Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Nghiên cứu cảnh quan cho mục đích phát triển nông, lâm nghiệp và bảo vệ môi trƣờ...

Tài liệu Nghiên cứu cảnh quan cho mục đích phát triển nông, lâm nghiệp và bảo vệ môi trƣờng huyện lắk, tỉnh đăk lắk

.PDF
26
467
63

Mô tả:

Nghiên cứu cảnh quan cho mục đích phát triển nông, lâm nghiệp và bảo vệ môi trƣờng huyện Lắk, tỉnh Đăk Lắk Abstract: Nghiên cứu những vấn đề lý luận của cảnh quan học, cảnh quan ứng dụng, đánh giá cảnh quan và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, những cơ sở lý luận về phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường và việc vận dụng vào nghiên cứu cảnh quan huyện Lắk. Phân tích đặc điểm và vai trò của các yếu tố thành tạo cảnh quan trên lãnh thổ huyện Lắk để thấy được đặc điểm phân hóa, các quy luật tự nhiên và mối quan hệ của các thành phần tự nhiên trong tổng thể tự nhiên, cũng như mối quan hệ giữa tự nhiên và kinh tế xã hội. Xây dựng hệ thống phân loại cảnh quan và thành lập Bản đồ cảnh quan huyện Lắk. Phân tích tính đa dạng trong cấu trúc, chức năng và động lực cảnh quan huyện Lắk. Thực hiện đánh giá cảnh quan, xác định mức độ thích nghi của các đơn vị cảnh quan đối với mục đích phát triển các ngành kinh tế nông, lâm nghiệp Lắk. Xây dựng các cơ sở, nguyên tắc, phương pháp ứng dụng kết quả nghiên cứu cảnh quan trong việc sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiên cứu đề xuất một số định hướng và các giải pháp phát triển kinh tế xã hội nhằm sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường huyện Lắk, tỉnh Đăk Lắk. Keywords: Bảo vệ môi trường; Phát triển nông nghiệp; Lâm nghiệp; Đăk Lắc Content MỞ ĐẦU Để phát triển kinh tế xã hội của một lãnh thổ lâu dài và bền vững thì vấn đề sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và khai thác các nguồn lực, sử dụng có hiệu quả là những vấn đề hết sức quan trọng. Cảnh quan của một lãnh thổ luôn có những thay đổi và phân hoá phức tạp. Các thành phần cấu tạo cảnh quan có tính độc lập tương đối, song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ tạo thành một hệ thống động lực. Hệ thống đó tồn tại trong trạng thái cân bằng động, một thành phần nào đó trong hệ thống thay đổi có thể sẽ dẫn đến sự thay đổi của các thành phần khác và phá vỡ hệ thống cũ tạo nên một hệ thống mới. Nếu khai thác hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên tức là tác động vào hệ thống tự nhiên một cách phù hợp với đặc điểm, quy luật phát sinh, phát triển của chúng thì sẽ bảo vệ, tái tạo được nguồn tài nguyên thiên nhiên và đảm bảo được sự phát triển bền vững của lãnh thổ. Ngược lại, nếu con người khai thác, sử dụng tự nhiên không tuân theo những quy luật thì sẽ mang lại những hậu quả lâu dài và không lường trước được. Vì thế, việc nghiên cứu để tìm ra những đặc trưng, quy luật phát sinh, phát triển của một lãnh thổ tự nhiên là rất quan trọng, giúp cho việc sử dụng lãnh thổ một cách hợp lý, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội một cách bền vững. Trong những năm gần đây, để giải quyết những vấn đề thực tế mang tính tổng hợp cao, hướng nghiên cứu cảnh quan, đánh giá cảnh quan đã trở thành hướng nghiên cứu quan trọng, đáp ứng được nhiều vấn đề thực tế đặt ra và là cơ sở khoa học của việc lựa chọn các mục tiêu sử dụng thích hợp lãnh thổ. Dựa vào kết quả nghiên cứu, đánh giá đặc điểm các thành phần tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên; phân tích tính đa dạng của cảnh quan trên cơ sở làm rõ cấu trúc, chức năng và động lực phát triển cảnh quan có xem xét đến yếu tố nhân tác là những cơ sở khoa học đầy đủ và đáng tin cậy để hoạch định phát triển kinh tế của mỗi một vùng lãnh thổ. Huyện Lắk nằm về phía Đông Nam của Tỉnh Đắk Lắk, cách thành phố Buôn Ma Thuột 54 km theo quốc lộ 27, hiện nay vấn đề khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực mang tính bền vững lâu dài và đồng bộ trên toàn lãnh thổ Lắk vẫn đang là vấn đề cấp bách, cần được quan tâm. Trên thực tế ở huyện Lắk các công trình đã được nghiên cứu, ứng dụng vào phát triển kinh tế xã hội chỉ dừng lại ở mức độ phục vụ cho từng mục tiêu cụ thể, chưa có công trình nghiên cứu, đánh giá một cách tổng hợp về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên trên toàn huyện. Để có một cách nhìn nhận tổng thể và hoàn thiện hơn về đặc điểm tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên huyện Lắk, nhằm xây dựng những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác quy hoạch phát triển kinh tế xã hội bền vững lâu dài, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường trên toàn lãnh thổ thì có thể thấy rằng vấn đề nghiên cứu, đánh giá cảnh quan huyện Lắk là vấn đề hết sức cần thiết. Xuất phát từ những nhìn nhận trên tác giả đã lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu cảnh quan cho mục đích phát triển nông, lâm nghiệp và bảo vệ môi trường huyện Lắk, tỉnh Đăk Lắk” để thực hiện nghiên cứu. 2 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1. Quan niệm cảnh quan và cảnh quan học Về mặt phương pháp luận nghiên cứu, học thuyết cảnh quan được xây dựng bắt đầu từ thế kỷ XIX, tuân thủ các giai đoạn phát triển từ phân tích bộ phận, rồi đến tổng hợp; phân tích các bậc cao hơn, tổng hợp ở bậc cao hơn và ngày càng đi sâu vào bản chất của các sự vật, hiện tượng trong lớp vỏ cảnh quan. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, cảnh quan học xác định rõ nhiệm vụ của mình là học thuyết các quy luật phân hóa lãnh thổ của lớp vỏ địa lý, cảnh quan là đơn vị cơ sở của hệ thống phân vùng và có thể nhóm cảnh quan vào bậc liên kết cao hơn. Chuyển sang giai đoạn nghiên cứu sâu cấu trúc không gian của cảnh quan, xem cảnh quan là những hệ thống có cấu trúc không gian phức tạp, là một hệ thống động lực hở và là hệ thống có tính chất phân bậc lôgíc, khẳng định cảnh quan học đã tiến thêm một bước mới. Trong quá trình phát triển, khái niệm “cảnh quan” dần dần được hoàn chỉnh, mỗi khái niệm đánh dấu một bước phát triển của khoa học cảnh quan trên thế giới. Lần đầu tiên L.S. Berge (1913) đã đưa ra khái niệm coi cảnh quan như là một miền, trong đó địa hình, khí hậu, nước, đất, lớp phủ sinh vật cũng như hoạt động của con người được gắn kết thành một thể thống nhất, hài hòa, lặp lại một cách điển hình trong một đới nhất định nào đó của trái đất. Quan điểm giải thích cảnh quan của ông được các nhà địa lý Xô Viết như: L.G.Ramenxki, X.V.Kalexnik, N.A.Xontxep, A.A.Grigôriep cùng nhiều nhà địa lý khác ủng hộ và phát triển [14, 25]. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, khoa học về CQ mới xác định rõ nhiệm vụ và thực sự phát triển rộng rãi, hoàn thiện dần về cả lý thuyết, phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu. Năm 1948, N.A.Xolsev đã phát triển trên cơ sở quan niệm của L.S.Berge, ông đưa ra định nghĩa xác định: Cảnh quan là một lãnh thổ đồng nhất về mặt phát sinh, các thành phần địa chất, địa hình, khí hậu, đất và động thực vật có sự lặp lại một cách điển hình và có quy luật. Năm 1962, ông đã đưa ra định nghĩa cụ thể và rõ ràng hơn về CQ. Quan niệm này cho rằng CQ là một đơn vị cơ bản trong phân vùng địa lý tự nhiên “…là một thể tổng hợp lãnh thổ tự nhiên đồng nhất về mặt phát sinh, có một nền địa chất đồng nhất, có một kiểu địa hình, một kiểu khí hậu đồng nhất và bao gồm một tập hợp các dạng địa lý chủ yếu và thứ yếu có liên kết với nhau về mặt động lực, lặp lại một cách có quy luật trong không gian, tập hợp này chỉ thuộc riêng cho cảnh quan đó mà thôi”. Với định nghĩa này, N.A.Xolsev đã xác định được cấu trúc thẳng đứng và cấu trúc ngang của cảnh quan [14, 25]. 3 Năm 1965, A.G.Ixatsenko đã bổ sung định nghĩa trên, ông cho rằng: Cảnh quan là một bộ phận được tách ra từ một miền, một đới địa lý và nói chung là của một đơn vị lãnh thổ bất kỳ nào đó lớn hơn, nó có đặc điểm là đồng nhất về cả tương quan địa đới và phi địa đới, có một cấu trúc riêng và một cấu tạo hình thái riêng. Cũng trên quan điểm đó năm 1991 ông đưa ra định nghĩa gắn gọn hơn cho rằng: “Cảnh quan là một địa hệ thống nhất về mặt phát sinh, đồng nhất về các dấu hiệu địa đới và phi địa đới, bao gồm một tập hợp đặc trưng các địa hệ liên kết bậc thấp”. Ở Việt Nam, khi nghiên cứu CQ địa lý miền Bắc Việt Nam, GS.Vũ Tự Lập đã đưa ra định nghĩa: “Cảnh quan địa lý là một địa tổng thể, được phân hóa trong phạm vi một đới ngang ở đồng bằng và một đai cao ở miền núi, có một cấu trúc thẳng đứng đồng nhất về nền địa chất, kiểu địa hình, kiểu khí hậu, kiểu thủy văn, về đại tổ hợp thổ nhưỡng và đại tổ hợp thực vật, bao gồm một tập hợp có quy luật của các dạng địa lý và những đơn vị cấu tạo khác theo một cấu trúc ngang đồng nhất” [31]. Như vậy, CQ được hiểu và áp dụng khác nhau phụ thuộc vào quan điểm của người nghiên cứu. Thuật ngữ này có thể hiểu theo một trong các nội dung sau: 1. Cảnh quan được coi là một thể tổng hợp lãnh thổ tự nhiên ở bất kỳ một cấp phân chia nào, đó là quan niệm chung. 2. Cảnh quan là một đơn vị phân loại trong hệ phân vị lãnh thổ tự nhiên, trong đó cảnh quan là đơn vị chủ yếu được xem xét đến những biến đổi do tác động của con người. Quan niệm cảnh quan là đơn vị mang tính kiểu loại. 3. Cảnh quan là những cá thể địa lý, là một phần nào đó riêng biệt của lớp vỏ địa lý, trong đó có những đặc tính chung nhất. Trong đó quan niệm kiểu loại và quan niệm cá thể được nhiều nhà nghiên cứu cảnh quan sử dụng, phổ biến là quan niệm kiểu loại. Trong quan niệm này cảnh quan được coi là đơn vị cơ sở, là một cấp phân vị, đơn vị phân loại thể hiện rõ nét nhất cả hai quy luật địa đới và phi địa đới, đồng thời là địa hệ tự nhiên cấp cơ sở có cấu trúc hình thái riêng. Trong NCCQ có nhiều hướng khác nhau, cần phải hiểu cảnh quan theo đúng bản chất của nó, không thể hiểu theo tên gọi vì chưa có một định nghĩa cảnh quan thống nhất [14]. Trong quá trình nghiên cứu cảnh quan lãnh thổ huyện Lắk, tác giả đã quan niệm cảnh quan vừa là một thể tổng hợp tự nhiên, vừa là đơn vị mang tính kiểu loại, là một đơn vị nằm trong hệ thống phân loại chung của cảnh quan lãnh thổ Việt Nam và đồng thời là một bộ phận cảnh quan lãnh thổ Việt Nam. Cảnh quan huyện Lắk là một thể tổng hợp tự nhiên phức tạp vừa có tính đồng nhất vừa bất đồng nhất bao gồm một hệ thống các yếu tố thành phần cấu tạo nên (địa chất, địa hình, khí hậu, đất, nước, sinh vật) và giữa chúng có mối liên hệ phụ thuộc 4 tác động lẫn nhau, đồng thời có sự phân hoá phức tạp từ cấp cao đến thấp theo hệ thống phân loại nhất định tạo nên tính đa dạng trong cấu trúc, chức năng và động lực cảnh quan huyện Lắk. Chính vì vậy khi nghiên cứu cảnh quan huyện Lắk cần lựa chọn phương pháp và quan điểm nghiên cứu phù hợp. 1.2. Đánh giá cảnh quan Đánh giá Cảnh quan là một khâu quan trọng trong nghiên cứu địa lý ứng dụng nhằm mục đích phục vụ sử dụng hợp lý lãnh thổ, tức là giúp các nhà quản lý hoạch định, tổ chức sản xuất phù hợp với chức năng của từng cảnh quan và đảm bảo phát triển bền vững lãnh thổ. Bản chất của công tác đánh giá cảnh quan là xác định mức độ thuận lợi của cảnh quan cho các mục đích sử dụng khác nhau. Mỗi loại hình sử dụng có một yêu cầu nhất định đối với cảnh quan, đánh giá cảnh quan được thực hiện trên cơ sở đối chiếu, so sánh mức độ thuận lợi của cảnh quan đối với từng loại hình sử dụng. Thực chất là đánh giá tổng hợp các tổng thể tự nhiên cho mục đích cụ thể nào đó như: nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, du lịch, công nghiệp, xây dựng... Đánh giá cảnh quan cũng như nhiều lĩnh vực khoa học khác phát triển từ đơn giản đến phức tạp, từ đánh giá thành phần đến đánh giá tổng hợp. Phương pháp đánh giá cảnh quan thực chất đã được xem xét từ những năm 70 của thế kỷ XX ở những khía cạnh khác nhau như: thích nghi sinh thái (mức độ thuận lợi), hiệu quả kinh tế, ảnh hưởng của môi trường và ảnh hưởng của xã hội; Năm 1973 Mukhina đã đưa ra phương pháp và nguyên tắc đánh giá kỹ thuật các tổng hợp thể tự nhiên. Trong vài thập kỷ gần đây để đáp ứng với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội các vùng lãnh thổ, công tác đánh giá tổng hợp ĐKTN, TNTN cho các mục đích cụ thể ngày càng phổ biến và đạt được nhiều kết quả to lớn. Trước hết phải kể đến các công trình nghiên cứu của các nhà địa lý tổng hợp tham gia vào quy hoạch các cùng lãnh thổ Liên Xô (cũ) như Cộng hoà Ucraina, Liên bang Nga, ...các nước Tây Âu, Bắc Mỹ. Các công trình có ý nghĩa thực tiễn lớn và đồng thời đã xây dựng phương pháp luận, nguyên tắc, phương pháp đánh giá cảnh quan thiết lập nên một khoa học độc lập có đối tượng, chức năng và nhiệm vụ nghiên cứu riêng đó là Đánh giá tổng hợp ĐKTN và TNTN cho các mục đích thực tiễn [12, 13]. Phương pháp đánh giá mức độ thuận lợi hay còn gọi là đánh giá tiềm năng sản xuất các địa tổng thể của Mukhina (1973) là phương pháp đánh giá truyền thống, đặc trưng của địa lý tự nhiên ứng dụng. Hiện nay ngoài các phương pháp đánh giá cảnh quan truyền thống còn có các phương pháp hỗ trợ như: Phương pháp đánh giá đất của FAO (1976, 1981), đánh giá 5 đất tự động (sử dụng phần mềm ALES), hệ thống thông tin địa lý (Công nghệ GIS), phân tích các nhân tố…[22, 36,37]. Ở nước ta từ những năm 80, 90 trở lại đây các công trình nghiên cứu cảnh quan cũng đã tập trung vào những vấn đề đánh giá tổng hợp tiềm năng tự nhiên, TNTN ở các vùng và các địa phương nhằm mục đích tìm ra các giải pháp để sử dụng hợp lý nguồn TNTN và bảo vệ môi trường phục vụ phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Có thể kể đến các công trình đánh giá đất FAO (1993), Trần An Phong (1993), Nguyễn Đình Kỳ, Nguyễn Anh Hoành (2004) ; Các công trình nghiên cứu về phương pháp luận và đánh giá tổng hợp ĐKTN, TNTN của các nhà khoa học : Phạm Hoàng Hải, Nguyễn Thượng Hùng, Nguyễn Ngọc Khánh (1997) ; Nguyễn Thị Kim Chương (2001), Nguyễn Viết Thịnh (2002), Lại Vĩnh Cẩm, Trần Xuân Ý, Nguyễn Xuân Độ (2003) ; Nguyễn Cao Huần, Nguyễn An Thịnh, Phạm Quang Tuấn (2004), Trương Quang Hải (2004)...và rất nhiều luận án, luận văn đã thực hiện nghiên cứu, đánh giá cảnh quan ở từng lãnh thổ cụ thể [12, 15, 19, 22]. Trên cơ sở kết quả của phân tích cảnh quan, hệ thống phân loại và bản đồ cảnh quan, quá trình đánh giá tổng hợp gồm lý thuyết đánh giá chung và các thủ pháp tiến hành. Trong phần lý luận chung làm cơ sở để thực hiện đánh giá phải xác định rõ mục đích, đối tượng, nội dung và lựa chọn phương pháp đánh giá phù hợp, chỉ tiêu đầy đủ, hợp lý. Việc xác định đối tượng, mục đích đánh giá là hết sức quan trọng và phức tạp nó quyết định đến mức độ khái quát hoặc chi tiết của công tác đánh giá, tỷ lệ bản đồ, hệ thống các cấp phân loại cảnh quan. Ngược lại việc lựa chọn phương pháp đánh giá phù hợp, chỉ tiêu đầy đủ, hợp lý thì sẽ cho kết quả đánh giá chính xác và có ý nghĩa thực tiễn cao hơn. 6 CHƢ ƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CÁC YẾU TỐ THÀNH TẠO CẢNH QUAN VÀ SỰ PHÂN HÓA CẢNH QUAN KHU VỰC NGHIÊN CỨU 2.1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ ĐẶC ĐIỂM CÁC YẾU TỐ THÀNH TẠO CẢNH QUAN 2.1.1. Vị trí địa lý Huyện Lắk nằm về phía Đông Nam của tỉnh Đắk Lắk, cách thành phố Buôn Ma Thuột 54 km theo quốc lộ 27, tổng diện tích tự nhiên là 1.256 km2 bao gồm 1 thị trấn Liên Sơn và 10 đơn vị hành chính xã: Yang Tao, Bông Krang, Đăk Liêng, Đăk Phơi, Đăk Nuê, Buôn Tría, Buôn Triêk, Krông Knô, Nam Ka và Ea Rbin. Ranh giới hành chính như sau: - Phía Bắc giáp huyện Krông Ana và Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk - Phía Tây giáp huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông - Phía Nam giáp huyện Đam Rông và Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng - Phía Đông giáp huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk. Về vị trí địa lý - kinh tế, Lắk là huyện cuối cùng phía Đông Nam của tỉnh Đắk Lắk giáp với tỉnh Lâm Đồng thông qua quốc lộ 27 - là tuyến giao thông quan trọng trong giao lưu kinh tế khu vực Tây Nguyên, tạo nên điểm gắn kết kinh tế giữa trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột (Tỉnh lỵ Đắk Lắk) với trung tâm tỉnh Lâm Đồng là thành phố Đà Lạt. Huyện Lắk có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội như: Diện tích đất đai rộng phù hợp cho phát triển nền sản xuất nông nghiệp với tập đoàn cây trồng đa dạng, trong đó lúa nước là cây thế mạnh của huyện; diện tích rừng khá rộng với nhiều loài động thực vật quý hiếm, tiêu biểu là khu bảo tồn thiên nhiên Nam Ka; khu lịch sử văn hoá môi trường hồ Lắk. 2.1.2. Đặc điểm điều kiện tự nhiên 2.1.2.1. Địa chất, địa mạo a) Địa chất Đặc điểm địa chất - kiến tạo có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát sinh và phát triển của cảnh quan một lãnh thổ, là yếu tố nền móng có ảnh hưởng rất lớn đến các yếu tố khác như: địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng, thủy văn và sinh vật trong quá trình thành tạo cảnh quan của lãnh thổ. Nền địa chất huyện Lắk có một số đặc điểm sau: - Hệ tầng La Ngà (J2ln) chiếm diện tích lớn nhất trong huyện, phân bố ở các xã EaR’Bin, Buôn Triết, Buôn Tría, Đăk Nuê và một phần ở xã Bông Krang. Các thành phần chính trong hệ tầng gồm có cát kết, bột kết, đá phiến sét dạng nhịp. 7 - Phức hệ Đinh Quán phân bố chủ yếu tại xã Nam Ka và Bông Krang, một phần ở Đăk Phơi và Yang Tao. Thành phần gồm có granođiorit, biotit, horblend, điorit. - Phức hệ Cà Ná phân bố tại 3 xã Krông Nô, Đăk Phơi và Bông Krang thành phần chủ yếu gồm granit biotit-muscovit, granit alaskit. - Hệ tầng Xuân Lộc phân bố tập trung tại trung tâm huyện, thành phần chính là bazan olivin, có độ dày 20 – 100m cấu tạo nên cao nguyên bazan màu mỡ trong khu vực. - Các trầm tích Đệ Tứ gồm abQ22-3, aQ23, aQ, thành phần chủ yếu là cát, cuội sỏi, bột, sét, mùn thực vật, than bùn, có độ dày từ 0,5 – 3m. Phân bố chủ yếu tại khu vực hồ Lăk. Cùng với các đặc điểm địa chất, trên địa bàn huyện có một số tài nguyên khoáng sản sau: - Khoáng Thiếc: Thiếc gốc (khoáng hóa thiếc gốc) tại khe suối thuộc suối lớn Đăk Mray - Tây Bắc dãy núi Youk Mao Yang Ho. Vành phân tán khoáng vật cassiterit: Ở Đăk Phơi có vành phân tán thiếc có triển vọng nhưng diện tích của vành chỉ chiếm 1 - 2 km2, hàm lượng cassiterit (SnO2) đạt 33 - 165 g/m3. Tại thượng nguồn Đăk Phơi, phát hiện vành phân tán bậc I của thiếc rộng 5 km, dài gần 20 km, trùm lên thung lũng suối Ya Hieo, Ea Poi, thượng nguồn Đăk Phơi. Sự có mặt của vành phân tán là dấu hiệu gián tiếp để tìm kiếm quặng thiếc gốc. - Biểu hiện vàng gốc: Kết quả phát hiện 6 vị trí lấy mẫu có khoáng hoá vàng tại xã Krông Knô và Đăk Phơi, hầu hết là các mạch thạch anh có sulfur chứa vàng, hàm lượng vàng chưa đạt được 1g/tấn; không có giá trị công nghiệp. - Sét gạch ngói: Hiện nay trên địa bàn có 2 điểm sản xuất gạch ngói: + Điểm sét Buôn Đông Yang - xã Yang Tao thuộc trầm tích Đệ tứ, xung quanh thung lũng là đá Granit. Chất lượng sét có chứa kaolin. Thung lũng chứa sét rộng khoảng 4 km, chiều dày khai thác trung bình 1 m, trữ lượng dự báo 4 triệu m3, là vùng trồng lúa nước do đó việc khai thác sét rất khó khăn. + Điểm sét Buôn Triết, sét màu nâu, chiều dày khai thác 1,5 m. Sét ở đây do đá bột kết, phiến sét phong hóa đưa xuống trầm tích ở thung lũng. Về tiềm năng huyện Lăk có bồn sét lớn dọc sông Krông Ana, sét trầm tích Holosen (aQIV2-3) có chất lượng loại tốt để sản xuất gạch ngói. Chiều dài bồn sét 15 km, rộng trung bình 2 km, chiều dày khai thác ít nhất 2m. Dự đoán trữ lượng sét cấp P (sét có điều kiện khai thác tốt) là 60 triệu m3. Sau khai thác vẫn có thể xây dựng đồng ruộng canh tác lúa nước. - Đá granit: Đá granodiorit, granit cấu thành các khối núi Chư Ya Trang, Chư Yang Reh. Thành phần chủ yếu là hạt lớn dạng khối. Trữ lượng dự báo cấp P khoảng 5 - 7 km2 ; chiều dày khai thác 10m, ước tính trữ lượng 50 - 70 triệu m3. 8 Tóm lại, tiềm năng khoáng sản lớn nhất của huyện Lắk là sét gạch ngói và đá xây dựng. b) Địa mạo Địa hình huyện Lắk có các kiểu địa hình chính sau: - Các kiểu địa hình bề mặt đỉnh san bằng bóc mòn cao từ 800 đến 2200m: Hình thành do dãy Chư Yang Sin chạy dài từ Đông Bắc xuống Tây Nam bao bọc, độ cao trung bình từ 800 - 2200m so với mặt nước biển, độ dốc trung bình 20 - 250, thấp dần từ Đông sang Tây, những đỉnh núi cao trên 1.000m tập trung hầu hết ở phía Đông như đỉnh Chư Pan Phan cao 1.928 m, đỉnh Chư Drung Yang cao 1.802m. Loại địa hình này phân bố ở hầu hết các xã tạo nên mái nhà ngang qua huyện dốc về phía Bắc (lưu vực sông Krông Ana) và phía Nam (lưu vực sông Krông Knô). Địa hình này chủ yếu là rừng. Khó bố trí tưới tự chảy nhưng dễ bố trí hồ chứa tạo nguồn cung cấp nước cho vùng. - Các kiểu địa hình tích tụ: Gồm có kiểu địa hình đáy trũng xâm thực và tích tụ bãi bồi của dòng chảy thường xuyên tuổi Holocen, kiểu địa hình thềm và đồng bằng tích tụ trầm tích aluvi, kiểu địa hình đồng bằng và trũng tích tụ trầm tích đầm lầy – aluvi, kiểu địa hình thềm và đồng bằng tích tụ trầm tích aluvi-proluvi và kiểu địa hình vạt gấu tích tụ deluvi tuổi đệ tứ. Các kiểu địa hình này được tạo bởi phù sa trên núi và phù sa sông Krông Knô, Krông Ana. Địa hình vùng trũng phân bố chủ yếu phía Tây Bắc ở các xã Buôn Triết, Buôn Tría, Đăk Liêng, Ea Rbin, vùng có độ dốc trung bình từ 3 - 80, độ cao trung bình 400 - 500 m, tương đối bằng phẳng, chủ yếu trồng lúa và thường bị ngập vào mùa lũ. Đây là vùng lúa chủ lực của huyện cũng như của tỉnh Đắk Lắk. - Kiểu địa hình cao nguyên Bazan trẻ dạng vòm thoải bị chia cắt yếu bởi mạng lưới sông suối tuổi Pleistocen: Tập trung chủ yếu ở các xã Yang Tao, Bông Krang, TT. Liên Sơn, Đăk Phơi, Đăk Nuê. - Kiểu địa hình đồng bằng thung lũng bóc mòn – tích tụ khá bằng phẳng xen đồi núi sót tuổi Pleistocen: Phân bố rải rác trên các xã và ven sông Krông Knô ở các xã Nam Ka, Krông Knô. 2.1.2.2. Khí hậu, thủy văn a) Khí hậu Huyện Lắk nằm phía đông Trường Sơn, giữa Cao nguyên Buôn Ma Thuột và vùng núi Chư Jang Sin, chịu ảnh hưởng chế độ khí hậu gió mùa Tây Nam và mang tính chất khí hậu cao nguyên nhiệt đới ẩm và đặc thù của thung lũng, mỗi năm có hai mùa rõ rệt: Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến hết tháng 10 tập trung trên 94% lượng mưa hàng năm; mùa khô từ tháng 9 11 đến tháng 5 năm sau, lượng mưa không đáng kể, trong đó tháng 2 hầu như không mưa, lượng mưa trung bình thấp hơn so với các vùng xung quanh với lượng mưa từ 1.8001.900mm, do bị che khuất bởi khối núi Chư Jang Sin ở phía Đông Nam. Riêng chế độ mưa ở các xã phía Tây Nam huyện có lượng mưa từ 1.900mm - 2.100mm, cao hơn so với các địa bàn khác trên huyện. Chế độ nhiệt:- Nhiệt độ trung bình năm: 24 - 250C - Nhiệt độ cao nhất (tháng 3, 4): 380C - Nhiệt độ thấp nhất (tháng 12, 1): 100C - Tổng tích nhiệt năm: 8.000 - 8.5000C - Bình quân giờ nắng chiếu sáng/năm: 1.700 - 2.400 Chế độ ẩm: - Lượng mưa bình quân hàng năm: 1.800 - 1.900 mm - Lượng mưa cao nhất: 2.800 mm - Độ ẩm tương đối hàng năm: 80 - 85% - Độ bốc hơi mùa khô: 14,9 -16,2 mm/ngày - Độ bốc hơi mùa mưa: 1,5 - 1,7 mm/ngày Chế độ gió: Hướng gió thịnh hành vào mùa mưa là Tây Nam và vào mùa khô là Đông Bắc. Gió Tây và Tây Nam thường thổi vào các tháng 5 – 9, còn các tháng 10 và 4 thì gió Đông và Đông Nam là chủ yếu. Tốc độ gió bình quân vào mùa khô dưới 3 m/s, mùa mưa từ 4 – 5 m/s, mùa này thỉnh thoảng có gió mạnh trên 10m/s, tốc độ trên 15 m/s thường xảy ra ở các thời điểm đầu hoặc cuối mùa mưa. Chế độ mưa: Mưa trên địa bàn huyện mang đặc điểm mùa mưa của Tây Trường Sơn. Hàng năm mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến hết tháng 10, lượng mưa chiếm 85 – 90% lượng mưa cả năm. Số ngày mưa trung bình trong mùa mưa khoảng 20 ngày/tháng, thậm chí có tháng mưa tất cả các ngày. Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến hết tháng 4 năm sau. Lượng mưa mùa khô không đáng kể chỉ chiếm 10 – 15% tổng lượng mưa hàng năm. Vào mùa khô mưa chỉ có ở cuối hoặc đầu mùa; thời kỳ giữa mùa lượng mưa không đáng kể, nhiều năm không có mưa, nếu có thì thời gian mưa chỉ khoảng vài ngày và lượng mưa khoảng dưới 10mm/tháng. Lượng mưa trung bình nhiều năm trên khu vực nghiên cứu dao động từ 1.800 – 2.100 mm, lượng mưa tăng dần từ vùng thấp lên vùng cao. Tuy khí hậu của Lăk mang đặc điểm của khí hậu Tây Trường Sơn như nói ở trên nhưng vùng đồng bằng Buôn Tría và Buôn Triêk của Lăk lại bị ảnh hưởng gián tiếp của khí hậu trung gian giữa Tây Trường Sơn và Đông Trường Sơn. các tháng từ 5-8 lượng mưa rất 10 lớn, nhất là tháng 8, gây lũ trên sông Krông Ana và Krông Knô nên thường làm cho vùng đồng bằng Lăk chịu lũ ngập kéo dài nhiều tháng từ cuối tháng 8 đến tháng 11 hàng năm. Tóm lại: Khí hậu vùng huyện Lăk mang đậm đặc điểm của khí hậu Tây Trường Sơn, phân hai mùa rõ rệt. Mùa mưa dồi dào nước, thậm chí gây ngập lụt cho vùng đồng bằng ven sông. Mặc dù vậy mùa mưa ở Lăk khá thuận lợi cho phát triển nông nghiệp trên các chân cao không bị tác động của lũ. Mùa khô kéo dài và lượng mưa rất ít nên gây thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp. b) Thủy văn Nước mặt: Nguồn nước mặt của huyện Lắk khá dồi dào, lượng mưa trung bình hàng năm đạt từ 1.800-1.900mm đã được tiếp nhận và dự trữ từ các sông suối và nhiều hồ chứa. Hai nhánh sông chính Krông Nô, Krông Ana cùng hệ thống sông suối khe nhỏ dày đặc đổ về dòng Sêrêpôk góp phần lớn vào tổng lượng dòng chảy của các con sông này trên 8 tỷ m3/năm. Ngoài ra, nguồn nước mặt còn được dự trữ ở hệ thống các hồ chứa như hồ Lăk, hồ Buôn Triêk, Hồ Buôn Triă, và hồ Buôn Tua Srah, các hồ này có diện tích bề mặt lớn giữ nước quanh năm. Như vậy, nguồn nước mặt là rất lớn, tuy nhiên việc sử dụng nguồn nước mặt phục vụ phát triển kinh tế-xã hội trong mùa khô là tương đối khó khăn cần phải xây dựng các công trình thủy lợi kết hợp với thủy điện để đảm bảo sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Nguồn nước ngầm: Nguồn nước ngầm huyện Lắk thuộc phức hệ chứa nước khe nứt vỉa, các thành tạo trầm tích Neogen ( N13 - N2 ), thành tạo trong diện phân bố hẹp, độ sâu từ 30-50 m, nước phức hệ này rất phong phú trong các lớp hạt thô, lưu lượng 0,47 - 4,26 l/s. Khả năng chứa nước khá đồng nhất theo diện. Nước thuộc áp lực nước trung bình, động thái khá ổn định, ít phụ thuộc vào các yếu tố khí hậu và dòng mặt. Đây là đơn vị chứa nước không lớn, song có ý nghĩa đối với những vùng khan nguồn nước mặt, phục vụ cho ăn uống, sinh hoạt ở quy mô nhỏ. Độ khoáng hóa đặc trưng từ 0,03 - 0,27 g/l, pH = 5,7 - 6,8, ứng với môi trường axit yếu đến trung tính. Hiện nay nguồn nước ngầm đang được sử dụng khá phổ biến cho sinh hoạt và sản xuất thông qua hệ thống giếng khoan, giếng đào. 2.1.2.3. Thổ nhưỡng, thực vật a) Thổ nhưỡng Theo kết quả phân loại đất năm 2005 (FAO-UNESCO), huyện Lắk có các nhóm đất chính sau: - Nhóm đất đỏ (Ferrasols) được hình thành trên đá mẹ basalt và phiến sét. Nhóm đất này có các loại đất sau: Đất nâu đỏ trên đá macma bazơ (Fu): Diện tích 1.963 ha chiếm 1,56% diện tích tự nhiên; độ dốc 3 - 50, tầng dày > 70 cm, đất tơi xốp giàu dinh dưỡng thích hợp cho các loại cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả. Phân bổ chủ yếu ở xã Đắk Phơi và Ea R’Bin. 11 Đất đỏ vàng trên đá phiến sét (Fs): tổng diện tích 28.550 ha chiếm 22,71%. Đất thịt nặng đến cát pha, khả năng thấm, giữ nước kém; về mùa khô bị chai rắn, chia cắt mạnh, độ dốc 3 - 200 nghèo chất dinh dưỡng và tầng mỏng. Phân bổ chủ yếu ở xã Bông Krang. Đất đỏ vàng trên đá macma axit (Fa): tổng diện tích 6.978 ha chiếm 5,55%. Đất thịt nặng đến cát pha, tỷ lệ sét tương đối, chia cắt mạnh, độ dốc 8 - 300 nghèo chất dinh dưỡng và tầng mỏng. Phân bổ ở xã Krông Knô, Nam Ka, Yang Tao. - Nhóm đất xám (Acrisols) là nhóm đất lớn nhất trong huyện, phát triển trên đá mẹ Granite và các trầm tích hỗn hợp Mezozoi, phân bố tại vùng địa hình đồi thấp, độ dày tầng đất trung bình và không giàu dinh dưỡng lắm, một số bị xói mòn tầng mặt, thoái hoá và lẫn đá mẹ, tổng diện tích 76.400 ha chiếm 60,79% diện tích tự nhiên. Phân bổ rộng khắp các xã trong huyện. - Nhóm đất Gley (Gleysols) nhóm đất dốc tụ, gley hóa với 8.554 ha, chiếm 6,80% diện tích tự nhiên. Phân bố rải rác ven sông suối, được hình thành bởi quá trình bào mòn vận chuyển vật chất từ cao xuống thấp, bị ngập nước nên gley hoá, đất bị kết von. Đất khá giàu mùn hữu cơ, đất thịt nhẹ có độ phì cao, ít dốc, ít thoát nước thích hợp cho phát triển lúa nước, trồng cây lương thực. Phân bố ở vùng ngập nước thị trấn Liên Sơn, xã Yang Tao, Buôn Tría, Buôn Triết. - Nhóm đất Phù sa hình thành do quá trình bồi lắng phù sa sông suối ven sông Krông Ana và Krông Nô, giàu dinh dưỡng, thành phần cơ giới từ trung bình đến thịt nặng, tầng dày, cho ưu thế phát triển lúa nước, mía và rau quả, diện tích 1.031 ha, chiếm 1,03% diện tích tự nhiên. Phân bố rải rác ven sông các xã trong huyện. Ngoài ra ở huyện Lắk còn có đất dốc tụ và đất đen trên sản phẩm bồi tụ của đá bazan chiếm diện tích nhỏ và phân bố rải rác tại các xã. b) Thực vật Thảm thực vật tự nhiên: Căn cứ vào sự phân hoá theo độ cao mà thực chất là tác động của chế độ nhiệt, ẩm, có thể chia các kiểu thảm thực vật của huyện Lăk như sau: - Thảm thực vật rừng kín cây lá rộng thường xanh nhiệt đới ẩm: Là rừng điển hình ở độ cao dưới 800m, chiếm phần lớn diện tích tự nhiên của huyện. Cấu trúc rừng nhiều tầng tán, nhiều dây leo và cây phụ sinh, tầng cỏ và tầng cây bụi rất phát triển, thành phần chiếm ưu thế là cây lá rộng thường xanh. - Thảm thực vật rừng kín cây lá rộng thường xanh nhiệt đới ẩm trên núi: Phân bố trên các núi có độ cao trên 800 m ở phía Đông của huyện. Tầng ưu thế sinh thái có bộ lá rộng thường xanh. - Thảm thực vật rừng kín cây lá rộng xen lá kim ôn đới ẩm: Phát triển ở độ cao trên 2000m, tập trung chủ yếu ở khu vực vườn Quốc gia Chư Yang Sin, trên đai cao này thường xuyên có mây mù và gió mạnh nên thảm thực vật có những nét đặc trưng riêng. Các cây gỗ ở đây chỉ cao 5-6m, ở dạng cây gỗ lùn hay cây bụi tạo thành một quần xã với độ che phủ kín. Các cây đều có bao chồi tránh lạnh cho cơ quan sinh dưỡng. Thân cây có nhiều rêu phủ. Các cây chủ yếu thuộc hai họ Ericaceae (họ Đỗ quyên) và họ Theaceae (họ Chè). Có thể thấy rằng thực vật Lăk phong phú và đa dạng, có nhiều loại cây đặc hữu vừa có giá trị kinh tế, vừa có giá trị khoa học; phân bố trong điều kiện lập địa thuận lợi, nên rừng tái sinh có mật độ khá lớn, tiêu biểu là vườn Quốc gia Chư Yang Sin thuộc hệ sinh thái núi cao, có tính đa dạng sinh học cao bao gồm 876 loài thực vật bậc cao có mao mạch (trong đó 54 loài ghi trong sách đỏ, 143 loài đặc hữu)… Thảm thực vật trồng: - Rừng trồng: được trồng chủ yếu ở xã Đăk Nuê và Krông Nô - Lúa nước: Được trồng tại các khu vực trũng của huyện là Đăk Liêng, Liên Sơn và tại các vùng trũng ven sông, suối 12 - Cây trồng lâu năm và hàng năm: gồm các loại cây ăn quả, các loại cây hoa màu được trồng rải rác xen lẫn khu dân cư hình thành các vùng chuyên canh cây chủ lực trên địa bàn: nhóm cây ngắn ngày có ngô ở Đăk Phơi, Krông Knô. Nhóm cây dài ngày có cà phê ở Đăk Liêng, Đăk Phơi, Đăk Nuê. Điều ở Đăk Phơi, Đăk Nuê, Ea Rbin. 2.1.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội Năm 2010 dân số của toàn huyện Lăk là 60.754 người, trong đó dân số thành thị 6.100 người chiếm 9,78% còn lại dân số nông thôn 54.600 người chiếm 90%. Mật độ dân số trung bình toàn huyện là 48 người/km2, trong đó cao nhất ở thị trấn Liên Sơn (458 người/km2), thấp nhất là ở xã Bông Krang (19 người/km2). Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên liên tục giảm qua các năm: Từ 2,23% năm 2001 xuống 2,16% năm 2002, 2,17% năm 2003, 2,06% năm 2004, 2,05 % năm 2005, 1,82% năm 2006, 1,78% năm 2007, 1,8% năm 2008 và chỉ còn 1,72% năm 2009. Phân bố dân cư theo xã được thể hiện trong bảng sau. Bảng 2.1. Hiện trạng dân số huyện Lắk năm 2010 Đơn vị hành chính 1 Xã Ea Rbin 2 Xã Nam Ka 3 Xã Krông Knô 4 Xã Buôn Triết 5 Xã Buôn Tría 6 Xã Đăk Nuê 7 Xã Đăk Phơi 8 Xã Đăk Liêng 9 Xã Bông Krang 10 Xã Yang Tao 11 TT Liên Sơn Tổng số Số thôn Stt 7 7 2 7 1 7 Dân số TB Diện tích tự Mật độ d.số 2 nhiên ( km ) (ngƣ ời) (ngƣ ời/ km2) 80 1.952 24,40 92,86 2.233 24,04 282,01 5.947 21,09 74,31 7.505 100,99 29,54 3.635 123,07 126,24 4.978 39,43 140,58 5.399 38,41 31,67 9.698 306,22 317,38 6.272 19,76 68,7 7.194 104,71 12,75 5.941 465,99 1.256,04 60.754 48,37 Nguồn: Niên giám thống kê và Phòng Thống kê huyện Lắk Số buôn 5 7 11 8 1 9 11 13 10 11 3 31 89 Bảng 2.2. Biến động dân số huyện Lắk giai đoạn 2005-2010 STT 1 a b 2 a b 3 a b Năm Tăng/giảm 2005 2010 Dân số trung bình ngƣời 56.628 60.754 4.126 Dân số thành thị người 5.227 5.941 714 Dân số nông thôn người 51.401 54.813 3.412 0 Phân theo giới tính Nam người 28.391 29.960 1.569 Nữ người 28.237 30.794 2.557,00 Tỷ lệ tăng dân số chung % 2,05 1,77 -0,28 Tỷ lệ gia tăng tự nhiên % 1,85 1,59 -0,26 Tỷ lệ gia tăng cơ học % 0,20 0,18 -0,02 Nguồn: Niên giám thống kê và Phòng Thống kê huyện Lắk Chỉ tiêu Đvt 13 Thành phần dân tộc huyện Lắk khá đa dạng: có tới 16 dân tộc anh em, trong đó người Kinh có 22.285 nhân khẩu chiếm 37,31% dân số. Dân tộc thiểu số tại chỗ chủ yếu là dâ n tộc M’nông với 29.780 người (49,86%) và Ê đê với 1.975 người (3,31%). Dân tộc thiểu số khác có nguồn gốc từ các tỉnh miền núi phía bắc như: H’Mông (2.494 người), Tày (2.017 người), Dao (1.508 người), Thái (760 người), Nùng (618 người)... Trong những năm qua, huyện đã luôn quan tâm, ổn định và đảm bảo cuộc sống lâu dài cho đồng bào nhằm xây dựng, phát triển toàn diện các buôn, bon. Quy hoạch bố trí đất ở và đất sản xuất cho đồng bào kinh tế và dân di cư tự do sống rải rác ở vùng sâu, vùng xa. 2.2. ĐẶC ĐIỂM CẢNH QUAN HUYỆN LẮK Cảnh quan huyện Lắk có sự phân hóa đa dạng, sự phân hóa đó được thể hiện rõ nét theo sự phân hóa của hình thái đại địa hình, từ cấp phân loại lớp cảnh quan trở xuống. Cụ thể như sau: a. Lớp cảnh quan: Cấp phân dị lãnh thổ này được phân chia dựa trên đặc trưng phát sinh hình thái của đại địa hình, thể hiện quy luật phân hoá phi địa đới của tự nhiên, dựa vào tính khác biệt của cân bằng vật chất, kiến tạo địa mạo, cấu trúc địa hình và phân hóa khí hậu, sinh vật, thổ nhưỡng theo đai cao. Phân dị của các bộ phận địa hình tạo nên cho lãnh thổ 3 lớp cảnh quan chính: Lớp cảnh quan núi; Lớp cảnh quan cao nguyên; Lớp cảnh quan đồng bằng. Phần lớp diện tích lãnh thổ thuộc lớp cảnh quan núi. b. Phụ lớp cảnh quan: Là cấp phân vị được hình thành do sự phân hóa bên trong lớp cảnh quan, dựa trên các đặc trưng về trắc lượng hình thái của địa hình. Cảnh quan huyện Lắk được phân chia thành 5 phụ lớp cảnh quan gồm: Phụ lớp cảnh quan núi trung bình; Phụ lớp cảnh quan núi thấp; Phụ lớp cảnh quan cao nguyên; Phụ lớp cảnh quan đồng bằng cao; Phụ lớp cảnh quan đồng bằng thấp. c. Kiểu cảnh quan: Với chỉ tiêu sinh - khí hậu trong mối tương quan nhiệt - ẩm của lãnh thổ là chỉ tiêu phân chia chính, quyết định sự hình thành kiểu thảm thực vật theo nguồn gốc phát sinh, nên dễ dàng nhận thấy toàn bộ lãnh thổ huyện Lắk thuộc cùng một kiểu thảm thực vật phát sinh, ít có biến động trong thích ứng của thảm thực vật theo cân bằng nhiệt - ẩm. Do vậy, về điều kiện phát sinh huyện Lắk có lớp phủ thực vật rừng kín lá rộng thường xanh nhiệt đới ẩm mưa mùa phát triển rộng khắp trên toàn lãnh thổ. Phân hóa theo độ cao địa hình nên toàn lãnh thổ có sự khác nhau về hình thái, vì vậy huyện Lắk có 5 kiểu cảnh quan với rừng cây lá rộng thường xanh nhiệt đới ẩm mưa mùa. 14 d. Hạng cảnh quan: Dựa vào các dấu hiệu về kiểu địa hình phát sinh và các quá trình địa mạo hiện tại thì cảnh quan huyện Lắk được chia thành 12 hạng cảnh quan. Trong đó có 3 hạng thuộc phụ lớp cảnh quan núi trung bình, 3 hạng thuộc phụ lớp cảnh quan núi thấp, 1 hạng thuộc phụ lớp cao nguyên, 3 hạng thuộc phụ lớp cảnh quan đồng bằng cao và 2 hạng thuộc phụ lớp cảnh quan đồng bằng thấp. e. Loại cảnh quan: Là đơn vị phân loại dựa trên mối tác động tương hỗ của 1 loại đất và 1 kiểu thảm thực vật. Loại cảnh quan phản ánh sự đa dạng cảnh quan lãnh thổ và thể hiện cụ thể, đầy đủ nhất đặc điểm sinh thái của từng đơn vị lãnh thổ. Với sự kết hợp của 8 nhóm loại đất và 7 quần xã thực vật hiện tại trên lãnh thổ hình thành nên 91 loại cảnh quan. f. Dạng cảnh quan: Là đơn vị phân loại cuối cùng trong hệ thống phân loại cho cảnh quan huyện Lắk. Mỗi dạng cảnh quan được đặc trưng bởi mối quan hệ giữa 1 tổ hợp đất và 1 tổ hợp thực vật, từ 91 loại cảnh quan phân hóa thành 124 dạng cảnh quan phân bố từ khu vực núi Chư Yang Sin đến vùng trũng hồ Lắk. 15 CHƢ ƠNG 3: ĐÁNH GIÁ CẢNH QUAN CHO MỤC ĐÍCH PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM NGHIỆP HUYỆN LẮK 3.1. ĐÁNH GIÁ CẢNH QUAN CHO MỤC ĐÍCH PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM NGHIỆP HUYỆN LẮK 3.1.1. Hệ thống tiêu chí và chỉ tiêu đánh giá Trên cơ sở các nguyên tắc lựa chọn chỉ tiêu đánh giá; dựa vào nhu cầu sinh thái của các ngành sản xuất nông, lâm nghiệp; căn cứ vào kết quả nghiên cứu đặc điểm (tiềm năng sinh thái) các đơn vị cảnh quan và xác định chức năng cảnh quan huyện Lắk, luận văn đã tiến hành lựa chọn hệ thống các tiêu chí và chỉ tiêu đánh giá cho các đối tượng sản xuất là ngành nông nghiệp và lâm nghiệp, bao gồm đặc điểm các yếu tố địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng, nước và sinh vật. Đây là những yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát sinh, phát triển của các loại hình sản xuất nông, lâm nghiệp; có sự phân hóa rõ rệt trong không gian lãnh thổ huyện Lắk từ vùng núi đến đồng bằng. Tuy nhiên chỉ tiêu cụ thể được xác định dựa trên nhu cầu sinh thái của các loại hình sản xuất (các dạng sử dụng) cụ thể. Bằng phương pháp so sánh nhu cầu sinh thái của các dạng sử dụng (chủ thể) với tiềm năng sinh thái của cảnh quan và lập ma trận tam giác, luận văn tiến hành lựa chọn trọng số cho từng tiêu chí đánh giá [22]. 3.1.2. Kết quả đánh giá Kết quả tổng hợp sau quá trình đánh giá như sau: Mục Mức độ thích Diện đích sử nghi Dạng cảnh quan tích (ha) dụng 1,2,3,4,5,6,7,8,9,10,11,14,16,25,26,27,40, 64.770 Rất thích hợp 47,49,56,108,111,112,113,114 Rừng 12,15,17,18,22,29,30,31,33,34,35,36,37,3 phòng Khá thích hợp 8,39,41,45,50,51,52,53,57,58,70,72,77,79, 21.740 hộ đầu 82,85,86,93,97,100 nguồn Kém thích 42,43,46,48,60,64,67,73,80,81,87,88,90,9 4.657 hợp 1,94,95,96,98 Rất thích hợp 22,47,48,70,79,82,86,87,90,91,93 3.812 8,9,10,11,14,16,25,26,27,29,30,31,35,36,3 Khá thích hợp 24.880 Rừng 9,40,56,57,80,81 sản xuất Kém thích 12,15,17,18,37,38,41,42,43,45,58 9.934 hợp 13,32,53,54,55,71,76,88,90,99,115,116,11 3.842 Rất thích hợp 8 Trồng 21,23,24,46,52,61,62,64,65,74,75,78,83,8 12.180 cây hàng Khá thích hợp 4,89,94,101,104,106,110,119,120,122 năm Kém thích 66,67,68,95,103,105 2.184 hợp Lúa Rất thích hợp 13,64,65,66,83,84,101,103,104,105,106,1 6.871 16 Tỷ lệ (%) 50,9 5 17,1 0 3,66 3,0 19,5 7 7,81 3,02 9,58 1,72 5,41 Mục đích sử dụng Mức độ thích nghi Khá thích hợp Kém thích hợp Dạng cảnh quan 22 46,54,55,61,62,68,71,76,78,89,94,99,110, 115,116,118,119,120 21,32,44,53,67,74,75 Diện tích (ha) Tỷ lệ (%) 6.937 5,46 3.078 2,42 3.1.3.1. Đối với ngành lâm nghiệp a) Mục đích phát triển rừng phòng hộ Luận văn tiến hành đánh giá 76 dạng cảnh quan có khả năng sử dụng cho mục đích phát triển rừng phòng hộ đầu nguồn. Trong đó 18 dạng cảnh quan được xếp vào hạng kém thích hợp, có điểm đánh giá thấp, đa số đạt điểm kém đối với các tiêu chí đưa ra, phân bố ở những vùng gò đồi thấp, độ dốc dưới 150, xa bồn tụ thủy, xa nguồn nước vì thế các dạng cảnh quan này nên sử dụng vào các mục đích khác. Còn lại 58 dạng cảnh quan được đánh giá ở mức độ thích hợp và rất thích hợp đối với mục đích phát triển rừng phòng hộ đầu nguồn, bảo vệ nguồn nước, chóng xói mòn, rửa trôi đất đai, bảo vệ môi trường. + Mức độ rất thích hợp (P1) gồm 25 dạng cảnh quan có diện tích 64.770 ha chiếm 50,95% diện tích tự nhiên của huyện, tập trung chủ yếu ở khu vực núi trung bình và núi thấp, phân bố ở phía đông của huyện, đầu nguồn các sông suối, địa hình có độ dốc lớn, mưa lớn tập trung. Hiện trạng lớp phủ là rừng tự nhiên ít bị tác động, hoặc rừng thứ sinh có mật độ che phủ cao. + Mức khá thích hợp (P2) gồm 33 dạng cảnh quan có diện tích 21.740 ha chiếm 17,1% diện tích tự nhiên toàn huyện, phân bố ở những khu vực có độ dốc tương đối lớn, sườn núi thấp có xói mòn, rửa trôi tương đối mạnh. Hiện trạng lớp phủ là các loại rừng thứ sinh, rừng trồng hoặc trảng cây bụi. b) Mục đích phát triển rừng sản xuất Luận văn tiến hành đánh giá 42 dạng cảnh quan có khả năng sử dụng cho mục đích phát triển rừng khai thác kinh doanh, trồng rừng, khoanh nuôi hoặc tu bổ để khai thác. + Có 11 dạng cảnh quan với diện tích 9.934 ha chiếm 7,81 % diện tích tự nhiên, xếp vào loại kém thích hợp (S3) đối với mục đích đánh giá. Đây là những cảnh quan ở địa hình có độ dốc lớn, vùng núi cao, khó khai thác. Những cảnh quan có điều kiện đất đai, độ ẩm không phù hợp sản xuất rừng. 17 + Mức rất thích hợp (S1) gồm 11 dạng cảnh quan có diện tích 3.812 ha chiếm 3,0% diện tích tự nhiên, là những cảnh quan phân bố ở khu vực địa hình có độ dốc từ 15-200, vùng chân núi thấp hoặc gò đồi, vận chuyển dễ dàng, thuận tiện cho việc khai thác, đất đai phù hợp cho trồng rừng hoặc tái sinh rừng sản xuất. Hiện trạng độ che phủ cao thuận lợi cho khai thác rừng. + Mức khá thích hợp (S2) gồm 20 dạng cảnh quan có diện tích 24.880 ha chiếm 19,57% diện tích tự nhiên, là những cảnh quan phân bố ở khu vực địa hình núi, đồi có độ dốc từ 20- 250, các điều kiện khai thác, trồng rừng, tu bổ rừng khá thuận lợi. Hiện trạng là rừng thứ sinh, trảng cây bụi có thể đưa vào sản xuất để khai thác trong tương lai. 3.1.3.2. Đối với ngành nông nghiệp a) Mục đích phát triển cây hàng năm Luận văn tiến hành đánh giá 42 dạng cảnh quan cho mục đích trồng tập đoàn cây hàng năm. + Có 6 dạng cảnh quan xếp vào loại kém thích hợp (H3), bao gồm các cảnh quan phân bố ở những khu vực chân núi, đất bị xói mòn, bạc màu, tầng mỏng có lẫn nhiều sỏi đá, khô. + Mức rất thích hợp (H1) gồm 13 dạng cảnh quan có diện tích 3.842 ha chiếm 3,02% diện tích tự nhiên, là những cảnh quan phân bố trên đất có tầng dày từ 30-50cm, ở vùng đồng bằng cao và thung lũng trên đất phù sa ngòi suối hoặc phù sa ven sông. + Mức khá thích hợp (H2) gồm 23 dạng cảnh quan có diện tích 12.180 ha chiếm 9,58% diện tích tự nhiên, là những cảnh quan phân bố ở những vùng núi thấp hoặc đồng bằng cao, đất tầng mỏng và bạc màu, đất hơi khô. b) Mục đích phát triển cây lúa Luận văn tiến hành đánh giá 37 dạng cảnh quan cho mục đích trồng lúa. + Có 7 dạng cảnh quan xếp vào loại kém thích hợp (L3), là những cảnh quan có điều kiện đất đai, địa hình và chế độ nước kém phù hợp để trồng lúa. Các cảnh quan này phân bố ở những đồng bằng cao hoặc thung lũng sông suối tuy nhiên đất tầng mỏng, bị xói mòn, bạc màu hoặc đất nặng, chặt bí hoặc đất chua, thường ngập úng. + Mức rất thích hợp (L1) gồm 12 dạng cảnh quan có diện tích 6.871 ha chiếm 5,41% diện tích tự nhiên, chủ yếu phân bố ở các khu vực trũng như Đắk Liêng, Buôn Tría, Buôn Triết, Đắk Phơi, Yang Tao. Đất phù sa, phù sa gley, đất dốc tụ. Tầng đất dày, chế độ nước phù hợp. Có thể trồng 2 vụ trong năm. + Mức khá thích hợp gồm 18 dạng cảnh quan có diện tích 6.937 ha chiếm 5,46% diện tích tự nhiên, gồm các cảnh quan phân bố ở núi thấp, đồng bằng cao trên đất xám bạc màu, 18 đất phù sa gley, chế độ nước khá thích hợp, đất trung tính hoặc ít chua. Hầu hết trồng 1 vụ lúa trong năm. 3.2. ĐỊNH HƯỚNG SỬ DỤNG KHÔNG GIAN LÃNH THỔ HUYỆN LẮK CHO PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM NGHIỆP Trên cơ sở kết quả phân tích, đánh giá cảnh quan, nghiên cứu những vấn đề về hiện trạng phát triển các ngành kinh tế nông, lâm nghiệp huyện Lắk và quy hoạch tổng thể kinh tếxã hội cũng như quy hoạch phát triển các ngành kinh tế huyện Lắk đến năm 2020, luận văn đã đề xuất một số hướng sử dụng hợp lý không gian lãnh thổ cho 2 loại hình sản xuất này như sau: Bảng 3.9. Bảng tổng hợp đề xuất hƣ ớng sử dụng các dạng cảnh quan Dạng cảnh quan Hiện trạng cảnh quan Chức năng Đề xuất hƣ ớng sử dụng 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 14, 15, 16, 22, 25, 26, 27, 30, 31, 33, 34, 35, 36, 37, 39, 40, 41, 45, 47, 48, 49, 50, 56, 60, 70, 72, 73, 82, 93, 97, 111, 112 Khu vực có rừng nguyên sinh và rừng thứ sinh Phòng hộ và bảo tồn đa dạng sinh học Bảo vệ, phát triển rừng phòng hộ 17, 29, 42, 51, 57, 113 Khu vực có rừng trồng Phục hồi tự nhiên và khai thác kinh tế Phát triển rừng sản xuất Trảng cỏ cây bụi Phục hồi tự Ưu tiên trồng rừng phát triển trên độ nhiên mới dốc 15-250 77, 79, 80, 85, 86, 87, 91, Khu vực có rừng Phục hồi tự Phát triển mô hình 96, 98, 100, 102, 107, 108, thứ sinh, trảng cây nhiên và khai nông – lâm kết hợp 109, 117, 121, 123, 124 bụi thác kinh tế 46, 53, 64, 67, 94, 95, Khu vực trồng cây Khai thác kinh Trồng cây lâu năm 103,110,115 hàng năm tế 13, 19, 21, 23, 28, 54, 59, Khu vực trồng cây 61, 63, 65, 68, 69, 71, 74, hằng năm, hoa màu Khai thác kinh Trồng cây hàng và cây trồng quanh tế 78, 83, 89, 92, 99, 104, năm 119 khu dân cư 20, 24, 32, 44, 55, 62, 66, Khu vực ưu tiên Khai thác kinh Trồng lúa 75, 76, 84, 101, 105, 106, trồng lúa nước tế 116, 118, 120, 122 - Theo chương trình 327 hội khoa học kỹ thuật lâm nghiệp Việt Nam về cây trồng vật 18, 38, 43, 52, 58, 81, 88, 90, 114 nuôi, đối với các khu vực có rừng nguyên sinh, rừng thứ sinh và rừng trồng cần có các biện pháp bảo vệ nhằm đảm bảo được chức năng phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái và tính đa dạng sinh học. Vì vây, các dạng cảnh quan này vẫn được giữ nguyên, không chuyển đổi sang các mục đích sử dụng khác. 19 - Đối với các khu phát triển thảm thực vật trảng cây bụi và trảng cỏ có thể để phát triển tự nhiên hoặc định hướng cho phát triển lâm nghiệp như trồng rừng cho mục đích phòng hộ và trồng rừng sản xuất. - Hiện nay, diện tích lúa, hoa màu và cây trồng quanh khu dân cư trên địa bàn huyện chủ yếu tập trung ở khu vực thung lũng và trũng giữa núi có độ dốc nhỏ hơn 80, đây là nguồn cung cấp lương thực và thực phẩm chính cho dân cư trong vùng nên để đảm bảo vấn đề an ninh lương thực, khu vực trồng lúa nước vẫn được giữ nguyên. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan