Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Những sự kiện xã hội chịu ảnh hưởng bởi cơ chế tin đồn trên báo chí...

Tài liệu Những sự kiện xã hội chịu ảnh hưởng bởi cơ chế tin đồn trên báo chí

.PDF
95
802
64

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------- NGUYỄN THANH MAI Kho tài liệu miễn phí của Ket-noi.com blog giáo dục, công nghệ NHỮNG SỰ KIỆN XÃ HỘI CHỊU ẢNH HƯỞNG BỞI “CƠ CHẾ TIN ĐỒN” TRÊN BÁO CHÍ (Khảo sát một số tờ báo in, 2007-2008) LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÀNH BÁO CHÍ HÀ NỘI – 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------- NGUYỄN THANH MAI NHỮNG SỰ KIỆN XÃ HỘI CHỊU ẢNH HƯỞNG BỞI “CƠ CHẾ TIN ĐỒN” TRÊN BÁO CHÍ (Khảo sát một số tờ báo in, 2007-2008) Chuyên ngành : Báo chí học Mã số : 60.32.01 LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÀNH BÁO CHÍ Người hướng dẫn khoa học: PSG, TS. Nguyễn Đức Dũng HÀ NỘI - 2009 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn 7. Kết cấu Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TIN ĐỒN TRÊN BÁO CHÍ 1 2 5 6 8 8 9 10 1.1. Tin đồn và cơ chế tin đồn 1.1.1. Tin đồn 1.1.2. Cơ chế tin đồn 1.2. Đặc điểm của tin đồn 10 10 11 13 1.2.1. Tin đồn là thông tin truyền miệng 1.2.2. Tin đồn thường không có căn cứ chính xác 1.2.3. Tin đồn là thông tin được nhiều người quan tâm 1.3. Những yếu tố tác động đến việc hình thành tin đồn 1.3.1. Hoàn cảnh chính trị 1.3.2. Trình độ văn hóa 1.3.3. Điều kiện kinh tế 1.3.4. Những yếu tố thuộc chủ thể tiếp nhận 1.3.5. Vai trò của cơ quan báo chí 1.4. Những khuynh hƣớng của tin đồn 1.4.1. Rút bớt chi tiết 1.4.2. Cường điệu hóa 1.4.3. Đồng hóa 1.5. Sự tác động của tin đồn đến đời sống báo chí 1.5.1. Tin đồn- nguồn sự kiện của báo chí 1.5.2. Tin đồn thông qua báo chí tạo dư luận xã hội 1.5.3. Tin đồn- tác nhân làm thay đổi truyền thông đại chúng 13 15 16 17 17 18 19 20 21 21 21 22 23 24 24 25 26 Tiểu kết chƣơng 1 27 Chƣơng 2: KHẢO SÁT BỐN SỰ KIỆN CHỊU ẢNH HƢỞNG BỞI TIN ĐỒN TRONG HAI NĂM 2007- 2008 29 2.1. Tổng Giám đốc SSI bị bắt 2.1.1. Tin đồn ảnh hưởng uy tín cá nhân 32 32 2.1.2. Tổng Giám đốc SSI lên tiếng 2.2. Việt Nam và cơn sốt tăng giá gạo 2.2.1. Bối cảnh khiến giá gạo tăng cao 2.2.2. Khẳng định Việt Nam không thiếu gạo 2.3. Thánh vật ở sông Tô Lịch 2.3.1. Những thông tin li kì 2.3.2. Cần một cái nhìn khoa học và trung thực 2.4. Bƣởi gây ung thƣ 2.4.1. Bối cảnh xuất hiện tin đồn 2.4.2. Khẳng định bưởi gây ung thư không có ở Việt Nam Tiểu kết chƣơng 2 33 39 39 40 48 48 51 56 56 58 63 Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG CỦA TIN ĐỒN TRÊN BÁO CHÍ HIỆN NAY 66 3.1. Một số nhận xét 66 3.1.1. Tin đồn trong lĩnh vực kinh tế 66 3.1.2. Tin đồn trong lĩnh vực văn hóa- xã hội 69 3.2. Những bài học kinh nghiệm 3.2.1. Minh bạch thông tin 3.2.2. Tăng cường thể chế hóa phát ngôn chính thức 3.2.3. Coi trọng chức năng giáo dục dân trí và nâng cao nhận thức 3.2.4. Báo chí dự đoán xu hướng và tuyên truyền tạo lòng tin 3.3. Một số giải pháp cơ bản 3.3.1. Đối với cơ quan báo chí 3.3.2. Đối với người làm báo 3.3.3. Đối với người tiếp nhận Tiểu kết chƣơng 3 73 73 74 75 76 77 77 79 81 81 KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO 84 89 Kho tài liệu miễn phí của Ket-noi.com blog giáo dục, công nghệ MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ hàng ngàn năm nay, tin đồn đã tồn tại khách quan và trở thành cơ chế truyền tin phổ biến trong môi trường làng xã Việt Nam truyền thống. Kể từ cuộc giao lưu văn hoá Đông- Tây, trên nền của lớp văn hoá bản địa Đông Nam Á và giao lưu văn hoá khu vực, tờ báo quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam chính thức ra đời (1965), đánh dấu sự xuất hiện của một cơ chế truyền tin mới - cơ chế truyền tin bằng văn bản. Cho đến ngày nay, dưới nhiều lớp văn hoá, cơ chế tin đồn vẫn tồn tại. Thậm chí, mười năm trở lại đây, tin đồn đã trở thành một khái niệm xuất hiện khá phổ biến trong các nghiên cứu khoa học, trên các diễn đàn về xã hội học, đặc biệt là trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Tin đồn trở thành một khái niệm được so sánh với một số khái niệm liên quan, vốn là những vấn đề đang được nghiên cứu mang tầm chiến lược như: Dư luận xã hội, chuẩn mực xã hội... Như vậy, tin đồn đang chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong đời sống, cần được nghiên cứu, đặc biệt là trên phương diện báo chí học, vì các phương tiện truyền thông đại chúng là một trong những “mảnh đất màu mỡ” để tin đồn nảy sinh, tồn tại, và lan tỏa với những quy luật riêng. Tin đồn ở một số lĩnh vực được quan tâm và đánh giá một cách nghiêm túc, vì thế, nhiều nước trên thế giới thành lập viện nghiên cứu có thương hiệu và uy tín cao, chuyên nghiên cứu về tin đồn và dư luận xã hội, phục vụ chủ yếu cho công đoạn trước bầu cử và chiến dịch maketinh của các doanh nghiệp. Chỉ cần thị trường có dấu hiệu bất thường, ngay lập tức cơ quan quản lí sẽ đưa ra những phát ngôn chính thức để định hướng cho người dân. Ở Việt Nam, cách đối phó mà chúng ta thấy hiện nay chỉ mang tính sự vụ và tự phát. Trong nhiều trường hợp, hiện tượng bất thường của thị trường phải cực “nóng” kết hợp với sức ép dư luận thì cơ quan chịu trách nhiệm mới đưa ra biện pháp giải quyết. Chúng ta vẫn thiếu những quy định và cách thức 1 phản ứng trước những diễn biến bất thường của thị trường một cách chuyên nghiệp và bài bản. Tin đồn thường gắn với những ý nghĩa tiêu cực, tuy nhiên, ở một khía cạnh nào đó, tin đồn vẫn có ý nghĩa tích cực, điều này phụ thuộc phần lớn vào bối cảnh và mục đích của người đưa tin. “Kết quả một nghiên cứu về tin đồn ở Mỹ cho thấy có đến 75% tin đồn là có căn cứ” [37,57], theo đó tin đồn có thể đúng, có thể sai, nhưng chúng ta phải có nhiệm vụ tìm ra những chứng cứ để khẳng định hay bác bỏ tin đồn. Trong lĩnh vực chớnh trị, tin đồn thường ít xuất hiện hơn do nguyên tắc Đảng lãnh đạo, quản lí hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng. Trước những tin đồn vô căn cứ trờn lĩnh vực chính trị, các cơ quan báo chí nước ta rất thận trọng trong việc xử lớ thông tin, vừa đảm bảo tính chính xác, kịp thời, vừa có tính định hướng giúp hình thành dư luận xã hội tích cực và đúng đắn. Riêng hai lĩnh vực kinh tế và văn hóa – xã hội, tin đồn thường gây tác động mạnh mẽ hơn. Đó thường là những tin đồn khá phổ biến, và có khả năng tái diễn, vì vậy, rất cần khảo sát và nghiên cứu nhằm hạn chế tối đa sự tác động của những tin đồn này. Hiện nay, chưa có một công trình nào thống kê đầy đủ sự tác động của tin đồn đến đời sống xã hội, và mặc nhiên, tin đồn vẫn nảy sinh, tồn tại và lan tỏa, gây thiệt hại không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa- xã hội, mà còn ít nhiều ảnh hưởng tới tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội... Tin đồn không chỉ tác động đến một nhóm nhỏ trong xã hội, mà nó đó lan tỏa và trở thành một vấn đề của dư luận xã hội. Nghĩa là, tin đồn thông qua báo chí tạo ra dư luận xã hội. Vấn đề cấp thiết đặt ra là chúng ta phải có những nghiên cứu cụ thể về sự tác động của cơ chế tin đồn đến đời sống báo chí. Do đặc điểm của tin đồn là mập mờ và không có căn cứ chính xác, nên ở phần nhiều các trường hợp, tin đồn thường tạo ra những sự kiện có tác động tiêu cực đến đời sống xã hội. Từ góc độ tiếp cận đó, tôi chọn đề tài “Những sự kiện xã hội chịu ảnh hưởng bởi “cơ chế” tin đồn trên báo chí 2 (khảo sát một số tờ báo in,2007-2008)” để nghiên cứu, với mong muốn thông qua việc khảo sát sự tác động của cơ chế tin đồn trong môi trường truyền thông hiện đại có thể rút ra những bài học kinh nghiệm từ cả phía người làm báo và người tiếp nhận, nhằm hạn chế và khắc phục hậu quả do cơ chế tin đồn mang lại. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nhà văn Đan Mạch Hans Christian Andecxen (1805- 1875) nổi tiếng với tập “Truyện cổ Andecxen”, là người đầu tiên viết lên câu chuyện nói về sự biến đổi của tin truyền miệng- đó là: “Chuyện hoàn toàn có thật” [11,241]. Chúng tôi xin vắn tắt câu chuyện để thấy được tin đồn biến đổi như thế nào trong câu chuyện của Andecxen: …Mụ gà thì thào kể: Lúc tắt mặt trời, một ả gà chân ngắn, lông trắng, đẻ trứng đều đặn lấy mỏ rỉa lông và một chiếc lông tơ rơi ra. Ả nói: “Thế là đứt một cái lông. Càng rụng lông ta càng đáng yêu hơn, không sao”. Tất nhiên ả nói đùa vì ả luôn gây cười trong lũ gà mái. Sau đó ả đi ngủ. Bà gà đứng bên cạnh nghe bập bà bập bõm câu chuyện của mụ gà bèn rỉ tai mụ bên cạnh: “Này chị có nghe thấy chứ? Tôi không nói tên đâu, có một cô ả muốn bứt lông làm đỏm. Nếu tôi là gà trống ấy à, tôi sẽ khinh ả!”. Đậu ngay trên đầu lũ gà mái, gia đình nhà cú rất thính tai đã nghe câu chuyện hai mụ gà kháo nhau. Cú mẹ trợn mắt quát lũ con: “Đừng có nghe lỏm chuyện một ả gà mái mới xong đã quên cả mình là một gà nết na, thản nhiên rỉa trụi lông để chài một gã trống”. Cú bố nhắc vợ: “Coi chừng bọn trẻ, đừng để chúng kháo nhau chuyện đó”. Tiếng cú vang sang chuồng bồ câu. Lũ bồ câu kháo nhau: “Các vị có nghe thấy gì không? Hú hú! ở trang trại kia kìa, chuyện thực mà kể lại thì nhảm, nhưng là chuyện hoàn toàn có thực. “Có một ả gà vặt hết cả lông để làm đỏm với gà trống. ả sẽ chết rét phen này. Hú hú”. Lũ bồ câu nhao nhao chõ xuống sân gà vịt. Lũ vịt quạc quạc: “Có một ả gà mái, có kẻ còn bảo cả hai, đã vặt trụi cả lông cho khác người để hấp dẫn gà trống. Hình như các ả bị cảm lạnh chết vì sốt… Phải, cả hai ả đều chết rồi”. Gã gà trống mặc dù 3 vẫn ngái ngủ nhưng vẫn thao thao kháo chuyện: “Chuyện khủng khiếp quá, tôi không muốn giữ kín nữa. Loan báo cho mọi người đi”. Lũ gà trống gáy om lên, lũ gà mái quang quác ầm ĩ. Cứ thế, câu chuyện bay từ chuồng gà này sang chuồng gà khác… Cuối cùng nó trở về nơi xuất phát: “Có năm mụ gà mái vặt trụi lông vì tương tư với gã gà trống. Sau đó các mụ mổ nhau đến đổ máu, nhào lộn chết quay lơ. Thật nhục nhã cho gia đình gà và thiệt hại cho gia chủ”. Riêng ả gà lông trắng đêm qua làm rơi một chiếc lông tơ đã không nhận ra chuyện của mình. Là người đứng đắn, ả nói: “Nhục nhã thay cho những mụ gà ấy. Nhưng cái hạng ấy không hiếm đâu. Chuyện không thể ỉm đi được. Tôi sẽ cố gắng đưa chuyện này lên mặt báo phổ biến ra cả nước cho đáng đời lũ gà mái ấy và cả họ nhà chúng nữa” [11,245 ]. Và câu chuyện đồn đại này đã được đưa lên mặt báo, được xuất bản với nhan đề “Chuyện hoàn toàn có thật: Một chiếc lông tơ có thể dễ dàng trở thành năm con gà mái”. Có thể nói, nội dung câu chuyện của Andecxen đăng trên báo cách đây khoảng 150 năm đã phản ánh những quy luật của sự biến đổi thông tin truyền miệng như: rút bớt chi tiết, nhấn mạnh một vài chi tiết theo động cơ cá nhân, cường điệu hóa chi tiết và tổ chức, sắp xếp lại chi tiết… mà Barlett, Allport, Post và nhiều tác giả khác sau gần 100 năm mới khái quát lên thành quy luật của sự biến đổi tin đồn. Năm 1965, Allport và Post trên cơ sở câu chuyện của Andecxen đã tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về sự biến đổi của tin đồn. Các thực nghiệm của Allport và Post là một trong những chỗ dựa kinh điển để hiểu được sự biến đổi của các thông điệp trong một giao tiếp. Lời đồn sở dĩ luôn tồn tại trong cuộc sống vì chúng mang chức năng giải thích và làm giảm bớt những căng thẳng xúc cảm. Chẳng hạn, việc nói tới một điều xấu của ai đó sẽ có hiệu quả làm dịu bớt tạm thời sự ghét bỏ của người ta đối với người đó. Allport và Post đã tìm cách xác định các quá trình truyền đi những lời đồn bằng cách giải thích sự cường điệu đặc trưng của chúng. 4 Song song với những nghiên cứu về sự biến đổi của lời đồn là những nghiên cứu kinh nghiệm mà tiêu biểu là Lời đồn Orleans Morin (1969). Trước đó (1953), Dodd đã có một nghiên cứu thực nghiệm trình bày hiện tượng lời đồn có nhan đề “Truyền một thông điệp tới Thành phố C”. Đối tượng của thực nghiệm này là hình thức của đường cong lan tỏa của một tin đồn theo không gian và thời gian trong một địa phương gọi là thành phố C có khoảng 1000 dân. Thực nghiệm cho phép rút ra khái niệm chiều hướng lan tỏa trong việc truyền bá những lời đồn. Ở Việt Nam, cho đến nay, chưa có một công trình khoa học, khóa luận, luận văn, luận án nào nghiên cứu về tin đồn. Chỉ có một vài cuốn sách đề cập tới tin đồn, với vai trò là một khái niệm liên quan để so sánh và làm rõ hơn vấn đề được nghiên cứu như: dư luận xã hội, chuẩn mực xã hội…Nếu xét theo trình tự thời gian, có thể kể tới một số công trình sau: Hữu Kiên (2005), Tin đồn và vấn đề quản trị thông tin, Tạp chí Ngân hàng Ngoại thương (bàn về tin đồn trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng) Nguyễn Quý Thanh (2008), Xã hội học về dư luận xã hội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội (so sánh tin đồn với dư luận xã hội). Trần Thị Minh Đức (2008), Các thực nghiệm trong tâm lí học xã hội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội (tin đồn là một phương thức giao tiếp ngôn ngữ phổ biến). Đó là những tài liệu quý, có ý nghĩa tham khảo rất quan trọng, là cơ sở để tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về vấn đề khá phức tạp này. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên mới chỉ đưa ra được khái niệm, chức năng, quy luật biến đổi của tin đồn, mà chưa chỉ ra đặc điểm của tin đồn, chưa đưa ra những kết luận khoa học về sự tác động của cơ chế tin đồn. Vì vậy, có thể coi đề tài của chúng tôi là một nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này nhìn từ góc độ báo chí học, dựa trên những khảo sát cụ thể về một số sự kiện báo chí tiêu biểu trong hai năm 2007- 2008. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5 - Mục đích nghiên cứu Thông qua việc khảo sát những sự kiện xã hội chịu ảnh hưởng bởi cơ chế tin đồn, chúng tôi muốn làm sáng tỏ những tác động của cơ chế tin đồn đối với đời sống báo chí trên phương diện ảnh hưởng tiêu cực, qua đó thấy được vai trò của báo chí trong việc xử lí khắc phục và hạn chế tin đồn. - Nhiệm vụ nghiên cứu Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu trên, luận văn phải thực hiện một số nhiệm vụ sau: - Hệ thống vấn đề lí luận về tin đồn, cơ chế tin đồn, những yếu tố tác động đến việc hình hành tin đồn, tin đồn trong môi trường truyền thông hiện đại với những khuynh hướng chủ yếu, sự tác động của tin đồn đến đời sống báo chí... - Kháo sát một số sự kiện xã hội chịu ảnh hưởng bởi tin đồn trên báo in Việt Nam trong hai năm 2007- 2008 - Rút ra những kết luận khoa học về việc xử lí tin đồn của các cơ quan báo chí, đưa ra một số bài học kinh nghiệm, đề xuất giải pháp, kiến nghị để nâng cao hơn nữa vai trò của báo chí trong việc thông tin, tuyên truyền và định hướng dư luận xã hội. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng khảo sát của luận văn là những sự kiện xã hội chịu ảnh hưởng của tin đồn nói chung, trong đó tập trung khảo sát hai nhóm sự kiện thuộc lĩnh vực kinh tế và văn hóa- xã hội. Cụ thể là các sự kiện: + Việt Nam và “cơn sốt” tăng giá gạo + Tổng Giám đốc SSI bị bắt + Thánh vật ở sông Tô Lịch + Bưởi gây ung thư - Đối tượng nghiên cứu là việc xử lí tin đồn của những cơ quan báo chí liên quan. - Phạm vi nghiên cứu 6 Những sự kiện nêu trên đều có sự tham gia, vào cuộc của đài phát thanh, truyền hình, báo in, báo mạng ở nước ta. Tuy nhiên, do thời gian có hạn và khó khăn về mặt tài liệu nên chúng tôi giới hạn phạm vi khảo sát trên một số tờ báo in. Đối với sự kiện tăng giá gạo, chúng tôi lựa chọn các tờ báo: Thanh niên, Tuổi trẻ TP Hồ Chí Minh, Sài Gòn Giải phóng, Sài Gòn Tiếp thị, Tiền Phong, Công an Nhân dân, Gia đình&Xã hội để khảo sát dựa trên tiêu chí: - Là những tờ báo ngày có khả năng thông tin kịp thời về trực trạng và những giải pháp nhằm bình ổn giá gạo trên thị trường; - Các tờ báo ở khu vực phía nam, vì cơn sốt tăng giá gạo bắt nguồn từ vùng đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa lớn nhất của Việt Nam. - Các tờ báo thông tin kịp thời các vấn đề xã hội, vì lúa gạo là những nguyên liệu không thể thiếu trong bữa cơm hàng ngày của mỗi gia đình. Với sự kiện “Tổng Giám đốc SSI bị bắt”, chúng tôi khảo sát các tờ: Thời báo Kinh tế Việt Nam, Đầu tư chứng khoán, Diễn đàn Doanh nghiệp, Thương mại, Đầu tư, Thanh niên, Tiền Phong, Hànộimới dựa trên tiêu chí: - Là những tờ báo chuyên đề về thị trường chứng khoán. - Là những tờ báo có chuyên mục Tài chính, Tiền tệ và là tờ báo ngày, có khả năng thông tin nhanh và cải chính kịp thời. Về sự kiện “Thánh vật ở sông Tô Lịch”, chúng tôi chọn khảo sát các tờ báo: Bảo vệ Pháp luật, Tiền Phong, Khoa học&Đời sống, Gia đình&Xã hội, Văn hóa, Thể thao & Văn hóa, Hànộimới, Lao động, Người Lao động vì: - Đây là những tờ báo đưa tin sớm nhất về hiện tượng này; - Là diễn đàn để các nhà khoa học, những người có trách nhiệm liên quan đến lĩnh vực Văn hóa lên tiếng. - Thông tin kịp thời các vấn đề của đời sống xã hội. Và với sự kiện “Bưởi gây ung thư”, chúng tôi khảo sát các tờ: Khoa học Phổ thông, Thanh niên, Đời sống&Pháp luật, Khuyến học&Dân trí, Công an TP Hồ Chí Minh căn cứ vào các tiêu chí: 7 - Là những tờ báo đầu tiên đăng thông tin thiếu kiểm chứng - Là những tờ báo khai thác các vấn đề liên quan đến đời sống, pháp luật… Chúng tôi chọn thời gian khảo sát các sự kiện trong hai năm 2007- 2008, là vì: - Ngày 11 tháng 1 năm 2008: Việt Nam chính thức trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO; Trong đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội nảy sinh nhiều vấn đề mới, đòi hỏi báo chí phải vào cuộc để thông tin kịp thời và định hướng dư luận. - Đây là những sự kiện diễn ra ở thời điểm gần, thể hiện chuẩn xác những đặc điểm của tin đồn thời nay. - Những sự kiện này có thể lặp lại trong thời gian tới nếu không có những giải pháp xử lí kịp thời. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp luận Luận văn dựa trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của báo chí vô sản và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về báo chí. Các phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử sẽ được vận dụng trong suốt quá trình nghiên cứu và giải quyết vấn đề. - Phương pháp công cụ Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ sử dụng một số phương pháp công cụ như: - Thống kê, phân loại để lựa chọn các tờ báo, bài báo có liên quan. - Phỏng vấn sâu để thu thập ý kiến của những nhà quản lí báo chí, các nhà báo về những vụ việc có liên quan. - Phân tích, tổng hợp để rút ra những kết luận khoa học cần thiết. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn - Ý nghĩa luận Luận văn là công trình đầu tiên hệ thống hóa, phân tích, đánh giá về những tác động của cơ chế tin đồn trên báo chí thông qua việc khảo sát những sự kiện xã hội cụ thể. 8 Luận văn góp phần làm sáng tỏ trên phương diện lí luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa tin đồn và báo chí. Góp phần làm cho lí luận báo chí trở nên gần gũi hơn, hiệu quả hơn trong việc xử lí những tác động của cơ chế tin đồn. Luận văn là đề tài nghiên cứu đầu tiên, có thể đặt cơ sở cho những đề tài nghiên cứu khác về sự tác động của cơ chế tin đồn và việc xử lí tin đồn của các cơ quan báo chí. - Ý nghĩa thực tiễn Luận văn giúp cho những người làm công tác quản lí báo chí nắm bắt được cơ chế hoạt động của tin đồn, dự đoán được xu hướng để có những ứng xử kịp thời nhằm hạn chế tác động tiêu cực của tin đồn. Cung cấp những thông tin cần thiết để tòa soạn có những định hướng trong việc tiếp nhận thông tin và chuyển tải thông tin. Cung cấp kinh nghiệm cho những người làm báo trong việc xử lí những sự kiện xã hội chịu ảnh hưởng bởi tin đồn. Luận văn nêu ra những giải pháp và đề xuất kiến nghị nhằm góp phần hạn chế và khắc phục hậu quả của tin đồn. Luận văn còn có ý nghĩa đối với bản thân học viên, góp phần giúp tác giả tự nâng cao trình độ và biết cách tổ chức một công trình khoa học. 7. Kết cấu Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn có ba chương sau: Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về tin đồn trên báo chí Chương 2: Khảo sát bốn sự kiện chịu ảnh hưởng bởi tin đồn trong hai năm 2007 -2008. Chương 3: Một số giải pháp hạn chế tác động của tin đồn trên báo chí hiện nay. Sau những nội dung chính nêu trên, cuối luận văn còn có phần phụ lục, tập hợp một số bài báo có liên quan đến công trình nghiên cứu này. 9 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TIN ĐỒN TRÊN BÁO CHÍ 1.1. Tin đồn và đặc điểm của tin đồn 1.1.1. Khái niệm về tin đồn và cơ chế tin đồn - Khái niệm tin đồn: Theo Từ điển tiếng Việt phổ thông, tin đồn là “tin được truyền miệng cho nhau một cách không chính thức, không rõ nguồn gốc và không có sự đảm bảo về tính chính xác” [16, 232 ] Theo Allport và Postman, hai nhà tâm lý học xã hội người Mỹ thì tin đồn là “một sự khẳng định về một chủ thể được quan tâm mà không có đủ bằng chứng đáng tin cậy được đưa ra”. Trong tin đồn thông thường có một phần được cho là sự thật [37, 54 ]. Tin đồn là một sản phẩm tâm lí xã hội, vì thế nó phụ thuộc nhiều vào trạng thái tâm lí của người tiếp nhận và người đưa tin. Chính vì vậy, trong những bối cảnh hoảng loạn, thiếu thông tin, bao giờ cũng nảy sinh nhiều tin đồn. Tốc độ lan truyền của tin đồn tỷ lệ thuận với tầm quan trọng và sự mập mờ của tin đồn đó. Nói cách khác, vấn đề mà tin đồn đề cập đến càng quan trọng, càng hấp dẫn với cá nhân bao nhiêu, càng mơ hồ bao nhiêu thì càng xuất hiện nhiều tin đồn bấy nhiêu. Theo đó, chúng tôi quan niệm tin đồn là thông tin được truyền miệng một cách không chính thức, không có căn cứ chính xác và được nhiều người quan tâm. Tin đồn thường là thông tin được nhiều người quan tâm, vì vậy những vấn đề mà tin đồn hướng tới thường rất phong phú. Xét trên bình diện mức độ biểu hiện, tin đồn chia thành hai loại: Tin đồn dễ phát hiện và tin đồn khó phát hiện. Xét trên bình diện giá trị, tin đồn có hai loại: tin đồn dễ xử lí và tin đồn khó xử lí. Nhưng xét về lĩnh vực thì tin đồn lại chia thành nhiều nhóm: tin đồn chính trị, tin đồn kinh tế và tin đồn văn hóa- xã hội... 10 - Cơ chế tin đồn Theo Từ điển Tiếng Việt, cơ chế là “cách thức theo đó một quá trình thực hiện” [27, 245]. Như vậy, cơ chế có thể được hiểu là một quá trình và cách thức diễn ra hay thực hiện của một hiện tượng xã hội, quá trình và cách thức ấy bao gồm các công đoạn và mối quan hệ giữa chúng theo một trật tự logic nhằm hướng tới một mục tiêu nào đó. Như vậy, tìm hiểu cơ chế tức là tìm hiểu các yếu tố, công đoạn và trình tự diễn ra cũng như mối quan hệ chặt chẽ quy định lẫn nhau giữa các yếu tố và công đoạn ấy. Nhưng trong khi nghiên cứu các vấn đề xã hội, việc mô tả các hiện tượng xã hội, các sự kiện xã hội cũng như cơ chế tác động của nó thường rất khó khăn vì tính phức tạp, đa chiều của nó trong các mối quan hệ. Do đó, khi nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi đã trừu tượng hóa một số yếu tố cũng như mối quan hệ để có thể thống kê những ảnh hưởng của tin đồn đối với các sự kiện xã hội thông qua báo chí, để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hạn chế sự tác động của cơ chế tin đồn. Vì tin đồn thường là những vấn đề được nhiều người quan tâm, nên ngay sau khi xuất hiện, nó thường lan truyền rất nhanh và có tác động không nhỏ đến đời sống xã hội. Khi có tin đồn về tăng giá hay thiếu hụt hàng hóa nào đó, đồng thời với việc người dân chen chúc nhau, đổ xô đi mua mặt hàng đó, thì tin đồn dường như trở thành sự thật, và ngày càng có nhiều người tham gia củng cố và lan truyền tin đồn ấy. Nếu tất cả mọi người đều đổ xô đi mua và tích trữ hàng hóa đó thì tất yếu dẫn đến sự thiếu hụt, cửa hàng hết hàng hóa và người dân lại càng có động cơ đi mua và tích trữ hơn. Và như vậy, trên thực tế sẽ xuất hiện tình trạng thiếu hụt một cách giả tạo, tin đồn ban đầu dần trở thành hiện thực. Tin đồn Ngân hàng ACB giải thể chính là ví dụ cụ thể cho luận điểm này. Nếu những người gửi tiền mất niềm tin vào ngân hàng vì bất cứ lý do gì (có thể do tin đồn thất thiệt) mà đổ xô đi rút tiền gửi của mình tại một ngân hàng thì ngân hàng ấy chắc chắn sẽ đổ, dù tình hình của nó có lành mạnh đến thế nào. 11 Nghiên cứu về cơ chế lan truyền của tin đồn, hai nhà tâm lí học xã hội người Mĩ Allport và Postman đã tiến hành nghiên cứu cơ chế truyền tin này trong phòng thí nghiệm. Phương pháp của các nhà nghiên cứu khá đơn giản. Đầu tiên là đưa thông tin cho người thứ nhất và yêu cầu người này truyền tin cho người thứ hai với chỉ dẫn là “thuật lại tất cả chính xác nhất có thể” với khoảng 20 chi tiết. Sau đó người thứ nhất về chỗ ngồi và người thứ ba vào nghe người thứ hai kể. Mỗi người sau đó vào nghe và thuật lại câu chuyện theo cách tương tự. Như vậy, có thể quan sát sự sai lệch thông tin của tin đồn bằng cách so sánh những lần kể lại kế tiếp. Tuy nhiên, bản thân Allport và Postman cũng nhận thấy có những yếu tố làm cho quá trình lan tỏa thông tin trong thí nghiệm khác với quá trình lan tỏa của nó trong cuộc sống thực hàng ngày: Sự ảnh hưởng của người đứng ra làm thí nghiệm (chủ tọa) là đáng kể, nó có khuynh hướng tạo ra sự thận trọng và rút ngắn hơn bản tường thuật. Khi không có người làm thí nghiệm, người tham gia thí nghiệm đưa ra số lượng chi tiết gấp hai lần so với khi có người thí nghiệm. Có 4 lí do dẫn đến hiện tượng này. Một là: Ảnh hưởng của lời chỉ dẫn khiến người tham gia thí nghiệm chính cẩn trọng hơn và đưa ra thông tin chính xác tối đa. Trong sự lan tỏa tin đồn thực tế, không có người quan sát để xem liệu chuyện phiếm kể lại có đúng không. Hai là: Không có cơ hội cho người được nghiên cứu đặt câu hỏi lại người truyền thông tin. Bình thường, sự lan tỏa tin đồn, người nghe có thể bàn tán với người đưa tin, và nếu anh ta muốn kiểm tra chéo lại anh ta. Ba là: Khoảng cách thời gian giữa người nghe và nói lại trong tình huống thí nghiệm là rất ngắn. Trong quá trình lan tỏa tin đồn bình thường, nó là rất lớn. Bốn là: Trong nghiên cứu, động cơ để đưa tin đồn không rõ ràng. Người được nghiên cứu cố gắng miêu tả chính xác. Hay nói cách khác, anh ta không 12 phải là tác nhân tự phát như anh ta vẫn làm trong cuộc sống hàng ngày. Sự góp mặt trong việc truyền đạt tin đồn ở thí nghiệm không mang tính cá nhân và cũng không có động cơ sâu sắc. [37, 60]. Như vậy, về cơ bản chúng ta thấy quy luật lan tỏa của tin đồn trong phòng thí nghiệm và ngoài đời là giống nhau: đều là quá trình “bóp méo” thông tin một cách tự nhiên. Tuy nhiên, trên thực tế, tin đồn trong đời sống thường thiếu chính xác hơn vì người đưa tin không bị ảnh hưởng và không phụ thuộc vào các điều kiện thí nghiệm như trong nghiên cứu của Allport và Postman. 1.1.2. Đặc điểm của tin đồn - Tin đồn là thông tin truyền miệng Tin đồn có thể xuất hiện từ một sự kiện có thực bị làm méo mó đi ít nhiều trong quá trình truyền tin, hoặc cũng có thể xuất hiện từ những thông tin hoàn toàn do tưởng tượng ra nhưng được tổ chức theo những quy luật tâm lí nhất định. Tin đồn được truyền từ người này sang người khác làm cho các chi tiết bị quên lãng hoặc nhớ thiếu chính xác. Các ngôn từ bị thay thế khi kể truyền tiếp. Nội dung và cách hiểu câu chuyện phụ thuộc nhiều vào đặc điểm cá nhân mỗi người… vì thế, tin đồn thường bị méo mó, sai lệch, thiếu chính xác. Có thể coi tin đồn là sự khẳng định chung về một điều gì đó có vẻ như là thật, nhưng thiếu các dữ kiện cụ thể cho phép kiểm tra độ chính xác (không giống như cách truyền tin bằng văn bản). Câu chuyện của nhà văn Andecxen chính là ví dụ cụ thể và sinh động cho đặc điểm này của tin đồn. Tin đồn không phải bao giờ cũng sai, nhưng nó là thông tin không chính thức. Vì vậy, để tin đồn có thể truyền đi được, chủ thể truyền tin phải nhào nặn sao cho tin đồn như là có thật, tổ chức thông tin sao cho nó hấp dẫn và có độ tin cậy ở một mức độ nào đó và phải được người nghe mong đợi. Quá trình này được lặp đi lặp lại theo phương thức truyền miệng, do đó, tin đồn ngày càng bị “tam sao thất bản”. 13 Nhiều ngày liên tiếp đầu tháng 6 năm 2009, hàng trăm người dân thị xã Bạc Liêu ùn ùn kéo nhau đi xem “mộ cổ” có hàng trăm năm tuổi ở khóm 5, phường 1. Người ta kháo nhau rằng, ngôi mộ này rất linh thiêng, cầu gì được nấy và mang lại “vinh hoa phú quý”! Nhưng trên thực tế đây chỉ là hai ngôi mộ của người dân bình thường bị bỏ hoang... Trước đó, người dân nườm nượp đổ xô về ngôi đền cổ ở xã Cao Ngạn, thành phố Thái Nguyên để hứng “nước thần” tiết ra từ cây hoa sữa cổ thụ. Thực tế cho thấy, tại thời điểm đó thời tiết ẩm thấp, sương đêm tích tụ trên các tán lá ở tầng cao nhỏ thành dòng xuống tầng lá thấp. Trên cây hoa sữa này có hàng nghìn con ve sầu, nước giải của nó hòa với nước sương tạo nên hiện tượng như vậy, chứ hoàn toàn không phải là “nước thần”. Cả hai câu chuyện trên đều bắt nguồn từ tin đồn. Người nọ “rỉ tai” người kia. Mỗi người “dệt thêu” thêm một chút nên sự việc ngày càng được thần thánh hóa khiến người ta bán tín bán nghi và biến mình trở thành nạn nhân của hiện tượng mê tín dị đoan. Do thông tin truyền miệng một cách dễ dàng nên nó lan tỏa rất nhanh và gây ra bao phiền toái, hệ lụy. Người dân bỏ bê công việc làm ăn, thậm chí không ít người làm khổ chính mình. Chính quyền cơ sở và các lực lượng chức năng phải tập trung nhiều thời gian để vừa tích cực giải thích, tuyên truyền, vận động, giải tán đám đông, vừa tăng cường lực lượng giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội. Phải một thời gian sau đó, tin đồn mới đi qua, nhưng cũng để lại không ít hậu quả. Cuộc sống của người dân bị xáo trộn. Nhiều người rơi vào tình trạng hoang mang khi có quá nhiều người truyền tai nhau về những thông tin chưa được kiểm chứng... - Tin đồn thường không có căn cứ chính xác Do tính chất truyền miệng, nên hậu quả là tin đồn thường không có căn cứ chính xác. Tin đồn được truyền miệng từ người này sang người kia làm cho các chi tiết bị lãng quên hoặc bị nhớ sai. Mỗi cá nhân nhận thức câu chuyện dựa trên hiểu biết riêng và lựa chọn ngôn từ khác nhau khi kể khiến nội dung 14 của câu chuyện có thể bị sai lệch... vì thế tin đồn ban đầu so với tin đồn sau đó thường bị méo mó và không còn chính xác. Có nhiều nguyên nhân gây ra tin đồn, trong đó phải kể đến chính bản thân thông tin không có độ chính xác cao và khó có khả năng kiểm chứng. Vì vậy, mỗi lần thông tin được truyền tải lại được tổ chức theo ý chủ quan của người nghe. Đó chính là nguyên nhân làm tin bị méo mó. Ngoài ra, xu hướng nhìn nhận ở mỗi người là khác nhau, trong đó các cá nhân thường có xu hướng nhớ những thông tin, chi tiết gần gũi với kinh nghiệm hiểu biết của mình, và khi truyền thông tin, các cá nhân thường cố gắng thuyết phục người nghe tin vào mình, nên họ thường thêm thắt các cứ liệu cho có vẻ đáng tin cậy. Điều này cho thấy bản chất tin đồn đã chi phối người truyền tin làm cho thông tin càng trở nên không có căn cứ chính xác. Ngay sau khi xuất hiện tin đồn về Vinaconex, từ câu chuyện liên quan đến phát hành cổ đông lớn đến chuyện về một dự án hấp dẫn khác, thị trường lại nóng lên bởi những thông tin không rõ nguồn gốc về Tổng Giám đốc tập đoàn Vincom... Trong vô vàn tin tức vỉa hè ấy, có thông tin sau khi được kiểm chứng hóa ra lại chính xác, khiến cho nhà đầu tư khó cưỡng lại sự hấp dẫn của những tin tức cùng loại. Chính điều này đã gây tâm lí hoang mang cho nhà đầu tư trong việc trả lời câu hỏi tin hay không tin. Rất khó để xác minh được thông tin nào là do sự suy đoán thiếu hiểu biết, tin đồn nào được tung ra với mục đích “tung hứng” giá chứng khoán. Những trường hợp như Vinaconex... nhà đầu tư đã nhanh chóng được phản hồi từ phía doanh nghiệp, báo chí. Nhưng với những trường hợp còn lại, làm sao để nhà đầu tư nhanh chóng xác minh tính thật, giả của vấn đề, nếu cơ quan quản lí, doanh nghiệp không nhận diện nhanh để có thể phản ứng kịp thời? - Tin đồn là thông tin được nhiều người quan tâm Như đã nói ở trên, vấn đề mà tin đồn đề cập đến càng quan trọng, càng hấp dẫn với cá nhân bao nhiêu thì càng xuất hiện nhiều tin đồn bấy nhiêu. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan