Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ văn bản thông cáo báo chí...

Tài liệu Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ văn bản thông cáo báo chí

.PDF
115
1402
54

Mô tả:

0 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA NGÔN NGỮ HỌC Nguyễn Thị Mai Phương NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ VĂN BẢN THÔNG CÁO BÁO CHÍ LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Hà Nội - 2009 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA NGÔN NGỮ HỌC LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ VĂN BẢN THÔNG CÁO BÁO CHÍ CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC MÃ SỐ: 60 22 01 GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS. TS. NGUYỄN HỮU ĐẠT HỌC VIÊN THỰC HIỆN: Hà Nội - 2009 NGUYỄN THỊ MAI PHƯƠNG 3 MỤC LỤC MỞ ĐẦU......................................................................................................................... 5 Chương 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ..................................................... 9 1.1. Vị trí của phong cách báo chí trong các phong cách chức năng....................... 9 1.2. Các đặc điểm cơ bản của phong cách báo chí................................................ 13 1.3. Tiêu chí phân loại văn bản báo chí................................................................ 14 1.4. Thông cáo báo chí ........................................................................................ 16 1.4.1. Các quan niệm về thông cáo báo chí ............................................... 16 1.4.2. Đặc điểm của văn bản thông cáo báo chí......................................... 21 1.4.3. Phân loại thông cáo báo chí............................................................. 25 1.5. Tiểu kết ........................................................................................................ 25 Chương 2 - ĐẶC ĐIỂM KẾT CẤU VĂN BẢN THÔNG CÁO BÁO CHÍ................ 27 2.1. Khảo sát các kiểu cấu trúc trong văn bản TCBC ........................................... 27 2.1.1. Về dữ liệu khảo sát ......................................................................... 27 2.1.2. Phân loại các kiểu cấu trúc trong văn bản TCBC............................. 28 2.1.3. Kết quả khảo sát.............................................................................. 33 2.1.4. Nhận xét ......................................................................................... 34 2.2. Khảo sát cấu trúc tiêu đề TCBC.................................................................... 49 2.2.1. Chức năng và tính chất của tiêu đề TCBC....................................... 49 2.2.2. Tư liệu khảo sát............................................................................... 51 2.2.3. Kết quả khảo sát.............................................................................. 54 2.2.4. Nhận xét ......................................................................................... 55 2.3. Kết cấu văn bản TCBC ................................................................................. 61 2.3.1. Khái niệm và phân loại kết cấu văn bản .......................................... 61 2.3.2. Khuôn hình của văn bản TCBC....................................................... 62 2.3.3. Các thành tố trong kết cấu văn bản TCBC....................................... 68 2.4. Tiểu kết ........................................................................................................ 74 4 Chương 3 - ĐẶC ĐIỂM VỀ CÁCH SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TRONG VĂN BẢN THÔNG CÁO BÁO CHÍ ............................................................................................. 76 3.1. Sử dụng trích dẫn trong văn bản TCBC ........................................................ 76 3.1.1. Định nghĩa về trích dẫn ................................................................... 76 3.1.2. Phân loại trích dẫn .......................................................................... 76 3.1.3. Khảo sát trích dẫn ........................................................................... 82 3.2. Sử dụng số liệu trong văn bản TCBC............................................................ 93 3.2.1. Độ chính xác của số liệu ................................................................. 94 3.2.2. Hình thức thể hiện số liệu ............................................................... 95 3.3. Sự chuyển hóa và so sánh giữa văn bản TCBC và văn bản báo chí ............... 99 3.3.1. Quá trình chuyển hóa ...................................................................... 99 3.3.2. So sánh TCBC với các thể loại cùng phong cách........................... 100 3.4. Tiểu kết............................................................................................ 107 KẾT LUẬN................................................................................................................. 108 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................... 111 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Thông cáo báo chí (TCBC) là một loại hình văn bản mới xuất hiện ở Việt Nam trong thời gian gần đây. Với sự phát triển của ngành truyền thông đại chúng, TCBC là phương tiện hữu hiệu, giúp các cơ quan, tổ chức công bố thông tin trước công chúng một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Trong thực tế, TCBC đã ngày càng trở thành một công cụ không thể thiếu cho các bộ, ngành, các cơ quan nhà nước, các tổ chức và doanh nghiệp khi cần công bố các thông tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng. 1.2. Trong bối cảnh đó, TCBC trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khác nhau như Báo chí, Truyền thông Đại chúng, Quan hệ Công chúng,… Hầu hết các công trình nghiên cứu về quan hệ công chúng hoặc truyền thông đều nhắc đến TCBC như là “phương tiện cơ bản nhất để tiếp cận giới truyền thông” [26], “là điểm mấu chốt trong hoạt động báo chí của chính phủ để nói về một câu chuyện, thông báo một sự kiện và cung cấp những con số” [69]. Tuy nhiên, từ góc độ ngôn ngữ học, chúng tôi chưa tìm thấy công trình nào chuyên sâu nghiên cứu loại hình văn bản này. Đề tài “Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ văn bản thông cáo báo chí” từ góc độ phong cách học là một hướng mới trong cách tiếp cận loại hình văn bản này. 1.3. Chỉ trong quá trình hoạt động lời nói mới diễn ra sự lựa chọn có mục đích đối với các phương tiện ngôn ngữ. Chính từ những cách lựa chọn khác nhau đó đã dần hình thành nên những phong cách khác nhau. Đến lượt mình, phong cách lại có tác dụng chi phối việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ. “Phong cách chức năng chính là những khuôn mẫu trong hoạt động lời nói hình thành từ những thói quen sử dụng ngôn ngữ có tính chất truyền thống, tính chất chuẩn mực, trong việc xây dựng các lớp văn bản tiêu biểu” [23; 306]. Với đề tài này, chúng tôi đã khảo sát 6 từ thực tế các văn bản thông cáo báo chí bằng tiếng Việt, từ đó cố gắng đi tìm một khuôn mẫu có tính chất chuẩn mực đối với thể loại văn bản còn rất mới mẻ này. 2. Ý nghĩa của luận văn Về mặt lý luận, những kết quả nghiên cứu về các đặc điểm ngôn ngữ văn bản TCBC sẽ giúp củng cố lý thuyết về khuôn hình văn bản. Đây đồng thời cũng là cơ sở cho việc xây dựng lý luận về phong cách chức năng ở bình diện các thể loại. Về mặt thực tiễn, những kết quả nghiên cứu về TCBC, vốn là thể loại văn bản mới được hình thành gần đây sẽ cung cấp cho những người làm truyền thông và quan hệ công chúng các kỹ năng để soạn thảo một TCBC có hiệu quả. Như vậy, ngoài ý nghĩa về mặt lý luận, đề tài còn mang tính ứng dụng cho ngành truyền thông – quan hệ công chúng mới mẻ ở Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu Luận văn có mục đích tìm hiểu các đặc điểm ngôn ngữ quan trọng của TCBC và vai trò của chúng trong việc tạo nên chất lượng của văn bản. 4. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn có nhiệm vụ: (1) Tìm hiểu các mô hình cấu trúc văn bản TCBC phổ dụng nhất. (2) Tìm hiểu đặc trưng trong cách sử dụng ngôn ngữ của văn bản TCBC. (3) Nhận xét về sự thay đổi của các yếu tố ngôn ngữ trong quá trình chuyển hóa một văn bản TCBC sang một tác phẩm báo chí. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn bao gồm hơn 550 văn bản TCBC từ nhiều nguồn khác nhau. Đây là các TCBC bằng tiếng Việt phát hành trong 5 năm trở lại 7 đây (từ năm 2003 đến năm 2008). Sở dĩ chúng tôi chọn mốc năm 2003 vì đây là giai đoạn bắt đầu hình thành thể loại TCBC tại Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là: phương pháp phân tích phong cách học, phương pháp miêu tả. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh và phương pháp thống kê. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm ba chương như sau: Chương 1 - Những vấn đề lý luận chung Trong chương 1, chúng tôi sẽ tìm hiểu các vấn đề lý luận cơ bản tạo cơ sở và khung lý thuyết cho sự phân tích ở các chương tiếp theo. Đó là việc xác định vị trí của phong cách báo chí trong hệ thống các phong cách chức năng, đặc điểm cơ bản của phong cách báo chí, tìm hiểu khái niệm về thông cáo báo chí và các đặc điểm chung của văn bản này. Chương 2 - Đặc điểm kết cấu văn bản TCBC Trong chương 2, chúng tôi sẽ khảo sát và miêu tả đặc điểm cấu trúc của văn bản TCBC, đặc điểm của tiêu đề TCBC và tìm hiểu kết cấu của văn bản TCBC có tính chất phổ dụng. Chương 3 - Đặc điểm về cách sử dụng ngôn ngữ của văn bản TCBC Ở chương 3, chúng tôi tập trung khảo sát và miêu tả các đặc trưng trong cách sử dụng ngôn ngữ của văn bản TCBC. Ngoài ra, chúng tôi tìm hiểu sự thay đổi của các yếu tố ngôn ngữ trong quá trình chuyển hóa một văn bản TCBC sang một tác phẩm báo chí. Sau cùng là Tài liệu tham khảo. 8 7. Triển vọng ứng dụng kết quả nghiên cứu Thông qua luận văn này, chúng tôi hy vọng: - Cung cấp thêm cứ liệu nghiên cứu, giảng dạy, học tập cho các sinh viên chuyên ngành ngôn ngữ, báo chí, truyền thông. - Hỗ trợ thêm khía cạnh lý luận cho những nhà thực hành viết thông báo cáo chí và những người làm công tác truyền thông nói chung, nhất là ở Việt Nam. Cuối cùng, do đây còn là chủ đề mới mẻ, lại bị hạn chế bởi thời gian và điều kiện làm việc nên luận văn chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý để có thể hoàn thiện hơn công trình này. 9 Chương 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG Trong chương này, chúng tôi sẽ tập trung trình bày những vấn đề lý luận cơ bản để tạo cơ sở và khung lý thuyết cho sự phân tích ở các chương tiếp theo. 1.1. Vị trí của phong cách báo chí trong các phong cách chức năng Muốn hiểu được vị trí của phong cách báo chí trong hệ thống các phong cách chức năng của một ngôn ngữ, trước hết, cần xem xét cách phân chia các phong cách chức năng của các nhà phong cách học. Cho đến nay, đã có nhiều công trình bàn về vấn đề này, nhìn chung có hai loại quan điểm: i) Quan điểm coi báo chí là một loại hình văn bản nằm trong phong cách báo chí - chính luận. ii) Quan điểm coi báo chí là một phong cách chức năng độc lập với tên gọi là phong cách báo chí. Để hiểu rõ về vấn đề này, chúng tôi sẽ điểm qua một vài quan niệm của những nhà phong cách học dưới đây. Trong “Phong cách học Tiếng Việt hiện đại”, PGS. TS. Hữu Đạt khẳng định: “Mỗi phát ngôn đều phải gắn với một phong cách chức năng nhất định. Trên thực tế, không có lời nói nào lại nằm ngoài các phong cách chức năng vì nếu nằm ngoài các phong cách chức năng, lời nói đó không có giá trị giao tiếp hay còn gọi là không có mục đích và định hướng giao tiếp cụ thể [16; 65]. Có ba cơ sở để tiến hành việc phân chia các phong cách chức năng, đó là: - Dựa trên chức năng giao tiếp - Dựa trên hình thức thể hiện - Dựa vào phạm vi giao tiếp Từ đó, chúng ta có phương pháp phân chia các phong cách chức năng theo quan điểm về hoạt động giao tiếp. Muốn phân tích đặc điểm ngôn ngữ của mỗi lời 10 nói ra xem nó thuộc phong cách chức năng nào thì cần phải đặt lời nói ấy trong những quan hệ và hoàn cảnh giao tiếp nhất định. Quy trình giao tiếp được mô tả như sau [16;65]: Hướng giao tiếp Người nói A -----------------Viết ------------------> Lời nói ra <------------------ Người nghe B ------------Đọc Hướng phản hồi Tác giả của công trình [16] cũng đã nêu rõ quy trình giao tiếp khép kín và phân tích mối quan hệ giữa người nói/viết A và người nghe/đọc B có tác động như thế nào đến giao tiếp. Theo đó: - Nếu A và B có quan hệ ngang bằng, không bị ràng buộc bởi địa vị xã hội thì “lời nói ra” thường thuộc các phong cách chức năng: Phong cách khoa học, phong cách báo chí, phong cách văn học – nghệ thuật và phong cách khẩu ngữ. - Nếu A chi phối B thì “lời nói ra” thường thuộc cách phong cách hành chính công vụ với các hình thức cụ thể là Chỉ thị, Mệnh lệnh, Quyết định, Quyết nghị, Điều lệnh, Nhật lệnh,… - Nếu A phụ thuộc B thì “lời nói ra” thường thuộc phong cách hành chính công vụ với các hình thức cụ thể là Đơn xin, Đơn đề nghị, Đơn khiếu nại,… - Nếu A và B nằm trong mối quan hệ sáng tạo và tiếp nhận, ta có phong cách văn học nghệ thuật. - Nếu A và B nằm trong mối quan hệ truyền tin và tác động, trong đó A là người cung cấp thông tin, là người tác động và thuyết phục, còn B là người nhận tin và chịu sự tác động thuyết phục thì “lời nói ra” thường có phong cách báo chí – chính luận. Căn cứ vào quan hệ (A và B) và hoàn cảnh giao tiếp (trực tiếp hoặc gián tiếp), tác giả Hữu Đạt đề xuất bảng phân loại các phong cách chức năng: 11 Bảng 1: Phân loại phong cách chức năng theo quan điểm của Hữu Đạt (Dẫn theo “Phong cách học tiếng Việt hiện đại” [16;72]) Theo sơ đồ trên, chúng ta thấy phong cách báo chí là một trong 6 phong cách chức năng của tiếng Việt. Nó có vị trí rất quan trọng trong hoạt động trao đổi thông tin của xã hội. Ở phong cách này không có sự đối lập giữa nói và viết. Tuy nhiên, phong cách báo chí được nghiên cứu ở đây chủ yếu có hình thức thể hiện là ngôn ngữ viết. Một quan điểm phổ biến khác về việc phân chia các phong cách chức năng thường được trích dẫn là quan điểm của Morohovski (1984) với bảng phân loại như sau [3;89]: Bảng 2: Phân loại phong cách chức năng theo quan điểm của Morohovski 12 (Dẫn theo “Văn bản và liên kết trong tiếng việt” [3;89]) Ưu điểm của bảng phân loại này là sự phân chia tương đối tỉ mỉ và bao quát được hầu hết các kiểu loại và thể loại văn bản. Tuy nhiên, tính ứng dụng của lối tiếp cận này không cao do bản chất phức tạp, nhiều tầng nấc, ngóc ngách của nó. Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn cách tiếp cận đơn giản và hiệu quả hơn: đó là cách tiếp cận của tác giả Hữu Đạt như đã nêu ở trên. 13 Như vậy, trong ngôn ngữ, thuộc về bình diện lời nói, chúng ta có các kiểu văn bản, các thể loại văn bản và các phong cách của văn bản riêng lẻ. Nếu các kiểu văn bản phân biệt trên cơ sở khác biệt về nội dung sự vật – logic (như văn bản hành chính, văn bản văn học nghệ thuật, văn bản báo chí) thì các thể loại văn bản lại được chia ra dựa trên sự khác biệt về kết cấu, về tu từ (như kiểu văn bản báo chí có các thể loại tin, phóng sự, tường thuật…). 1.2. Các đặc điểm cơ bản của phong cách báo chí Trong “Phong cách học Tiếng Việt hiện đại”, tác giả Hữu Đạt khẳng định nếu quan hệ giữa nguồn và đích nằm trong mối quan hệ truyền tin và tác động, trong đó nguồn là người cung cấp thông tin, là người tác động và thuyết phục, còn đích đến là người nhận tin và chịu sự tác động thuyết phục thì “lời nói ra” thường có phong cách báo chí - chính luận [16]. Trước đây, phong cách báo chí - chính luận được xem là một phong cách chức năng, về sau, các công trình nghiên cứu phong cách học chỉ ra rằng phong cách báo chí là một phong cách chức năng khác, độc lập với phong cách chính luận. Tác giả Hữu Đạt cũng cho rằng “Phong cách báo chí là một phong cách chức năng, được sử dụng hàng ngày trên các báo, tạp chí ấn hành từ trung ương xuống địa phương”. GS. Nguyễn Đức Dân khi đề cập đến những đặc điểm của báo chí cho rằng “Báo chí cung cấp thông tin… Do vậy, các bài tin (the news story) – các bài phản ánh – chiếm vai trò trung tâm.” [12;21]. Tác giả chỉ ra ba đặc điểm chính của báo chí là: tính thời sự, tính trung thực, tính hấp dẫn. Những đặc điểm này quy định cách viết của báo chí “Ngắn gọn thì hay” (Short is beautiful), “càng ngắn gọn, càng súc tích càng hay” (Shorter is even better) [12;30]. Điều này là do: - Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ sự kiện, thứ ngôn ngữ khách quan về những hoạt động, những gì đang xảy ra đúng như hiện thực khách quan. 14 - Phong cách ngôn ngữ báo chí là phong cách thiên về cách viết trực tiếp. So với ngôn ngữ thường, ngôn ngữ báo chí nhiều động từ hơn, ít tính từ hơn và câu cũng ngắn hơn. Tác giả Nguyễn Đức Dân cho rằng “Văn bản báo chí thuộc một thể loại phong cách riêng: phong cách ngôn ngữ truyền thông đại chúng.” [12;32]. Mặc dù tác giả không nêu bảng phân loại đầy đủ về các phong cách chức năng để chỉ rõ “phong cách ngôn ngữ truyền thông đại chúng” có phải là một phong cách chức năng lớn hay không nhưng theo chúng tôi, vấn đề ở đây chỉ là tên gọi. Nội hàm khái niệm “phong cách ngôn ngữ truyền thông đại chúng” của tác giả Nguyễn Đức Dân [12] cũng trùng với khái niệm “phong cách báo chí” như các tác giả Diệp Quang Ban [3], Hữu Đạt [16]. 1.3. Tiêu chí phân loại văn bản báo chí Vấn đề phân loại văn bản báo chí hay còn gọi là phân chia thể loại báo chí hiện còn nhiều tranh luận. “Từ điển tiếng Việt” định nghĩa thể loại là “khuôn khổ, lối viết và hình thức viết” [41]. Trong chương I “Những quy định chung”, điều 1 “Giải thích từ ngữ” của Nghị định 51/2002/NĐCP ban hành ngày 26/04/2002 nói “tác phẩm báo chí là tên gọi chung cho tất cả các thể loại tin, bài, ảnh… đã được đăng, phát trên báo chí” [4]. Ở công trình “Các thể loại báo chí thông tấn”, tác giả Đinh Văn Hường cho rằng: “Thể loại là hình thức biểu hiện cơ bản, thống nhất và tương đối ổn định của các tác phẩm, được phân chia theo phương thức phản ánh hiện thực, sử dụng ngôn ngữ và các công cụ khác để chuyển tải nội dung sự kiện, vấn đề, con người mang tính tư tưởng, thẩm mỹ và ý đồ nhất định của người thể hiện…” [31;11]. Từ những ý kiến trên, chúng tôi cho rằng “thể loại báo chí” là khái niệm dùng để chỉ hình thức biểu hiện có tính đặc trưng của tác phẩm báo chí. Đó là các 15 thể loại xã luận, bình luận, phỏng vấn, ghi nhanh, tường thuật, tin, phóng sự, điều tra… được sử dụng phổ biến, rộng rãi trên các loại hình báo chí hiện nay”. Tác giả Đinh Văn Hường [31] đưa ra năm tiêu chí chung để nhận diện thể loại báo chí như sau: Thứ nhất là khả năng nắm bắt hiện thực đời sống xã hội (chọn sự kiện, vấn đề, nhân vật nào… để phản ánh, hay nói cách khác phản ánh cái gì trong thời điểm đó). Thứ hai là mức độ phản ánh, phân tích, lý giải vấn đề của người viết. Thứ ba là năng lực trình bày, triển khai tác phẩm về vấn đề mà người viết lựa chọn. Thứ tư là mức độ ảnh hưởng và tác động của tác phẩm đối với công chúng, đối với xã hội trong thời điểm đó hoặc lâu dài, hay còn gọi là hiệu quả tác động. Thứ năm là tác phẩm đó có tên gọi cụ thể, có tính lý luận, khoa học, có tiêu chí, được thực tiễn kiểm nghiệm và tồn tại ổn định trong đời sống thực tiễn báo chí. Trong giới nghiên cứu báo chí ở Việt Nam, hiện có nhiều quan điểm phân chia các thể loại báo chí khác nhau. Chúng tôi chấp nhận cách phân chia thể loại trong công trình “Các thể loại báo chí thông tấn” [31]. Theo đó, tác giả này cho rằng hệ thống thế loại báo chí gồm ba nhóm: i) Nhóm các thể loại báo chí thông tấn gồm tin, phỏng vấn, tường thuật… có thế mạnh để phản ánh, thông báo kịp thời, nhanh chóng các sự kiện, vấn đề vừa xảy ra, đang xảy ra hoặc sắp xảy ra trong cuộc sống hằng ngày. Các hiện tượng, quá trình, sự kiện hay nhân vật được phản ánh trong các thể loại này thường đơn lẻ, độc lập hoặc tập hợp một số sự kiện tiêu biểu cho cái mới, cái thật, cập nhật của xã hội. Thông tin sự kiện có yếu tố bình luận mức độ là tính trội của nhóm các thể loại báo chí thông tấn. ii) Nhóm các thể loại báo chí chính luận gồm xã luận, bình luận, chuyên luận, điều tra, bài phê bình,… với chất trí tuệ, tư duy, lý luận, lý lẽ, hùng biện trong tác phẩm. Tính trội của nhóm các thể loại báo chí chính luận là thông tin lý lẽ. 16 iii) Nhóm các thể loại báo chí chính luận – nghệ thuật gồm phóng sự báo chí, ký báo chí, tiểu phẩm báo chí, câu chuyện báo chí, ghi nhanh,… là những thể loại kết hợp yếu tố chính luận của báo chí (tư liệu, số liệu, sự kiện, nhân vật có thật, chất lý luận, hùng biện…) với các yếu tố của văn học nghệ thuật (ngôn ngữ, hình ảnh, cảm xúc, thái độ,…) để thể hiện tác phẩm sinh động, sâu sắc, mềm mại và hấp dẫn đối với công chúng. Thông tin sự kiện, lý lẽ và thẩm mỹ là tính trội của nhóm thể loại này. Tất nhiên, kết quả phân chia này cũng chỉ mang tính tương đối. Xu hướng chung của thể loại báo chí hiện nay là sự đan xen, hòa quyện và chuyển hóa giữa các nhóm và các thể loại. Tuy nhiên, quá trình này diễn ra có mức độ, do vậy không làm mất đi hoặc thay đổi bản chất của từng thể loại. Việc xem xét đặc điểm phong cách chức năng báo chí và phân loại thể loại báo chí chính là cơ sở để chúng tôi xem xét sự tương quan giữa phong cách văn bản thông cáo báo chí với phong cách của từng thể loại của báo chí. 1.4. Thông cáo báo chí 1.4.1. Các quan niệm về thông cáo báo chí Thông cáo báo chí (thuật ngữ tiếng Anh là News Release/ Media Release/ Press Release/ Press Statement) là một khái niệm mới, gắn với lĩnh vực truyền thông, được hình thành ở Việt Nam trong một vài năm gần đây. Do sự mới mẻ của nó, “thông cáo báo chí” chưa có tên trong các cuốn sách tiếng Việt nghiên cứu về thuật ngữ chuyên ngành báo chí, truyền thông. Công trình “Thuật ngữ Báo chí – Truyền thông” của tác giả Phạm Thành Hưng [30] có nhắc đến một số khái niệm có liên quan như “bản tin thông báo”, “người phát ngôn”, “quan hệ công chúng”,… nhưng không đề cập đến thuật ngữ này. Chúng tôi cũng không tìm thấy một thuật ngữ khác tương đương để chỉ đối tượng là “các văn bản được gửi đến các cơ quan truyền thông nhằm mục đích công bố một thông tin nào đó” ở cuốn sách này. 17 Hiện nay, có hai cách hiểu phổ biến về thông cáo báo chí: Cách hiểu hẹp: Cho rằng chỉ các cơ quan nhà nước, các tổ chức quốc tế mới được quyền phát hành thông cáo báo chí. Trong “Từ điển Tiếng Việt”, “thông cáo” được định nghĩa là “văn bản, thường là của tổ chức, cơ quan nhà nước, báo cho mọi người biết tình hình, sự việc có một tầm quan trọng nhất định nào đó” [41]. TCBC, theo cách hiểu chiết tự này, có thể xem là dạng văn bản, thường là của tổ chức, cơ quan nhà nước, báo cho các cơ quan báo chí biết tình hình, sự việc có một tầm quan trọng nhất định nào đó. Từ điển này cũng không nêu cụm từ mở rộng “Thông cáo báo chí”. Trước đây, chỉ văn bản của các cơ quan nhà nước, các tổ chức lớn gửi đến các cơ quan truyền thông mới được xem là thông cáo báo chí. Với cách hiểu này, TCBC là dạng văn bản của các cơ quan nhà nước, các tổ chức quốc tế có vai trò quan trọng với xã hội gửi đến giới truyền thông nhằm công bố các thông tin liên quan đến toàn xã hội. Cách hiểu rộng: Cho rằng mọi tổ chức chịu trách nhiệm trước pháp luật về các thông tin tổ chức đó cung cấp đều có thể phát hành thông cáo báo chí. Với cách hiểu này, thông cáo báo chí cũng được các tổ chức nhỏ hơn (về mặt hành chính) sử dụng như một công cụ hiệu quả để truyền thông. Đó là các dạng thông cáo báo chí do các tổ chức như doanh nghiệp, các hiệp hội,… phát hành. Ví dụ công ty Sữa Việt Nam Vinamilk phát hành TCBC “Về việc khẳng định uy tín thương hiệu Dielac” ngày 14/03/2007 sau sự cố hạt chống ẩm và mạt sắt nghi ngờ có thể bị lẫn trong thành phẩm sữa bột Dielac của công ty này. Trong luận văn, chúng tôi chấp nhận cách hiểu rộng hơn về thông cáo báo chí. Cách hiểu này sẽ giúp chúng tôi có sự so sánh đối chiếu trong quá trình phân tích và xử lý tư liệu TCBC của các cơ quan/tổ chức khác nhau. Trên thực tế, nhiều bộ, ngành, tổ chức ở Việt Nam đã sử dụng rộng rãi công cụ này. Tuy nhiên, ở Việt Nam, chỉ các công trình về Quan hệ Công chúng (Public 18 Relations) mới có định nghĩa về TCBC [25] [32]. Điều này chứng tỏ thể loại văn bản này chưa được chú ý đúng mức. Các định nghĩa về TCBC thể hiện các quan điểm của từng tác giả, trường phái đối với loại hình văn bản này. Định nghĩa trên Từ điển Wordnet của Đại học Princeton (Mỹ) nhấn mạnh tính văn bản hóa của TCBC: “Thông cáo báo chí là thông báo gửi tới báo chí nhằm bổ sung hoặc thay thế ngôn ngữ nói” [55]. Định nghĩa của trang dictionary.com đề cập đến tính chính thống của chủ thể: “Thông cáo báo chí là thông báo do cơ quan như chính phủ hoặc tổ chức PR (quan hệ công chúng) soạn thảo và gửi đến báo chí” [56]. Nhấn mạnh tính thời sự của TCBC, TS. Đinh Thị Thúy Hằng trong cuốn “PR – Lý luận và ứng dụng” định nghĩa: “Thông cáo báo chí là một trong những công cụ thiết yếu để thu hút báo chí đưa tin nhằm thông tin chính sách, sáng kiến hay hoạt động của ngành đến với công chúng. Thông cáo báo chí thường được gắn với các sự kiện hoặc vấn đề hiện tại.” [25; 253] Từ góc độ doanh nghiệp, Tash Hughes, nhà truyền thông có tiếng của Australia, nêu: “TCBC giống như một bài báo ngắn được gửi đến các cơ quan báo chí nhằm gây sự chú ý” [57]. Theo Hughes, nếu mọi việc diễn ra thuận lợi thì toà soạn báo sẽ đăng tải một bài báo về nội dung được nêu trong TCBC đó. Như vậy định nghĩa của Tash Hughes tập trung vào phần “ích lợi”, tức là mục đích của TCBC. Chính vì vậy bà khuyên người viết TCBC (mà theo bà nên là nhân viên PR của công ty) cố gắng tạo những điểm thu hút rộng rãi dư luận quan tâm, có như vậy báo chí mới hào hứng đăng tải và công ty cũng đạt mục đích về truyền thông. Marguerite H. Sullivan, tác giả của “Một văn phòng báo chí có trách nhiệm” nêu định nghĩa tương đối toàn diện: “Thông cáo báo chí là bản tóm tắt những sự thật về một chương trình hay một vấn đề mà bạn muốn giới truyền thông quan tâm. Chúng được viết theo một mẫu chuẩn. Tiêu chí chính của một thông cáo báo chí là nó phải chứa tin” [69]. Định nghĩa của Sullivan đề cập đến một đặc điểm cốt tử của 19 văn bản TCBC mà luận văn sẽ đề cập ở mục 4.2. của chương này, đó là tính trung thực, độ chính xác cao bắt buộc của TCBC. Điều này cũng cho thấy sự khác biệt với cách nhìn của Tash Hughes nêu ở trên, bởi Tash Hughes chỉ hướng tới việc gây sự chú ý, quan tâm của độc giả (hàm ý có thể làm bóng bẩy TCBC mà không phải quá bận tâm việc tôn trọng sự thật). Trong khi đó, là nhà báo chuyên viết về công nghệ thông tin, Tom Foremski thể hiện quan điểm trên tờ Silicon Valley Watcher số ngày 27/2/2006, như sau: “TCBC là bản thông báo về một sản phẩm, dịch vụ, lễ khai trương văn phòng, báo cáo tài chính, đối tác, khách hàng và hàng loạt những hoạt động thương mại khác” [58]. Foremski nhấn mạnh văn phong của TCBC cần phải “đi thẳng vào vấn đề”, tránh lối diễn đạt “vòng vo” (Faremski sử dụng thuật ngữ mới, đó là “spintastic” để chỉ trích những TCBC viết quá dài). Trong cuốn “Thông cáo báo chí: Hãy thực hành đúng” (Press Release: When Nothing Else Will Do, Do it Right) của G. A. Marken, tác giả cũng chỉ ra rằng để thông báo về một tổ chức, sản phẩm và cách ứng dụng, không có cách nào tốt hơn, rõ ràng hơn và thuyết phục hơn việc sử dụng thông cáo báo chí [25]. Ông cho rằng mục đích của thể loại này là thu hút sự quan tâm của truyền thông ở bất kỳ hình thức nào: in ấn, điện tử hay phát thanh, truyền hình. Định nghĩa này đã nhấn mạnh được vai trò và sức mạnh của TCBC trong xã hội hiện nay. Trên cơ sở tổng hợp các cách tiếp cận trên, chúng tôi tạm đưa ra định nghĩa: “Thông cáo báo chí là dạng văn bản của một tổ chức được gửi đến đại diện của các cơ quan truyền thông đại chúng (báo in, báo điện tử, đài phát thanh, đài truyền hình) với mục đích công bố một sự kiện nào đó có giá trị thông tin.” Theo đó, các văn bản được gọi là TCBC phải hội tụ đủ các điều kiện sau: - Về chủ thể phát: TCBC phải được phát hành bởi một cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân. Cơ quan, tổ chức này chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin trước pháp luật. Luật Báo chí Việt Nam, chương III về “Nhiệm vụ và quyền hạn của báo chí”, ở Điều 7 “Cung cấp thông tin cho báo chí” quy định: “Trong phạm vi 20 quyền hạn, nhiệm vụ của mình, các tổ chức có quyền và nghĩa vụ cung cấp thông tin cho báo chí, giúp cho báo chí thông tin chính xác, kịp thời và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin.” Như vậy, chủ thể phát có thể là các cơ quan chính phủ, các tổ chức nước ngoài hoặc là các doanh nghiệp. Một số ví dụ: - TCBC của các cơ quan nhà nước Việt Nam: + “Hội thảo nâng cao năng lực quản lý trang thiết bị y tế” – TCBC của Bộ Y tế ngày 30/7/2007. + Lễ công bố “Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2005” – TCBC của Bộ Tài nguyên Môi trường ngày 16/12/2005. - TCBC của các tổ chức nước ngoài tại Việt Nam: + “Chính phủ Việt Nam và Ủy ban châu Âu ký kết dự án hỗ trợ kỹ thuật liên quan tới thương mại trị giá 10 triệu euro” - TCBC của Ủy ban Châu Âu ngày 17/6/2008. + “Đại sứ quán Đan Mạch phát động cuộc thi sáng tác âm nhạc thể nghiệm 2006” – TCBC của Đại sứ quán Đan Mạch ngày 4/10/2006 - TCBC của các doanh nghiệp tại Việt Nam: + “Lễ ra mắt tập đoàn Tài chính – Bảo hiểm Bảo Việt” – TCBC của Tập đoàn Bảo Việt ngày 23/1/2008. + “VNPT và các đối tác thành lập mạng thanh toán điện tử VNPT EPAY – TCBC của công ty VNPT ngày 4/4/2008. - Về chủ thể nhận: TCBC phải được gửi đến các cơ quan truyền thông hợp pháp, được cấp phép và giấy phép hoạt động còn có giá trị. Thông thường, các tổ chức phát hành TCBC sẽ dựa trên tính chất thông tin trong TCBC để quyết định chủ thể nhận là những cơ quan truyền thông nào. Một số thông cáo báo chí được gửi đến tất cả những tòa soạn báo lớn nhất, ví dụ như TCBC của Bộ Giao thông Vận tải về sự cố sập cầu Cần Thơ vì tầm ảnh hưởng dư luận của nó là rất lớn. Tuy nhiên, cũng có những TCBC được gửi đến các tờ báo có
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan