cao chất lượng phục vụ người dân và cộng đồng
trong lĩnh vực khoa học, cần thiết phải phát triển đội ngũ viên chức khoa học
chuyên nghiệp, nhằm phát huy tối đa các tiềm năng tri thức, tài năng và
chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ viên chức; bảo đảm tính minh bạch, công
khai và trách nhiệm trong hoạt động nghề nghiệp của viên chức, đáp ứng yêu
cầu của quá trình cải cách khu vực dịch vụ công, phát triển và hội nhập kinh
tế quốc tế. Do đó, tôi lựa chọn đề tàinghiên cứu“Năng lực viên chức Viện
Khoa học Tổ chức Nhà nước, Bộ Nội vụ” nhằm xây dựng cơ sở lý luận và
thực tiễn để đề xuất một số giải pháp phát triển đội ngũ viên chức tại Viện
Khoa học Tổ chức Nhà nước, Bộ Nội vụ.
2. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực viên chức,
từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực viên chức Viện Khoa
học Tổ chức Nhà nước, Bộ Nội vụ.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, Luận văn thực hiện một số nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở khoa học về năng lực viên chức tham gia nghiên
cứu khoa học;
- Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực viên chức khoa học tại Viện
Khoa học Tổ chức Nhà nước;
- Đề xuất, kiến nghị những giải pháp nâng cao năng lực viên chức Viện
Khoa học Tổ chức Nhà nước, Bộ Nội vụ.
2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Năng lực viên chức Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước, Bộ Nội vụ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung và không gian nghiên cứu: Chỉ nghiên cứu năng lực viên
chức nghiên cứu khoa học thuộc các Phòng của Viện Khoa học Tổ chức Nhà
nước, Bộ Nội vụ. Không nghiên cứu năng lực của viên chức không tham gia
nghiên cứu khoa học tại Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước.
- Về thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu năng lực viên chức tham gia
nghiên cứu khoa học tại Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước, Bộ Nội vụ từ năm
2012 đến nay.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của Luận văn
- Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa và đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, trong việc đánh giá năng lực đội ngũ viên chức khoa học tại Viện
Khoa học Tổ chức Nhà nước, Bộ Nội vụ.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học
quản lý công như:
+ Phương pháp thu thập số liệu;
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp;
+ Phương pháp so sánh;
+ Phương pháp dự báo...
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
- Luận văn tổng quan, bổ sung và làm rõ cơ sở khoa học về năng lực
viên chức chuyên ngành khoa học.
3
- Phân tích, rút ra những mặt mạnh, mặt hạn chế cùng những nguyên
nhân khách quan, chủ quan của những tồn hạn chế đối với năng lực viên chức
khoa học tại Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước, Bộ Nội vụ.
- Đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực viên
chức khoa học của Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước, Bộ Nội vụ.
- Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, giảng dạy về năng lực viên chức.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt, phụ lục và tài
liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu thành 03 chương, gồm có:
Chương 1: Cơ sở khoa họcvề năng lực viên chức và năng lực viên chức
nghiên cứu khoa học
Chương 2: Thực trạng năng lực viên chức tại Viện Khoa học Tổ chức
Nhà nước, Bộ Nội vụ
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực viên chức Viện Khoa
học Tổ chức Nhà nước, Bộ Nội vụ
4
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ NĂNG LỰC VIÊN CHỨC VÀ NĂNG LỰC
VIÊN CHỨC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1.1. Viên chức và viên chức làm công tác nghiên cứu khoa học
1.1.1. Viên chức
1.1.1.1. Khái niệm, phân loại
Từ trước đến nay đã có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm viên
chức, theo Từ điển Tiếng Việt, viên chức là một từ Hán - Việt, theo nguyên
nghĩa của từ này, thì viên là người giữ một chức vụ, chức là các việc về phần
mình, viên chức là người giữ một chức nghiệp nhất định, thường là trong bộ
máy chính quyền. Tuy nhiên, trải qua các thời kỳ khác nhau, nội hàm của khái
niệm viên chức cũng có sự thay đổi lớn. Suốt một thời gian dài, khái niệm “cán
bộ, công nhân, viên chức nhà nước” được dùng để chỉ những người phục vụ
trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, nhà nước và một số tổ chức
khác. Khoản 2, Điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Các cơ quan nhà nước,
cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân
dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của
Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện
quan liêu, hách dịch, cửa quyền”. Như vậy, có thể thấy, trong đạo luật cơ bản
của đất nước, những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức của nhà nước
được gọi là cán bộ, công chức, viên chức.
Trong một thời gian dài, khái niệm cán bộ, công chức, viên chức chưa
được phân định rõ ràng nên việc áp dụng thể chế quản lý các đối tượng này là
như nhau. Chỉ tới năm 2003, sau khi Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều
của Pháp lệnh cán bộ, công chức 1998 được ban hành và đặc biệt được đánh
dấu bởi các Nghị định 116, 117/2003/NĐ-CP thì khái niệm viên chức mới có
5
sự phân biệt tương đối rõ với các khái niệm cán bộ, công chức. Điều 2 của
Nghị định 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về việc tuyển
dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của
Nhà nước xác định: “Viên chức là công dân Việt Nam, trong biên chế, được
tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giữ một nhiệm vụ thường
xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự nghiệp
theo quy định của pháp luật”.
Tháng 11/2008, Quốc hội ban hành Luật Cán bộ, công chức đã thể hiện
quan điểm của Nhà nước trong việc chuyên biệt hóa đối tượng phục vụ trong
các cơ quan quản lý nhà nước và các đối tượng làm việc tại các đơn vị sự
nghiệp công lập, tách hẳn nhóm đối tượng viên chức ra khỏi phạm vi cán bộ,
công chức, phân biệt giữa hoạt động công vụ của công chức với hoạt động có
tính chất chuyên môn, nghiệp vụ của viên chức, nhằm hoàn thiện các cơ chế,
chính sách phát triển các đơn vị sự nghiệp, nâng cao chất lượng của đội ngũ
viên chức, theo đó đã quy định: “Các quy định của pháp luật hiện hành liên
quan đến những người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập mà không
phải là cán bộ, công chức quy định tại Luật này được tiếp tục thực hiện cho
đến khi ban hành Luật Viên chức”.
Tuy nhiên, khái niệm viên chức chỉ chính thức được luật hóa khi Luật
Viên chức được ban hành (Luật số 58/2010/QH12):“Viên chức là công dân
Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập
theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự
nghiệp công lập theo quy định của pháp luật” (Điều 2, Chương I). Các tiêu
chí để xác định viên chức là: được tuyển dụng theo vị trí việc làm; làm việc
tại các đơn vị sự nghiệp công lập; làm việc theo chế độ hợp đồng làm việc và
hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập.
6
Điều 9, Luật Viên chức năm 2010 quy định đơn vị sự nghiệp công lập là
tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân,
cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước. Đơn vị sự nghiệp khoa học,
công nghệ công lập gồm:
- Đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ công lập được giao quyền tự
chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự;
- Đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ công lập chưa được giao quyền
tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự.
Viên chức có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau tuỳ thuộc
vào mục đích phân loại.
Ở Việt Nam có một số cách phân loại cơ bản sau:
Thứ nhất,theo vị trí việc làm, viên chức được phân loại như sau
- Viên chức quản lý, bao gồm những người quy định tại Khoản 1 Điều 3
Luật Viên chức (Viên chức quản lý là người được bổ nhiệm giữ chức vụ quản
lý có thời hạn, chịu trách nhiệm điều hành, tổ chức thực hiện một hoặc một số
công việc trong đơn vị sự nghiệp công lập nhưng không phải là công chức và
được hưởng phụ cấp chức vụ quản lý).
- Viên chức không giữ chức vụ quản lý, bao gồm những người chỉ thực
hiện chuyên môn nghiệp vụ theo chức danh nghề nghiệp trong đơn vị sự
nghiệp công lập.
Thứ hai,theo chức danh nghề nghiệp, viên chức được phân loại trong
từng lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp với các cấp độ từ cao xuống thấp như
sau:
- Viên chức giữ chức danh nghề nghiệp hạng I;
- Viên chức giữ chức danh nghề nghiệp hạng II;
- Viên chức giữ chức danh nghề nghiệp hạng III;
7
- Viên chức giữ chức danh nghề nghiệp hạng IV.
Như vậy, việc phân định cán bộ và công chức, viên chức của Luật Cán
bộ, công chức và Luật Viên chức là căn cứ pháp lý để quy định cơ chế quản
lý phù hợp với viên chức. Với những quy định mới này, pháp luật về cán bộ,
công chức và về viên chức đã tiếp tục quy định những vấn đề thể hiện tính
đặc thù trong hoạt động công vụ của cán bộ khác với hoạt động công vụ của
công chức và với hoạt động nghề nghiệp của viên chức.
1.1.1.2. Tính chất, đặc điểm hoạt động nghề nghiệp của viên chức
Hoạt động nghề nghiệp của viên chức có một số đặc điểm riêng như
sau:
Một là, nơi làm việc của viên chức là các đơn vị sự nghiệp công lập
thực hiện chức năng cung cấp những dịch vụ công mà Nhà nước phải chịu
trách nhiệm chủ yếu bảo đảm phục vụ nhân dân trong lĩnh vực y tế, giáo dục,
khoa học và các lĩnh vực khác mà khu vực ngoài công lập chưa có khả năng
đáp ứng; bảo đảm cung cấp các dịch vụ cơ bản về y tế, giáo dục tại miền núi,
biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Đơn vị sự nghiệp công lập là các tổ
chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân,
cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý Nhà nước [36, Điều 9].
Hai là, hoạt động nghề nghiệp của viên chức là hoạt động nhằm đáp
ứng những nhu cầu cơ bản, thiết yếu để duy trì, phát triển cá nhân con
người.Nhà nước phải có trách nhiệm cung cấp tốt nhất các nhu cầu này trong
điều kiện có thể để phục vụ người dân.
Ba là, hoạt động nghề nghiệp của viên chức được thực hiện trong các
lĩnh vực chuyên ngành, theo các tiêu chuẩn chuyên môn thống nhất. Mỗi lĩnh
vực mà viên chức làm việc chỉ cung cấp và đáp ứng một loại nhu cầu cơ bản.
8
Các nhu cầu này được thực hiện thông qua hoạt động nghề nghiệp của viên
chức nên các đơn vị sự nghiệp bao giờ cũng tổ chức theo tính chất chuyên
môn sâu gắn với đặc thù từng lĩnh vực. Do đó, cơ chế quản lý viên chức của
các đơn vị này phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm của hoạt động chuyên môn,
nghiệp vụ.
Bốn là, cung cấp chủ yếu cho người dân và cộng đồng dân cư các sản
phẩm phi vật chất, hoạt động nghề nghiệp của viên chức được thực hiện nhân
danh Nhà nước, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong quá trình cung cấp
các nhu cầu cơ bản, thiết yếu cho đại đa số người dân.
Năm là, đều dựa trên kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ, mang tính nghề
nghiệp cao, phải được đào tạo, bồi dưỡng qua các trường, lớp và được cơ
quan có thẩm quyền cấp văn bằng, chứng chỉ.Bên cạnh đó, có một số hoạt
động nghề nghiệp trong một số lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, thể thao đòi hỏi
phải có năng khiếu, tố chất và tài năng bẩm sinh. Trong các trường hợp này,
văn bằng, chứng chỉ không phải là yếu tố quan trọng mà là năng khiếu, tài
năng và chỉ phát huy, cống hiến nhiều nhất khi đang ở độ tuổi còn trẻ, sung
sức. Đối với một số ngành, lĩnh vực khác như nghiên cứu, đào tạo, giảng dạy
thì độ tuổi chín muồi, có thể cống hiến, sáng tạo nhiều cho xã hội lại từ độ
tuổi trung niên trở lên.
Sáu là, hoạt động nghề nghiệp của viên chức tác động ngay đến thể lực,
trí lực và đời sống tinh thần của người dân nên phải đề cao đạo đức nghề
nghiệp, có trách nhiệm, tận tụy để đáp ứng các nhu cầu của người dân mà Nhà
nước có trách nhiệm phải cung cấp.
Cần chú ý rằng, trong phạm vi xã hội, hoạt động nghề nghiệp không chỉ
do viên chức trong tổ chức sự nghiệp công lập mà còn do các tổ chức sự
nghiệp ngoài công lập thực hiện. Thực tế cho thấy, dù công lập hay ngoài
công lập thì nội dung, chương trình, mục tiêu hoạt động nghề nghiệp của viên
9
chức đều có yêu cầu giống nhau chỉ khác một điểm duy nhất là hoạt động
nghề nghiệp của viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập đặt mục tiêu phục
vụ nhân dân lên hàng đầu, không vì mục tiêu lợi nhuận tối đa. Còn các tổ
chức sự nghiệp ngoài công lập thì động cơ phục vụ chịu ảnh hưởng theo quy
luật của cơ chế thị trường, gắn với mục tiêu lợi nhuận tối đa. Điểm đặc thù
này phản ánh yêu cầu, để phát triển đội ngũ viên chức tận tụy, tài năng, phục
vụ nhân dân được tốt, cần phải có cơ chế quản lý và chế độ, chính sách phù
hợp, linh hoạt, mềm dẻo, gắn với tài năng, năng lực, kết quả làm việc để tạo
nên sức hút nguồn nhân lực vào các tổ chức sự nghiệp công lập.
1.1.2. Viên chức nghiên cứu khoa học
Căn cứ vào Luật Viên chức 2010 cùng với Luật Khoa học và Công
nghệ năm 2013, có thể nhận thấy các khía cạnh quan trọng của khái niệm viên
chức nghiên cứu khoa học.
Viên chức nghiên cứu khoa học là công dân Việt Nam được tuyển dụng
theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ công
lập. Hoạt động nghiên cứu khoa học bao gồm: nghiên cứu khoa học, nghiên
cứu và phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, hoạt động phát
huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và các hoạt động khác
nhằm phát triển khoa học và công nghệ. Các viên chức nghiên cứu khoa học
được tuyển dụng và quản lý theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ
quỹ lương của các đơn vị này theo quy định của pháp luật.
Viên chức nghiên cứu khoa học được tuyển dụng, quản lý và sử dụng
như viên chức hoạt động trong các lĩnh vực chuyên môn khác, hoạt động của
họ để phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước, phục vụ cho nhiệm vụ phát
triển mà nhà nước đặt ra, cung cấp các dịch vụ công về khoa học và công nghệ.
Từ những phân tích nêu trên có thể rút ra khái niệm về viên chức
nghiên cứu khoa học như sau: Viên chức nghiên cứu khoa học là công dân
10
Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, thực hiện hoạt động nghiên
cứu khoa học, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập (Trường đại học, Viện
nghiên cứu…) theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của
đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Viên chức nghiên cứu khoa học có thể phân loại theo các tiêu chí khác
nhau. Phân loại viên chức nghiên cứu khoa học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong công tác quản lý đội ngũ viên chức này. Phân loại viên chức nghiên cứu
khoa học để tạo điều kiện thuận lợi trong quản lý theo đối tượng chịu sự quản
lý, đồng thời giúp cho việc xây dựng và phát triển đội ngũ viên chức nghiên
cứu khoa học phù hợp với tính chất và đặc điểm của từng loại viên chức
nghiên cứu khoa học. Theo văn bản quy định hiện hành, viên chức nghiên cứu
khoa học có thể được phân loại như sau:
- Theo vị trí việc làm, viên chức nghiên cứu khoa học được phân loại
như sau:
Viên chức quản lý công tác nghiên cứu khoa học: là người được bổ
nhiệm giữ chức vụ quản lý có thời hạn, chịu trách nhiệm điều hành, tổ chức
thực hiện một hoặc một số công việc trong đơn vị sự nghiệp khoa học, công
nghệ công lập nhưng không phải là công chức và được hưởng phụ cấp chức
vụ quản lý. Như vậy có thể đối chiếu với Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày
25/10/2010 của Chính phủ xác định công chức lãnh đạo, quản lý đơn vị sự
nghiệp công lập (không phải là viên chức) để loại trừ các đối tượng sau ra
khỏi phạm vi phân loại: “Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu;
người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó tổ chức của đơn vị sự nghiệp công lập
thuộc Chính phủ” là công chức.
Viên chức nghiên cứu khoa học không giữ chức vụ quản lý (hay còn gọi
là viên chức chuyên môn, nghiệp vụ): là những người được cấp có thẩm quyền
giao thực hiện các nhiệm vụ cụ thể hoặc thực hiện các tác nghiệp gắn với
11
chuyên môn, nghiệp vụ trong đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ công lập.
- Theo chức danh nghề nghiệp, viên chức nghiên cứu khoa học được
phân loại với các cấp độ từ cao xuống thấp: viên chức chuyên ngành khoa học
và công nghệ giữ chức danh hạng I; viên chức chuyên ngành khoa học và
công nghệ giữ chức danh hạng II; viên chức chuyên ngành khoa học và công
nghệ giữ chức danh hạng III; viên chức chuyên ngành khoa học và công nghệ
giữchức danh hạng IV.
Phân loại theo chức danh nghề nghiệp nhằm phục vụ cho việc đổi mới
cơ chế quản lý và tuân thủ các nguyên tắc quản lý viên chức khoa học, công
nghệ. Chức danh nghề nghiệp trong Luật Viên chức đã được dùng để thay thế
cho các “ngạch” dùng chung với công chức trước đây, việc sử dụng “ngạch”
đối với viên chức nói chung và viên chức khoa học, công nghệ nói riêng trong
một thời gian dài là không phù hợp với các công việc ứng với nghề nghiệp
của viên chức, không phù hợp với tính chất, đặc điểm lao động của viên chức,
nhất là lao động đặc thù (sáng tạo) của viên chức khoa học, công nghệ, tạo
nên nhiều hạn chế và cản trở trong việc xây dựng và quản lý đội ngũ viên
chức khoa học, công nghệ.
Phân loại theo chức danh nghề nghiệp đã thể hiện được trình độ và
năng lực, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ của viên chức khoa học, công nghệ.
Từ đó, bảo đảm mọi chế độ, chính sách được căn cứ vào vị trí việc làm gắn
với chức danh nghề nghiệp của viên chức, như:xác định cơ cấu viên chức,
việc đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, thực hiện chế độ tiền lương và các chính
sách đãi ngộ khác.
Theo Luật Khoa học và công nghệ 2013 thì viên chức nghiên cứu khoa
học được phân loại theo chức danh khoa học, chức danh công nghệ.Chức
danh khoa học gồm trợ lý nghiên cứu, nghiên cứu viên, nghiên cứu viên
chính, nghiên cứu viên cao cấp. Chức danh công nghệ là tên gọi thể hiện trình
12
độ và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của cá nhân hoạt động trong từng lĩnh
vực công nghệ. Theo đó, cũng quy định chức danh khoa học, chức danh công
nghệ phải gắn với vị trí việc làm phù hợp với chuyên môn và năng lực trong
tổ chức khoa học và công nghệ công lập..
1.2. Năng lực viên chức nghiên cứu khoa học
1.2.1. Khái niệm, yếu tố cấu thành năng lực viên chức nghiên cứu
khoa học
1.2.1.1. Khái niệm
Năng lực là một thuật ngữ mang tính đa nghĩa, tùy vào mục đích sử
dụng và bối cảnh có thể định nghĩa khác nhau. Nó là yếu tố tiềm ẩn bên trong
con người, có thể là yếu tố bẩm sinh và cũng có thể được hình thành qua quá
trình học tập, tích lũy kinh nghiệm và rèn luyện của bản thân có được. Năng
lực có thể tồn tại dưới nhiều dạng như: năng lực quản lý, năng lực chuyên
môn, năng lực tư duy… Các dạng năng lực này thể hiện ở nhiều hình thức
nhưng về bản chất nó là khả năng của một cá nhân phải có mới có thể hoàn
thành tốt công việc nào đó.
Theo Từ điển Giáo dục học: “Năng lực là khả năng được hình thành và
phát triển, cho phép con người đạt được thành công trong một hoạt động thể
lực, trí lực hoặc nghề nghiệp. Năng lực được thể hiện vào khả năng thi hành
một hoạt động, thực hiện một nhiệm vụ”.
Theo P.A Rudich: “Năng lực và tính chất tâm lý của con người chi
phối quá trình tiếp thu các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cũng như hiệu quả thực
hiện một hoạt động nhất định”.
Theo Spencer and Spencer (1993) dựa trên định nghĩa về năng lực của
Boyatzis và mô tả “năng lực như là đặc tính cơ bản của một cá nhân (kiến
thức, kỹ năng, thái độ, động cơ, nét tiêu biểu và ý niệm về bản thân) có liên
quan đến các tiêu chí đánh giá hiệu suất công việc”.
13
Các khái niệm khác nhau xuất phát từ những góc nhìn khác nhau nhưng
nhìn chung đều có một điểm tương đồng đó là nói đến năng lực là nói đến tập
hợp những thuộc tính tâm lý của cá nhân (cụ thể những thuộc tính đó là tri
thức, kỹ năng và hành vi, ứng xử, quan hệ) và luôn gắn với cách thức nhìn
nhận khả năng thực thi công việc được giao. Nếu ở mức tối thiểu, con người
có thể làm được nhiệm vụtheo những tiêu chuẩn tối thiểu. Và khi năng lực
của họ được nâng cao, họ có thể làm được công việc đó tốt hơn, hiệu quả hơn
(làm được công việc nhưng chất lượng hơn, tiết kiệm hơn).Muốn đánh giá
năng lực của cá nhân phải xem xét biểu hiện của nó trong hoạt động của
người đó cũng như kết quả của hoạt động ấy.
Dù theo tiếp cận nào thì năng lực luôn gắn với cách thức nhìn nhận khả
năng thực thi công việc được giao, do đó, khái niệm này chỉ mang tính tương
đối bởi mỗi một thời điểm khác nhau, một giai đoạn khác nhau cùng với các
yếu tố bên ngoài chi phối thì năng lực của một con người cũng sẽ thay đổi. Do
đó, mọi đánh giá về năng lực của một cá nhân chỉ mang tính tương đối.
Trong từng tổ chức và từng vị trí đảm nhận, năng lực luôn luôn gắn liền
với thực thi những loại công việc khác nhau được giao. Do đó, cụm từ năng
lực trong Luận văn này đồng nghĩa với năng lực thực thi công việc được giao.
Và năng lực quản lý cũng đồng nghĩa với năng lực thực thi nhiệm vụ và
quyền hạn quản lý được giao cho từng vị trí quản lý.
Từ đó, năng lực viên chức nghiên cứu khoa học được hiểu là tập hợp
những thuộc tính tâm lý của viên chức (gồm tri thức, kỹ năng và thái độ, hành
vi ứng xử, quan hệ) của viên chức trong quá trình thực thi nhiệm vụ nghiên
cứu khoa học được giao.
1.2.1.2. Các yếu tố cấu thành năng lực
Như đã nói ở trên, năng lực bao giờ cũng được xem xét gắn với một
con người cụ thể và một công việc cụ thể. Trên thực tế, năng lực của một cá
nhân bao giờ cũng cấu thành ít nhất bởi 3 yếu tố:
14
- Xem thêm -