Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Nghiên cứu thuật ngữ máy xây dựng tiếng việt ...

Tài liệu Nghiên cứu thuật ngữ máy xây dựng tiếng việt

.PDF
91
1046
104

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TIẾN DŨNG NGHIÊN CỨU THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG TIẾNG VIỆT Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số : 60 22 02 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Nguyễn Đức Tồn HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả luận văn Nguyễn Tiến Dũng Lêi c¶m ¬n Em xin bày tỏ lời biết ơn sâu sắc đối với GS .TS Nguyễn Đức Tồn đã nhiệt tình, tận tâm và chu đáo hướng dẫn em thực hiện luận văn này. Em cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, Phòng Quản lý đào tạo, Khoa Ngôn ngữ học - Học viện Khoa học Xã hội, Viện Ngôn ngữ học cùng các thầy cô giáo đã giúp đỡ em hoàn thành khóa học. Tác giả luận văn cũng xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và những người thân trong gia đình đã động viên, giúp đỡ trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Hà Nội, tháng 8 năm 2016 Tác giả Nguyễn Tiến Dũng MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN .. 6 1.1. Những vấn đề của thuật ngữ ..................................................................... 6 1.2. Một số cơ sở lí luận về thuật ngữ ............................................................... 9 1.3. Thuật ngữ máy xây dựng tiếng việt ........................................................... 24 Kết luận chương 1 ....................................................................................................... 26 Chương 2: ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG TIẾNG VIỆT ............................................................................................................... 28 2.1. Dẫn nhập ....................................................................................................... 28 2.2. Đặc điểm của thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là từ ................................ 30 2.3. Đặc điểm của thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là cụm từ ........................ 34 2.4. Nhận xét chung về đặc điểm mô hình cấu tạo thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt .............................................................................................................. 46 Kết luận chương 2 ....................................................................................................... 48 Chương 3: ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG TIẾNG VIỆT ............................................................................................................... 50 3.1. Con đường hình thành thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt .................................. 50 3.2. Đặc điểm định danh thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt ........................ 59 Kết luận chương 3 ....................................................................................................... 70 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 76 DANH MỤC VIẾT TẮT ĐHKHXH&NV Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ĐHQG Đại học Quốc gia H Hà Nội KHXH Khoa học xã hội LSHTT Luật sở hữu trí tuệ Nxb Nhà xuất bản THCN Trung học chuyên nghiệp TN Thuật ngữ MXD Máy xây dựng N Ngữ tố KS Kỹ sư BK Bách khoa Tr Trang DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Bảng thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt xét theo cấu tạo 29 Bảng 2.2. Bảng thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt xét theo từ loại 29 Bảng 2.3. Bảng thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ đơn tiết xét theo nguồn gốc Bảng 2.4. Bảng thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ đơn tiết xét theo từ loại Bảng 2.5. Sơ đồ 3.1. 31 Bảng thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ đa tiết xét theo cấu tạo Bảng 2.6. 30 31 Bảng nguồn gốc ngữ tố của thuật ngữ máy xây dựng là từ đa tiết. 32 Con đường hình thành TN máy xây dựng tiếng Việt 58 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Máy móc dùng trong xây dựng đóng vai trò rất quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng công trình, đẩy nhanh tiến độ thi công, nâng cao năng suất, đem lại hiệu quả kinh tế và cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động. Không thể hiện đại hóa nền công nghiệp xây dựng nếu không quan tâm đầu tư về máy móc. Trong những năm gần đây, nước ta đã nhập khẩu và lắp ráp nhiều máy xây dựng, thiết bị chỉ để phục vụ cho các công trình xây dựng mà còn góp phần vào công cuộc hội nhập khoa học và kinh tế thế giới. Đồng thời với sự phát triển đó là việc xuất hiện những từ ngữ biểu thị những khái niệm, đối tượng trong ngành máy xây dựng, nhờ đó đã hình thành hệ thống thuật ngữ ngành máy xây dựng. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu các đặc điểm của thuật ngữ máy xây dựng là vô cùng cần thiết: Trước tiên là phục vụ thiết thực cho quá trình dạy, học ở các trường kỹ thuật và giúp cho cán bộ, kỹ sư, công nhân Việt Nam dễ dàng tiếp cận, sử dụng các thiết bị, máy xây dựng nhập ngoại, sau đó dựa vào hệ thống thuật ngữ này giúp các nhà sáng chế mở ra hướng nghiên cứu mới , chế tạo ra các máy xây dựng hiện đại, phục vụ cho nhu cầu sử dụng trong nước và tiến tới xuất ra thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, việc quan tâm nghiên cứu, đánh giá, chuẩn hóa hệ thống thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt trong giới Việt ngữ học cho đến nay vẫn còn bỏ ngỏ, chưa được quan tâm nghiên cứu, hầu như chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt nào đặt vấn đề tìm hiểu thuật ngữ máy xây dựng. Đây cũng chính là lý do khiến chúng tôi lựa chọn đề tài “ Nghiên cứu thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt” cho luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, vấn đề thuật ngữ khoa học tiếng Việt hầu như còn chưa được chú ý. Cho đến đầu thế kỷ XX, mới có thể thấy xuất hiện lẻ tẻ một số ít thuật ngữ tiếng Việt. Đặc biệt là trong hơn nửa thế kỉ qua, việc nghiên cứu thuật ngữ học đã phát triển mạnh mẽ. Sau một loạt hội thảo toàn 1 quốc về thuật ngữ được tổ chức vào những năm 70 của thế kỉ XX, một loạt công trình khoa học và luận án tiến sĩ đã và đang tiếp tục được thực hiện, đặc biệt từ những năm đầu thế kỉ XXI đến nay. Có thể nêu một số công trình lí luận thuật ngữ học:[22], [41], [58], [62], [82], [94], [95]… bàn về vấn đề xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt. Ngoài ra còn có một số luận án tiến sĩ nghiên cứu về vấn đề xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ trong một số lĩnh vực chuyên ngành [19], [25], [31], [56], 76], … Khi nghiên cứu về thuật ngữ ở Việt Nam, các nhà Việt ngữ học đã tập trung vào một số vấn đề chủ yếu sau đây: a) Xác định khái niệm thuật ngữ là gì; b) Các tiêu chuẩn cần thiết của thuật ngữ; c) Các phương thức đặt thuật ngữ; d) Việc vay mượn thuật ngữ nước ngoài nên như thế nào - phiên âm, chuyển tự hay giữ nguyên dạng…; e) Có nên chấp nhận hay không một số chữ cái ngoại lai: W, J, F, Z ; hay các tổ hợp phụ âm đầu: br, cr, fr, v.v...,; một số vần ngược như ab, ad, af, v.v... khi phiên thuật ngữ để cho thuật ngữ phiên gần với diện mạo quốc tế mà không quá xa lạ với tiếng Việt. Ở nước ngoài thuật ngữ cũng được quan tâm đặc biệt [35], [46], [47], [57], [59], [60], [71], [73]…Ngoài các công trình lí thuyết , còn có nhiều cuốn từ điển thuật ngữ đã được xuất bản, chẳng hạn: Từ điển xây dựng Nga -Việt (1989), Từ điển thuật ngữ xây dựng (1994), Từ điển bách khoa xây dựng (2010), Từ điển thuật ngữ…Tuy nhiên trong lĩnh vực máy xây dựng chưa có cuốn từ điển chuyên ngành nào, mà chỉ có một số tài liệu, giáo trình chuyên ngành máy xây dựng [115], [121], [122], [123], [124]. Từ đó có thể thấy được rằng thuật ngữ đã được nghiên cứu, trải rộng trên các lĩnh vực, đa dạng về quan điểm nghiên cứu, tuy nhiên vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên biệt về hệ thống thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt. Đó là lý do khiến chúng tôi chọn đề tài này. Và hướng nghiên cứu của chúng tôi là 2 chỉ ra đặc điểm về cấu tạo cũng như đặc điểm định danh của thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Thông qua việc khảo sát hệ thuật ngữ máy xây dựng, luận văn làm sáng tỏ đặc điểm về mặt cấu tạo, định danh của hệ thống thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt, từ đó đề xuất một số phương hướng mang tính kiến nghị với các cơ quan hữu quan để xây dựng và chuẩn hóa hệ thống thuật ngữ chuyên ngành máy xây dựng tiếng Việt, giúp cho việc sử dụng, nghiên cứu, giảng dạy và học tập các tài liệu thuộc chuyên ngành máy xây dựng. Để đạt được mục đích trên, luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể: - Hệ thống hóa các quan điểm lí luận về thuật ngữ khoa học trên thế giới và ở Việt Nam để xác lập cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu; - Miêu tả, phân tích các đặc điểm cấu tạo thuật ngữ máy xây dựng thông qua các tham tố về số lượng, nguồn gốc, phương thức cấu tạo và từ loại của của yếu tố cấu tạo và của thuật ngữ máy xây dựng; - Tìm hiểu đặc điểm định danh của thuật ngữ máy xây dựng; - Luận văn cũng so sánh với một số hệ thống thuật ngữ khác về đặc điểm cấu tạo, đặc điểm định danh nhằm làm nổi bật các đặc điểm của thuật ngữ máy xây dựng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt, tức là các thuật ngữ biểu đạt các khái niệm và các đối tượng chuyên môn được sử dụng ngành máy xây dựng. - Phạm vi nghiên cứu bao gồm các phương diện về cấu tạo và định danh của hệ thống thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt và vấn đề chuẩn hóa chúng. Phạm vi thu thập tư liệu gồm các cuốn từ điển về thuật ngữ kỹ thuật, bách khoa xây dựng đã xuất bản; các thuật ngữ trong các tài liệu, chương trình, giáo trình chuyên ngành máy xây dựng đang được sử dụng giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng kỹ thuật. 3 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: - Phương pháp miêu tả : Được sử dụng để miêu tả đặc điểm cấu tạo của từng thuật ngữ: mỗi thuật ngữ gồm có những thành tố nào tạo nên? Đặc điểm nguồn gốc và từ loại của các đơn vị cơ sở cấu tạo nên thuật ngữ? Các mô hình kết hợp cụ thể các thành tố để tạo nên thuật ngữ? Nhờ sử dụng phương pháp này có thể chỉ ra một cách cụ thể và đầy đủ đặc điểm của thuật ngữ máy xây dựng trong tiếng Việt về cấu tạo, định danh, những vấn đề còn tồn tại và cách chỉnh lý cũng như định hướng cấu tạo thuật ngữ mới. - Phương pháp phân tích thành tố trực tiếp : Được sử dụng để phân tích đặc điểm cấu tạo của một thuật ngữ máy xây dựng xét theo thành tố trực tiếp. Áp dụng phương pháp này, mỗi thuật ngữ được phân tích ra hai thành tố trực tiếp, sau đó nếu còn có thể thì mỗi thành tố trực tiếp này lại được phân đôi ra thành hai thành tố trực tiếp nhỏ hơn tạo nên... Nhờ vậy, có thể chỉ ra được thuật ngữ này được cấu tạo theo mô hình mấy bậc, mối quan hệ giữa các thành tố trực tiếp thuộc mỗi bậc cũng như mối quan hệ giữa các đại thành tố trực tiếp tạo nên thuật ngữ. - Thủ pháp thống kê, phân loại: Thủ pháp này được sử dụng để thu thập tư liệu từ các nguồn khác nhau, trên cơ sở đó, luận văn tiến hành hệ thống hóa, phân loại tư liệu và tính tỉ lệ các chỉ số về đặc điểm cấu tạo, đặc trưng và mô hình định danh thuật ngữ máy xây dựng. - Thủ pháp mô hình hoá: Thủ pháp này được sử dụng trong chương 2, chương 3 của luận văn. Nhờ sử dụng thủ pháp này, luận văn sẽ tạo được các mô hình cụ thể, rõ nét, đầy đủ đặc điểm của thuật ngữ máy xây dựng về cấu tạo, định danh, và những định hướng tạo thuật ngữ này. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về lí luận: Với việc làm rõ đặc điểm cấu tạo và đặc trưng định danh của thuật ngữ máy xây dựng, luận văn cung cấp cơ sở khoa học khách quan cho việc xây dựng mới và chuẩn hóa hệ thuật ngữ máy xây dựng. Đồng thời luận văn góp phần làm phong phú thêm hệ thống lí luận về Thuật ngữ học tiếng Việt. 4 - Về thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu sẽ giúp ích rất nhiều cho sự xây dựng và phát triển thuật ngữ máy xây dựng chưa có trong tiếng Việt, đồng thời là cơ sở biên soạn từ điển thuật kỹ thuật nói chung và thuật ngữ máy xây dựng nói riêng, phục vụ hữu ích cho việc viết chương trình khung, giáo trình giảng dạy và tài liệu học tập của sinh viên các trường nghề trong ngành xây dựng. Xa hơn nữa, kết quả nghiên cứu còn hữu ích cho các nhà sáng chế Việt Nam trong lĩnh vực chế tạo ra những máy xây dựng hiện đại hơn. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận Chương 2. Đặc điểm cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt Chương 3. Đặc điểm định danh của thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN Chương này, tập trung vào trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu một số vấn đề liên quan, bao gồm: tình hình nghiên cứu thuật ngữ nói chung, thuật ngữ máy xây dựng nói riêng; nêu một số vấn đề lí thuyết quan trọng về thuật ngữ và một số vấn đề liên quan đến thuật ngữ máy xây dựng để làm tiền đề lí luận cho việc nghiên cứu của luận văn. 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA THUẬT NGỮ Hiện nay, không chỉ trên thế giới mà còn ở Việt Nam, vấn đề thuật ngữ luôn được các nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa về thuật ngữ được tất cả mọi người đều thống nhất thừa nhận. Sở dĩ có nhiều định nghĩa thuật ngữ khác nhau là do cách nhìn của các nhà nghiên cứu có những sự khác nhau. Có tác giả cho rằng thuật ngữ xác định khái niệm, nhưng có tác giả lại cho rằng thuật ngữ không chỉ xác định khái niệm và còn biểu hiện khái niệm. D.S. Lotte cho rằng, về bản chất thuật ngữ là những từ đặc biệt [57]. Còn G.O.Vinokur thì lại phủ nhận điều đó. Ông khẳng định rằng, thuật ngữ không phải là từ đặc biệt, mà chỉ là từ có chức năng đặc biệt, bất cứ từ nào cũng có cấu tạo để có vai trò là một thuật ngữ [103]. O.S. Akhmanova lại định nghĩa : “ Thuật ngữ là từ hoặc cụm từ của ngôn ngữ chuyên môn ( ngôn ngữ khoa học, ngôn ngữ kỹ thuật, v.v.) được sáng tạo ra ( được tiếp nhận, được vay mượn, v.v.) để biểu hiện chính xác các khái niệm chuyên môn và biểu thị các đối tượng chuyên môn” [ dẫn theo 94, tr.3]. A.S. Gerd thì định nghĩa: “ Thuật ngữ là một đơn vị từ vựng – ngữ nghĩa có chức năng định nghĩa và được khu biệt một cách nghiêm ngặt bởi các đặc trưng như tính hệ thống, tính đơn nghĩa; ở thuật ngữ không có hiện tượng đồng nghĩa hay đồng âm trong phạm vi của một khoa học hoặc một lĩnh vực tri thức cụ thể ”[ dẫn theo 76, tr.19]. Các nhà ngôn ngữ Việt Nam đồng tình với định nghĩa thuật ngữ gắn với khái niệm như: Nguyễn Văn Tu [97, tr. 176], [98, tr. 114 ]; Lưu Vân Lăng; Nguyễn Như 6 Ý[52, tr. 44]; Đỗ Hữu Châu [8, tr. 241]; Hoàng Văn Hành [23, tr. 26]; Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang, Vương Toàn [68, tr. 64]; Nguyễn Thiện Giáp[17, tr. 270]… Theo các nhà nghiên cứu này, “Thuật ngữ là bộ phận từ ngữ đặc biệt của ngôn ngữ. Nó bao gồm những từ và cụm từ cố định là tên gọi chính xác của các loại khái niệm và các đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn của con người. Ví dụ các thuật ngữ: đạo hàm, tích phân, vi phân… trong toán học; tư bản, tích lũy, giá trị thặng dư… trong kinh tế học; bộ tộc, bộ lạc, huyết thống… trong sử học; âm vị, âm tiết, hình vị… trong ngôn ngữ học…”[17, tr. 270]. Cụ thể hơn, thì “Thuật ngữ không chỉ biểu thị khái niệm khoa học mà còn chỉ tên một sự vật, một hiện tượng khoa học nhất định, thuật ngữ là những từ chuyên môn được sử dụng trong phạm vi một ngành khoa học, một nghề nghiệp hoặc một ngành kĩ thuật nào đấy… Đặc tính của những từ này là phải cố gắng chỉ có một nghĩa, biểu thị một khái niệm hay chỉ tên một sự vật, một hiện tượng khoa học, kĩ thuật nhất định” [8, tr. 167]. Bên cạnh đó, nhiều tác giả nổi tiếng trên thế giới như G.O. Vinokur, V. K. Nikiforov, V.V.Vinôgrađốp, L.A.Kapatnadze, X.M.Burđin, A.G Acnexôp, N.A. Baxkacôp, V.Zơvêginxep[dẫn theo 26, tr.12] thì định nghĩa thuật ngữ gắn với chức năng. Tiêu biểu là G.O. Vinokur cho rằng: “Thuật ngữ - đó không phải là một từ đặc biệt mà chỉ là từ có chức năng đặc biệt”. “Chức năng đặc biệt mà từ với tư cách là thuật ngữ đảm nhiệm đó là chức năng gọi tên” [103]. Đa số các tác giả tán đồng quan điểm này. V. K. Nikiforov còn nhấn mạnh rằng: “Chức năng định danh ở thuật ngữ được thừa nhận là chức năng cơ bản và duy nhất” [67]. Quan niệm của viện sĩ V.V.Vinôgrađốp về thuật ngữ vốn được giới thuật ngữ học Xô viết coi là một trong những tư tưởng khá cơ bản và tin cậy. Ông viết “Mọi người đều biết trước hết từ thực hiện chức năng định danh, nghĩa là hoặc nó là phương tiện biểu thị, lúc đó nó chỉ là một kí hiệu giản đơn, hoặc nó là phương tiện của định nghĩa logic, lúc đó nó là thuật ngữ khoa học” [dẫn theo 31, tr.8]. Dựa vào quan điểm này, L.A.Kapatnadze đã phát triển tư tưởng về vai trò đặc biệt của thuật ngữ: “Thuật ngữ không gọi tên khái niệm như từ thông thường 7 mà là khái niệm được gán cho nó, dường như là gắn kèm theo nó cùng với định nghĩa”. “Ý nghĩa của thuật ngữ … đó là định nghĩa khái niệm, là cái định nghĩa được gán cho thuật ngữ” [35]. Các tác giả A.G Acnexôp, N.A. Baxkacôp, V.A.Zơvêginxep và một số người khác nêu bật chức năng biểu hiện của thuật ngữ với tư cách là đặc điểm nổi bật của nó [dẫn theo 26, tr.12-tr.18]. Trong công trình “Nghiên cứu, khảo sát thuật ngữ tiếng Việt phục vụ cho việc xây dựng Luật ngôn ngữ ở Việt Nam” [95], tác giả Nguyễn Đức Tồn cho rằng: khi định nghĩa thuật ngữ thì phải và chỉ cần chỉ ra được những đặc trưng bản chất nhất thuộc bản thể của nó, làm nó khác biệt với các từ ngữ không phải là thuật ngữ (như từ thông thường, từ nghề nghiệp, tiếng lóng…). Những phẩm chất thứ yếu không đủ để khu biệt thuật ngữ với các đơn vị phi thuật ngữ hoặc những phẩm chất không thuộc về bản thể của thuật ngữ mà do sự nhận thức chủ quan, do người sử dụng áp đặt cho thuật ngữ thì nhất định không được đưa vào nội dung định nghĩa của thuật ngữ. Và tác giả của công trình này đã đưa ra định nghĩa: Thuật ngữ là từ ngữ biểu hiện khái niệm hoặc biểu thị đối tượng trong phạm vi một lĩnh vực khoa học, công nghệ hoặc chuyên môn. Định nghĩa trên đã chỉ ra những đặc trưng bản chất nhất của thuật ngữ: 1) Về hình thức: Thuật ngữ là từ hoặc ngữ cố định. Hình thức lí tưởng nhất của thuật ngữ là có dạng từ (từ đơn hoặc từ ghép chính phụ) bởi thuật ngữ sẽ rất ngắn gọn, cấu trúc chặt chẽ và cố định. 2) Về nội dung: Thuật ngữ biểu thị khái niệm khoa học/chuyên môn. Đó là sản phẩm của hoạt động nghiên cứu khoa học hoặc hoạt động chuyên môn, phản ánh những đặc trưng bản chất và mối liên hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng vốn là ngoại diên của những khái niệm ấy. Giữa lĩnh vực chuyên môn và lĩnh vực phi chuyên môn có sự khác nhau: trong lĩnh vực chuyên môn người ta sử dụng thuật ngữ, còn lĩnh vực phi chuyên môn sử dụng từ ngữ phi thuật ngữ. Hai lĩnh vực này còn có sự khác nhau cơ bản ở tính quốc tế và tính dân tộc. Khái niệm được sử dụng trong lĩnh vực chuyên môn dù có hình thức thuật ngữ biểu hiện có thể khác nhau nhưng phải có tính quốc tế nghĩa 8 là các nhà hoạt động trong cùng một lĩnh vực chuyên môn này ở các dân tộc khác nhau đều hiểu giống nhau. Còn ở lĩnh vực phi chuyên môn thì các khái niệm có thể được hiểu khác nhau tùy mỗi ngôn ngữ, mỗi dân tộc, thậm chí có những từ / khái niệm chỉ có trong ngôn ngữ/dân tộc này mà không có trong ngôn ngữ / dân tộc kia [95, tr.371-tr.373]. Như vậy, có nhiều cách tiếp cận thuật ngữ, nhưng dù từ hướng tiếp cận nào các tác giả trên đều đề cập tới hai vấn đề: - Thuật ngữ là từ hoặc cụm từ - Biểu thị khái niệm, thuộc tính, đối tượng, sự vật, hiện tượng… thuộc lĩnh vực khoa học, công nghệ hoặc chuyên môn. Đó cũng chính là cách hiểu của chúng tôi về khái niệm thuật ngữ và lấy đó làm cơ sở để nghiên cứu trong luận văn này. 1.2. MỘT SỐ CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ THUẬT NGỮ 1.2.1. Vị trí thuật ngữ trong hệ thống ngôn ngữ 1.2.1.1. Thuật ngữ - bộ phận lớn nhất của từ vựng ngôn ngữ và vốn từ văn hóa Thuật ngữ là những từ ngữ đặc biệt chủ yếu do con người tạo ra một cách có ý thức, là sản phẩm của lao động trí tuệ bởi vì thuật ngữ ra đời cùng với với sự lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức. “Thuật ngữ không chỉ hiểu đơn giản là từ và ngữ chuyên môn dùng trong khoa học kĩ thuật, công nghệ, dịch vụ mà đó là hệ thống khái niệm, phạm trù khoa học, là tri thức khoa học công nghệ, là trí tuệ dân tộc và nhân loại được chung đúc qua hình thức ngôn ngữ” [82, tr. 8]. Cùng với sự phát triển của khoa học - công nghệ và đội ngũ trí thức, thuật ngữ ngày càng phát triển. Thuật ngữ hiện nay được nhìn nhận không phải chỉ là một lớp từ giống lớp từ địa phương, từ nghề nghiệp…như quan niệm trước kia, bởi vì so với các lớp từ này, thuật ngữ là bộ phận từ vựng rất lớn trong hệ thống ngôn ngữ. Theo tổng kết của một số nhà nghiên cứu, hầu hết các từ ngữ mới xuất hiện trong từ điển đều là thuật ngữ. Chẳng hạn, theo thống kê của nhà ngôn ngữ học Tiệp Khắc Sokhora.X. có đến 90% từ mới thuộc hệ thống thuật ngữ khoa học và kĩ thuật. [Dẫn theo 35, tr.1]. Tương tự, Budagov R.A. (1976) nhận định “Số lượng thuật ngữ trong 9 mỗi ngành khoa học đang phát triển quả thật không phải từng ngày mà là từng giờ” [2, tr. 44]. Như vậy, khi khoa học càng phát triển thì thuật ngữ cũng càng được phát triển không ngừng, đồng thời khi hệ thống thuật ngữ càng phát triển và được hoàn thiện, chuẩn hóa đến lượt nó sẽ tác động và thúc đẩy sự phát triển của chính ngành khoa học đó. 1.2.1.2. Thuật ngữ - đối tượng nghiên cứu của thuật ngữ học Thuật ngữ hiện nay rất phát triển và đã trở thành đối tượng nghiên cứu của thuật ngữ học. Mặc dù hiện nay còn có những tranh luận, nhưng nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài khẳng định “Thuật ngữ học là chuyên ngành độc lập, ra đời và phát triển từ ngôn ngữ học trong thế kỷ XX, gồm 2 lĩnh vực chính: thuật ngữ học lí thuyết và thuật ngữ học ứng dụng. Trong đó, đối tượng của thuật ngữ học là thuật ngữ với các lớp, loại khác nhau và hệ thống thuật ngữ hiểu theo nghĩa rộng” [Dẫn theo 58, tr. 23). Theo Leichik (1986), trong thực tế thuật ngữ có thể được hình thành theo tự phát, tự nhiên hoặc được tạo ra một cách có ý thức. Thuật ngữ được hình thành theo con đường tự phát thường phản ánh không hoàn toàn đầy đủ, chi tiết và hệ thống các khái niệm chuyên ngành. [Dẫn theo 58, tr.23]. 1.2.1.3. Thuật ngữ - thành phần chủ yếu của ngôn ngữ khoa học Thuật ngữ được xem là bộ phận quan trọng nhất của ngôn ngữ khoa học. Đó là ngôn ngữ chuyên dùng trong phạm vi của các ngành khoa khoa học và trong các lĩnh vực chuyên môn. Chức năng cơ bản của ngôn ngữ khoa học không chỉ là thông báo các sự kiện mà điều quan trọng là phải giải thích, chứng minh tính chân thực của thông báo nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa của chúng với tư cách là cơ sở cho một luận điểm hay một quan niệm lí thuyết nhất định [Dẫn theo 31, tr. 22]. Như vậy, thông báo-chứng minh là chức năng quan trọng nhất của ngôn ngữ khoa học, trong đó “chứng minh được coi là đặc trưng khu biệt của phong cách khoa học, làm cho nó không giống với các phong cách khác” [Dẫn theo 49, tr. 83]. Ngôn ngữ khoa học có vai trò rất quan trọng đối với cuộc sống của con người, chúng phục vụ cho quá 10 trình nghiên cứu và truyền bá tri thức khoa học, kĩ thuật, công nghệ của con người để duy trì cuộc sống và phát triển xã hội [Dẫn theo 31, tr. 22]. Ngôn ngữ khoa học có những đặc điểm nổi bật đã được thừa nhận như là tính trừu tượng- khái quát cao, tính logic nghiêm ngặt, tính chính xác-khách quan. Bên cạnh những đặc trưng nổi bật này, ngôn ngữ khoa học còn có một số đặc điểm đáng chú ý về mặt phong cách, cú pháp, từ ngữ… Cụ thể, ngôn ngữ khoa học thuộc về phong cách viết và đó là phong cách gọt rũa. Về mặt cú pháp, ngôn ngữ khoa học chủ yếu sử dụng các câu tường thuật, giải thích và câu hỏi chính danh. Đặc biệt ngôn ngữ khoa học sử dụng nhiều các loại câu ghép, câu mở rộng thành phần phụ như bổ ngữ, trạng ngữ…Về mặt từ ngữ, trong ba thành phần của từ ngữ ngôn ngữ khoa học: thuật ngữ, từ ngữ khoa học chung và lớp từ ngữ đa phong cách, thì thuật ngữ được coi là thành phần quan trọng nhất và chủ yếu của ngôn ngữ khoa học, đó là những từ, ngữ dùng để biểu đạt các khái niệm khoa học. 1.2.2. Quan niệm về thuật ngữ Cho đến nay, hầu như mỗi nhà nghiên cứu tiếp cận thuật ngữ từ góc nhìn riêng khác nhau. Vì vậy, cũng có nhiều quan niệm khác nhau về thuật ngữ. Chẳng hạn, trong bài báo năm 1970, Golovin B.N. đã đưa ra 7 định nghĩa khác nhau; năm 1977 trong cuốn sách của mình, Danilenko V.P. đưa ra 19 định nghĩa và nói rằng chưa hết, còn có thể kể thêm nữa [13]. Thậm chí Reformatxki A.A. khẳng định có thể viết hẳn một cuốn sách về vấn đề thế nào là thuật ngữ [71]. Lí do của điều này Superanskaja (2007) cho rằng, vì khi đó bộ môn thuật ngữ học chưa hình thành và vì thuật ngữ là đối tượng của nhiều ngành khoa học khác nhau nên mỗi ngành khoa học thường nhấn mạnh một đặc điểm, hoặc có những cách tiếp cận khác nhau với thuật ngữ[73]. 1.2.2.1. Thuật ngữ theo quan niệm truyền thống (từ góc độ ngôn ngữ học) Toàn bộ các quan niệm về thuật ngữ của các nhà nghiên cứu theo quan niệm truyền thống có thể tổng kết thành ba xu hướng chính sau: a. Thuật ngữ được định nghĩa trong sự phân biệt với từ thông thường 11 Một số nhà ngôn ngữ định nghĩa thuật ngữ chỉ ra sự khác biệt giữa thuật ngữ với từ thông thường. Theo Kuz'kin N.P. (1962) "Nếu như từ thông thường, từ phi chuyên môn tương ứng với đối tượng thông dụng, thì từ của vốn thuật ngữ lại tương ứng với đối tượng chuyên môn mà chỉ có một số lượng hạn hẹp các chuyên gia biết đến" [Dẫn theo 19, tr.10]. Tương tự, Moiseev A.I. (1970) khẳng định :"Chính biên giới giữa thuật ngữ và phi thuật ngữ không nằm giữa các loại từ và cụm từ khác nhau mà nằm trong nội bộ mỗi từ và cụm từ định danh" [Dẫn theo 19, tr. 10]. Kapanadze L.A. cũng nhấn mạnh:"Thuật ngữ không gọi tên khái niệm như từ thông thường mà là khái niệm được gán cho nó dường như là gắn kèm theo nó cùng với định nghĩa" [35]. b. Thuật ngữ được định nghĩa gắn với chức năng Bên cạnh đó, số đông các nhà nghiên cứu khi định nghĩa thuật ngữ gắn chức năng mà thuật ngữ đảm nhiệm. Tiêu biểu là G.O. Vinokur (1939): "Thuật ngữ - đấy không phải là những từ đặc biệt, mà chỉ là những từ có chức năng đặc biệt” và đó là “chức năng gọi tên” [Dẫn theo 35, tr.4]. Đồng thời ông cho rằng bất cứ từ nào cũng được cấu tạo để có vai trò là một thuật ngữ. Quan niệm của G.O. Vinokur cho thấy nền tảng của thuật ngữ chính là ngôn ngữ, cụ thể là các đơn vị từ vựng. Bên cạnh đó, V.V.Vinôgrađốp (1947) còn chỉ rõ thuật ngữ không chỉ có chức năng gọi tên mà còn có chức năng định nghĩa: “Trước hết từ thực hiện chức năng định danh, nghĩa là hoặc nó là phương tiện biểu thị, lúc đó nó chỉ là một kí hiệu đơn giản, hoặc nó là phương tiện của định nghĩa logich, lúc đó nó là thuật ngữ khoa học” [Dẫn theo 19, tr.14]. Tương tự, Gerd A.X. (1968) trong định nghĩa của mình cũng nhấn mạnh chức năng định nghĩa của thuật ngữ:"Thuật ngữ là một đơn vị từ vựng ngữ nghĩa có chức năng định nghĩa và được khu biệt một cách nghiêm ngặt bởi các đặc trưng như tính hệ thống, tính đơn nghĩa" [Dẫn theo 76, tr.19]. c. Thuật ngữ được định nghĩa gắn với khái niệm Phần lớn các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước khi định nghĩa thuật ngữ đã tập trung vào việc xác định thuật ngữ trong mối quan hệ với khái niệm. Ở Việt Nam, Nguyễn Văn Tu (1960), Đỗ Hữu Châu (1962) là những nhà ngôn ngữ học đầu 12 tiên đưa ra định nghĩa về thuật ngữ, trong đó các tác giả chỉ rõ thuật ngữ không chỉ biểu thị khái niệm khoa học mà thuật ngữ còn chỉ tên cả sự vật, hiện tượng khoa học. Sau này, nhiều nhà nghiên cứu khác ([17], [22], [39], [52], …) cũng đưa ra các định nghĩa về thuật ngữ. Nhìn chung các định nghĩa đều nhấn mạnh đến tính chính xác của khái niệm và đối tượng chuyên môn mà thuật ngữ biểu thị: "Thuật ngữ là bộ phận từ ngữ đặc biệt của ngôn ngữ. Nó bao gồm những từ và cụm từ cố định là tên gọi chính xác của các khái niệm và các đối tượng thuộc lĩnh vực chuyên môn của con người" [17, tr.270]. 1.2.2.2. Thuật ngữ theo quan niệm mới (từ góc độ của thuật ngữ học) Hiện nay, thuật ngữ đã trở thành đối tượng nghiên cứu của thuật ngữ học. Các nhà nghiên cứu theo quan điểm thuật ngữ học xác định, đối tượng của thuật ngữ học không chỉ là thuật ngữ như là đơn vị từ vựng có mục đích chuyên biệt, mà là hệ thống thuật ngữ, vốn nghĩa không hoàn toàn là một phạm trù ngôn ngữ học. Vì vậy, khái niệm thuật ngữ được xác định theo quan điểm của thuật ngữ học rất được chú ý. Trong số này, định nghĩa thuật ngữ do Leitchik mang tính toàn diện nhất: Thuật ngữ là một sản phẩm kết hợp đa tầng, gồm tầng nền là ngôn ngữ tự nhiên và tầng thượng thuộc về logic. Trong đó, tầng thượng (superstratum) ở trên và tầng nền (substratum) ở dưới, bao bọc hạt nhân thuật ngữ, gồm cấu trúc hình thức, cấu trúc chức năng, cấu trúc khái niệm chuyên ngành. Ba cấu trúc này tác động qua lại với tầng nền ngôn ngữ và tầng thượng logic [Dẫn theo 58, tr.23]. Nói về tầng nền ngôn ngữ tự nhiên, Leichik chỉ rõ, xét về mặt ngôn ngữ học, thuật ngữ là từ hay tổ hợp từ của một ngôn ngữ tự nhiên nào đó [Dẫn theo 58, tr. 25]. Tương tự, nói về vai trò của tầng nền ngôn ngữ tự nhiên, Superanskaja cho rằng, vì thuật ngữ là ở dạng đơn vị từ vựng, đơn vị ngôn ngữ, cho nên có thể khẳng định đơn vị từ vựng của ngôn ngữ tự nhiên là tầng nền ngôn ngữ tự nhiên của thuật ngữ. Thuật ngữ trưởng thành lên từ đơn vị từ vựng của một ngôn ngữ tự nhiên nhất định. Từ đó, Superanskaja cũng đi đến kết luận rằng, thuật ngữ là một đơn vị từ vựng tam cấp phức tạp của một ngôn ngữ dùng cho những mục đích chuyên biệt nhất định. Tác giả khẳng định, với quan niệm như trên về các phương diện ngôn 13 ngữ của thuật ngữ chúng ta mới giải quyết được nhiều vấn đề về phương pháp luận của thuật ngữ, trước hết là vấn đề truyền thống về bản chất ngôn ngữ của thuật ngữ, hay vấn đề đặc thù của thuật ngữ… Bởi vì nếu chỉ đứng trong khuôn khổ thuần túy của ngôn ngữ học thì không thể phát lộ ra các nét đặc trưng, cơ bản của thuật ngữ phân biệt với các đơn vị từ vựng khác, vốn thường tập hợp dưới tên gọi phi thuật ngữ [73]. Như vậy, định nghĩa thuật ngữ theo quan niệm của thuật ngữ học giúp chúng ta có một cái nhìn bao quát, toàn diện về bản chất của thuật ngữ. Thuật ngữ không chỉ là phạm trù của ngôn ngữ học mà nó còn là phạm trù của logic học và khoa học liên ngành. Còn định nghĩa thuật ngữ theo quan niệm truyền thống lại giúp chúng ta có một cái nhìn cụ thể về thuật ngữ: về hình thức, thuật ngữ là những từ và cụm từ; về nội dung, thuật ngữ biểu thị các khái niệm hoặc đối tượng chuyên môn. Luận văn này là công trình nghiên cứu theo hướng tiếp cận từ đặc điểm cấu tạo và định danh của thuật ngữ máy xây dựng, nghĩa là chủ yếu xem xét thuật ngữ máy xây dựng trên phương diện ngôn ngữ học, cho nên luận văn vẫn hiểu thuật ngữ theo quan niệm truyền thống (từ góc độ của ngôn ngữ học) là chính: “Thuật ngữ là từ ngữ biểu hiện một khái niệm hoặc một đối tượng trong phạm vi một lĩnh vực khoa học hoặc chuyên môn”. Đây là định nghĩa do Nguyễn Đức Tồn nêu ra và được phân tích khá kĩ [88]. Vì vậy, chúng tôi sẽ lấy định nghĩa thuật ngữ trên làm cơ sở nghiên cứu của luận văn, đồng thời coi đây như là tiêu chí để xác định thuật ngữ trong sự phân biệt với các đơn vị liên quan. 1.2.3. Phân biệt thuật ngữ và một số đơn vị liên quan Khi đã nhận diện được thuật ngữ cả về bản chất khái niệm, chức năng, nội dung… chúng ta cần phân biệt thuật ngữ với các loại đơn vị có quan hệ gần gũi trong hệ thống từ vựng như danh pháp, từ nghề nghiệp… 1.2.3.1. Phân biệt thuật ngữ với danh pháp khoa học G.O. Vinokur là người đầu tiên đặt ra vấn đề phân biệt thuật ngữ với danh pháp. Ông cho rằng “không nên lẫn lộn thuật ngữ là tên gọi đối tượng của tư duy với tên riêng và tín hiệu danh pháp” [103]. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan