Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phân tích tín hiệu điện tim loạn nhịp [tt]...

Tài liệu Phân tích tín hiệu điện tim loạn nhịp [tt]

.PDF
20
577
55

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu luận án Tố tụng hình sự là lĩnh vực hoạt động đặc biệt, thể hiện quyền lực của Nhà nước nhằm mục đích xử lý những hành vi được cho là tội phạm, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong lĩnh vực này, việc hạn chế một số quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là điều khó có thể tránh khỏi, thậm chí các quyền và lợi ích hợp pháp đó có thể bị xâm phạm một cách nghiêm trọng nếu các cơ quan, người được Nhà nước giao thực hiện một số quyền tố tụng không tuân thủ những quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành đã quy định nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội; bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, theo đó nghiêm cấm mọi hình thức bức cung, nhục hình. Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và tài sản. Các quy định về tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự tương đối đầy đủ theo hướng bảo đảm quyền của công dân nói chung và quyền của bị can, bị cáo nói riêng. Bên cạnh những quy định tiến bộ như đã nêu ở trên, một số quy định về quyền của bị can, bị cáo trong BLTTHS và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan chưa đầy đủ, chặt chẽ; chưa phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế và một số nước có nền tư pháp hình sự tiến bộ trên thế giới; chế độ tạm giam, tạm giữ, các quy định về việc thay đổi, áp dụng các biện pháp ngăn chặn; các quy định về cơ quan THTT, người THTT, người tham gia tố tụng; vấn đề thu thập chứng cứ cũng còn nhiều điểm bất cập làm ảnh hưởng đến quyền và cơ chế thực hiện quyền của bị can, bị cáo. Mặt khác, ở một số địa phương còn xảy ra tình trạng người tiến hành tố tụng lợi dụng sự thiếu chặt chẽ của pháp luật TTHS, đã lạm dụng quyền lực được giao xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo; công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan THTT vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập; cụ thể: một số địa phương chưa tạo điều kiện thuận lợi để người bào chữa tham gia tố tụng làm ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo; chế độ tạm giữ, tạm giam chưa bảo đảm theo quy định của pháp luật; thời hạn điều tra còn kéo dài, tình trạng hoàn trả hồ sơ giữa các cơ quan THTT mặc dù đã được hạn chế nhưng vẫn chiếm tỷ lệ tương đối cao; tỷ lệ bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam còn chiếm tỷ lệ lớn; số vụ án, bị can bị khởi tố sau phải đình chỉ điều tra mặc dù đã có xu hướng giảm nhưng vẫn còn nhiều, cá biệt vẫn còn xảy ra trường hợp oan sai, phải đình chỉ điều tra bị can vì không phạm tội. Điều này càng trở nên cần thiết hơn khi Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã có chỉ đạo: Hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính 2 đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo đảm quyền con người. Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa 13 đã thông qua Hiến pháp năm 2013, đã khẳng định sự kế thừa có chọn lọc những giá trị bất biến về quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong các Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và các bản Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam trước đây. Trong nhiều nội dung mới được ghi nhận, lần đầu tiên, vấn đề quyền con người đã được Hiến pháp đề cập một cách trực tiếp, tách bạch và không đồng nhất với quyền công dân và đưa lên Chương 2 của Hiến pháp năm 2013 (Trong Hiến pháp 1992, vấn đề này được quy định tại Chương 5 về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân). Đây cũng là một điểm mới, thể hiện tầm quan trọng của quyền con người trong Hiến pháp. Việc ghi nhận quyền con người trong Hiến pháp đã đảm bảo phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước ta tham gia ký kết. Hiến pháp đã làm rõ hơn các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân. Thực trạng trên cho thấy có nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra phải được lý giải một cách đầy đủ, toàn diện về quyền của bị can, bị cáo trong TTHS. Pháp luật TTHS cần phải được quy định chặt chẽ hơn theo hướng mở rộng các quyền của bị can, bị cáo; đồng thời phải có các quy định nhằm bảo đảm việc thực hiện quyền của bị can, bị cáo trong quá trình tham gia tố tụng; hạn chế đến mức thấp nhất việc lạm dụng quyền lực của người tiến hành tố tụng làm ảnh hưởng đến quyền của bị can, bị cáo nói riêng và của công dân nói chung. Theo nghiên cứu của nghiên cứu sinh, đến nay mới chỉ có các nghiên cứu ở cấp độ Thạc sĩ, Tiến sĩ, đề tài khoa học cấp Bộ, các bài nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành của các nhà khoa học, những người làm công tác thực tiễn về quyền con người, quyền con người trong TTHS nói chung, hoặc chỉ đề cập đến một khía cạnh hẹp của vấn đề mà chưa có công trình nào nghiên cứu trực diện, chuyên sâu về quyền của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Bởi các lý do trên, việc nghiên cứu đề tài Hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của bị can, bị cáo là hết sức cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, nghiên cứu sinh chọn đề tài trên làm luận án Tiến sĩ của mình. Việc nghiên cứu đề tài này nhằm đáp ứng với yêu cầu về chiến lược cải cách tư pháp của Đảng, phù hợp với định hướng sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003 của Nhà nước, phù hợp với các quy định trong Hiến pháp năm 2013 cũng như yêu cầu hội nhập quốc tế. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng quyền của bị can, bị cáo được quy định trong BLTTHS Việt Nam, luận án đưa ra những kiến nghị hoàn thiện quy định của BLTTHS về quyền của bị can, bị cáo. Luận án cũng nghiên cứu và đưa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của BLTTHS về bảo đảm quyền của bị can, bị cáo. 3 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án: Để đạt được những mục đích trên, luận án đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau: Một là, nghiên cứu làm rõ khái niệm bị can, bị cáo; khái niệm quyền của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam; phân tích nội dung, đặc điểm, cơ chế hình thành các quyền của bị can, bị cáo; từ đó đưa ra khái niệm hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo. Hai là, khái quát hóa các quy định về quyền của bị can, bị cáo trong lịch sử TTHS Việt Nam từ năm 1945 đến nay; quyền của bị can, bị cáo trong pháp luật quốc tế và pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới. Ba là, nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng quy định của BLTTHS có liên quan đến quyền của bị can, bị cáo và tìm ra những hạn chế, bất cập trong các quy định này. Bốn là, nghiên cứu, làm rõ thực trạng thi hành những quy định của pháp luật TTHS về quyền của bị can, bị cáo, cụ thể: bằng việc nghiên cứu các số liệu thống kê, báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề của các cơ quan tư pháp trung ương từ 01/7/2004 đến hết năm 2014; nghiên cứu các bản án, quyết định của Tòa án; khảo sát, điều tra xã hội học đối với người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và công dân; tổ chức các Hội thảo khoa học để lấy ý kiến của các chuyên gia… Luận án chỉ ra những hạn chế, vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn thực hiện quyền của bị can, bị cáo và nguyên nhân của nó; từ đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện BLTTHS về quyền của bị can, bị cáo cũng như các quy định bảo đảm đảm thực hiện quyền của bị can, bị cáo. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu các quy định trong BLTTHS liên quan đến quyền của bị can, bị cáo và những quy định bảo đảm thực hiện quyền của bị can, bị cáo. Nghiên cứu thực tiễn thực hiện quyền của bị can, bị cáo trong quá trình tiến hành tố tụng. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Về nội dung: Luận án nghiên cứu các quy định của BLTTHS hiện hành liên quan đến quyền của bị can, bị cáo phát sinh từ khi có quyết định khởi tố bị can đến khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc bị can, bị cáo được đình chỉ theo quy định của BLTTHS; nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật của các cơ quan THTT trong việc thực hiện quyền của bị can, bị cáo. Luận án cũng nghiên cứu những quy định về quyền của bị can, bị cáo trước và sau khi có BLTTHS năm 1988; nghiên cứu quy định về quyền của bị can, bị cáo trong pháp luật quốc tế và một số nước trên thế giới để tìm ra những điểm tiến bộ, phù hợp với truyền thống pháp luật của Việt Nam. Luận án không nghiên cứu các quyền cơ bản của công dân; không 4 nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân, Viện kiểm sát quân sự và Tòa án quân sự. Về không gian, thời gian: Việc nghiên cứu thực tiễn thi hành những quy định của BLTTHS được nghiên cứu trên phạm vi cả nước, trong khoảng thời gian từ khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực cho đến hết năm 2014. Luận án sử dụng các báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề của ngành Toà án, Viện kiểm sát, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương; số liệu thống kê của TAND tối cao, VKSND tối cao và một số tỉnh, thành phố; những nguồn thông tin về thực tiễn tố tụng trong các báo cáo chuyên đề của các ngành Toà án, Viện kiểm sát và các nguồn thông tin khác. 4. Phương pháp nghiên cứu của luận án Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm, chủ trương, đường lối chính sách của Đảng về chiến lược cải cách tư pháp, chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật đến năm 2020. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm có: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp quy nạp và so sánh, điều tra xã hội học, khảo sát thực tiễn, tổ chức hội thảo khoa học... để làm rõ các nội dung nghiên cứu. Trong đó phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp quy nạp và so sánh được sử dụng chủ yếu trong các nội dung nghiên cứu về tổng quan về tình hình nghiên cứu luận án và những vấn đề lý luận về quyền của bị can, bị cáo (Chương 1, Chương 2); phương pháp thống kê, điều tra xã hội học, khảo sát thực tiễn, tổ chức hội thảo khoa học... được sử dụng chủ yếu trong việc nghiên cứu thực trạng và đề xuất hoàn thiện pháp luật (Chương 3, chương 4). 5. Những đóng góp mới và ý nghĩa khoa học, thực tiễn của luận án Luận án sẽ góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về quyền của bị can, bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chỉ rõ những điểm chưa chặt chẽ, những điểm còn hạn chế trong các quy định của BLTTHS hiện hành về quyền của bị can, bị cáo. Đề xuất sửa đổi, bổ sung toàn diện các quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 liên quan đến quyền của bị can, bị cáo trong quá trình tiến hành tố tụng. Luận án góp phần tạo ra nhận thức đúng đắn, đầy đủ cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng về quyền của bị can, bị cáo; từ đó giúp cho những người tiến hành tố tụng hiểu và vận dụng các quy định của pháp luật một cách chính xác, khách quan về quyền của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Các nghiên cứu của luận án sẽ là nguồn tài liệu mang tính chất lý luận và thực tiễn để các cơ quan có trách nhiệm trong việc sửa đổi BLTTHS nghiên cứu, xem xét trong quá trình sửa đổi, bổ sung toàn diện BLTTHS năm 2003. 5 Kết quả nghiên cứu luận án cũng sẽ là nguồn tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo luật và đào tạo nghiệp vụ có liên quan đến quyền của bị can, bị cáo. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận án gồm 4 Chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2. Những vấn đề lý luận hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của bị can, bị cáo Chương 3. Thực trạng quyền của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam Chương 4. Kiến nghị hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam 6 NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN ÁN Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Qua nghiên cứu các công trình, đề tài, bài nghiên cứu trong nước về quyền của bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam đã được công bố mà nghiên cứu sinh được tiếp cận cho thấy các tác giả chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu khái niệm về quyền con người, nghiên cứu việc bảo đảm quyền con người của những người tham gia tố tụng trong hoạt động tư pháp nói chung (Nguyễn Quang Hiền, Đinh Thế Hưng). Một số nhà khoa học tập trung nghiên cứu về quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS (PGS.TS. Phạm Hồng Hải, PGS.TS. Nguyễn Thái Phúc, TS. Lại Văn Trình…). Nội dung các công trình này ngoài việc đề cập đến quyền con người trong TTHS nói chung còn đề cập tương đối sâu về vấn đề bảo đảm quyền của bị can, bị cáo trong TTHS. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu quá rộng, chủ yếu xuất phát từ việc phân tích quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tố tụng mà chưa nghiên cứu sâu nội dung và cơ chế bảo đảm quyền của bị can, bị cáo trong TTHS. Có công trình lại tập trung nghiên cứu từng giai đoạn tố tụng, nghiên cứu các quy định của TTHS trong từng giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự (GS.TSKH Lê Văn Cảm, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí). Dưới giác độ người bào chữa, một số tác giả nghiên cứu các quy định về quyền của người bào chữa, các cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của người bào chữa nhằm mục đích bảo đảm các quyền con người của các chủ thể tham gia tố tụng nói chung, quyền của bị can, bị cáo nói riêng (PGS.TS. Phạm Hồng Hải, Nguyễn Quang Hiền…). Trong một số công trình khoa học khác, các nhà khoa học lại nghiên cứu sâu về từng lĩnh vực hoặc về từng đối tượng tham gia tố tụng khác nhau, như vấn đề bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt, tạm giữ, tạm giam (PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn, Nguyễn Tiến Đạt). Tuy nhiên, qua nghiên cứu các công trình nghiên cứu pháp luật TTHS Việt Nam, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, trực diện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của bị can, bị cáo và vấn đề bảo đảm thực hiện quyền của bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam để đưa ra kiến nghị hoàn thiện về mặt pháp luật. 1.2. Tình hình nghiên cứu pháp luật quốc tế và pháp luật tố tụng hình sự của một số nước về quyền của bị can, bị cáo ở trong và ngoài nước Qua nghiên cứu các công trình, tài liệu, bài nghiên cứu về quyền của bị can, bị cáo trong pháp luật quốc tế và pháp luật TTHS một số nước cho thấy hầu hết công trình đều mới chỉ nghiên cứu về quyền và bảo đảm quyền con người nói chung trong pháp luật quốc tế; quyền và bảo đảm quyền con người trong pháp luật TTHS của một số nước trên thế giới, hoặc nghiên cứu về việc bảo đảm thực hiện quyền con 7 người của một hoặc một vài chủ thể đặc biệt như người bị bắt, tạm giam. Những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở phạm vi phân tích những quy định thực định của pháp luật quốc tế, những quy định của pháp luật TTHS một số nước như Liên Bang Nga, Liên bang Đức, Bang New Soulth Wales (Australia)... mà không có sự so sánh, đối chiếu với pháp luật TTHS Việt Nam, tìm ra những điểm tương đồng, phù hợp với truyền thống pháp luật của Việt Nam và thông lệ quốc tế, từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003 theo hướng hoàn thiện các quy định về quyền và bảo đảm quyền của bị can, bị cáo nói riêng và quyền của các chủ thể tham gia tố tụng nói chung. Tóm lại: Kết quả nghiên cứu phần tổng quan, nghiên cứu sinh thấy cần tiếp tục nghiên cứu và tập trung giải quyết một số vấn đề sau: Về lý luận, luận án cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ: Khái niệm bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự; khái niệm quyền của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự; khái niệm hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của bị can, bị cáo; đặc điểm về quyền của bị can, bị cáo trong TTHS. Nghiên cứu các quy định về quyền của bị can, bị cáo trong lịch sử TTHS Việt Nam; nghiên cứu pháp luật TTHS quốc tế và pháp luật TTHS của một số nước trên thế giới về quyền của bị can, bị cáo và cơ chế đảm bảo thực hiện. Từ đó tìm ra những điểm hạn chế của pháp luật TTHS Việt Nam, những điểm tiến bộ của pháp luật quốc tế và pháp luật TTHS một số nước trên thế giới tương đồng, phù hợp với truyền thống pháp luật Việt Nam để đề xuất hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo cho phù hợp với pháp luật quốc tế. Về thực tiễn, các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu gồm: Nghiên cứu thực trạng quy định về quyền của bị can, bị cáo trong BLTTHS năm 2003; thực trạng thực hiện quyền của bị can, bị cáo để tìm ra những hạn chế, bất cập trong các quy định và thực trạng thực hiện quyền của bị can, bị cáo. Đề tài luận án cũng cần nghiên cứu, làm rõ thực trạng thực hiện những quy định của pháp luật TTHS trong việc bảo đảm quyền của bị can, bị cáo; tìm ra những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân những hạn chế, vướng mắc đó để làm cơ sở cho việc đề xuất hoàn thiện các quy định về quyền và bảo đảm thực hiện các quyền được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật: Từ kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận án phải đưa ra những đề xuất sửa đổi, bổ sung toàn diện các quy định về quyền của bị can, bị cáo trong BLTTHS; đồng thời, để bảo đảm việc thực hiện quyền của bị can, bị cáo trong thực tiễn, luận án cần đề xuất hoàn thiện một số quy định về bảo đảm thực hiện quyền của bị can bị cáo trong Bộ luật tố tụng hình sự. Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ QUYỀN CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO 2.1. Khái niệm, đặc điểm quyền của bị can, bị cáo và khái niệm hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của bị can, bị cáo 8 Từ việc nghiên cứu, phân tích các quy định, khái niệm về bị can, bị cáo trong các văn bản quy phạm pháp luật từ trước và sau khi ban hành BLTTHS năm 1988 như Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946, Thông tư 16/TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân dân tối cao, BLTTHS năm 1988 (Điều 34), BLTTHS năm 2003 (Điều 49, 50)… Các quan điểm của các nhà khoa học về quyền tự nhiên của con người, cơ chế hình thành các quyền của bị can, bị cáo; đặc điểm của các quyền của bị can, bị cáo; cơ sở và ý nghĩa của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về quyền của bị can, bị cáo. Luận án đã đưa ra các khái niệm bị can, bị cáo; khái niệm quyền của bị can, bị cáo và khái niệm hoàn thiện quy định của pháp luật TTHS về quyền của bị can, bị cáo. 2.2. Cơ sở và ý nghĩa của việc hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của bị can, bị cáo Trên cơ sở phân tích những quy luật về chính trị - xã hội, kinh tế, văn hóa, pháp luật và lịch sử - truyền thống đang tồn tại trong xã hội Việt Nam, cũng như nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS và thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS cho thấy việc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về quyền của bị can, bị cáo trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền phải được xây dựng dựa trên 5 cơ sở khoa học – thực tiễn dưới đây: Một là: Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về quyền của bị can, bị cáo phải đáp ứng được các yêu cầu cấp bách của xã hội nói chung và thực tiễn bảo đảm quyền của bị can, bị cáo trong quá trình THTT nói riêng. Hai là: Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về quyền của bị can, bị cáo phải dựa trên cơ sở lý luận của chuyên ngành Luật TTHS được làm sáng tỏ một cách xác đáng, khách quan và bảo đảm tính thuyết phục với tư duy pháp lý mới tiến bộ, dân chủ. Ba là: Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về quyền của bị can, bị cáo phải bảo đảm sự phù hợp với các nguyên tắc và quy phạm được thừa nhận chung của pháp luật quốc tế trong TTHS, đồng thời phải dựa trên các tư tưởng pháp chế và nhân đạo của Nhà nước pháp quyền và tự do của con người. Bốn là: Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về quyền của bị can, bị cáo phải bảo đảm được sự kết hợp hài hòa các giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc với những thành tựu tiên tiến của khoa học pháp lý trên thế giới. Năm là:Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về quyền của bị can, bị cáo phải được tiến hành một cách đồng bộ với việc sửa đổi, bổ sung toàn diện các quy định về quyền cũng như các quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền của bị can, bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Trước yêu cầu của cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu để làm rõ các luận điểm khoa học về những nguyên tắc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về quyền của bị can, bị cáo có ý nghĩa nhận thức khoa học và ý nghĩa thực tiễn quan trọng trên ba bình diện chủ yếu dưới đây: 9 Về mặt lập pháp: Nghị quyết 08-NQ/TW được ban hành từ năm 2002 đến nay đã được 13 năm; Nghị quyết 48-NQ/TW, Nghị quyết 49-NQ/TW ban hành từ năm 2005 đến nay đã được 10 năm, trong đó có rất nhiều nội dung yêu cầu cải cách tư pháp liên quan đến mở rộng quyền và bảo đảm thực hiện quyền con người nói chung, quyền của bị can, bị cáo trong TTHS nói riêng như vấn đề nâng cao chất lượng tranh tụng, mở rộng quyền và bảo đảm quyền bào chữa, cải cách thủ tục xét xử, cơ chế giám sát trong TTHS... Tuy nhiên, cho đến nay có rất nhiều những vướng mắc, bất cập liên quan đến nội dung này trong BLTTHS năm 2003 vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Về mặt thực tiễn: xuất phát từ thực trạng quy định của pháp luật TTHS hiện hành về quyền và thực trạng thực hiện quyền của bị can, bị cáo cho thấy còn có nhiều bất cập, chưa đầy đủ so với quy định của pháp luật TTHS quốc tế, chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Trong khi đó, thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền tại các nước trên thế giới cho phép khẳng định một cách khách quan rằng nếu như trong TTHS các quyền con người nói chung và quyền của bị can, bị cáo nói riêng không được quy định đầy đủ, phù hợp và được bảo đảm thực hiện một cách nghiêm túc thì không thể nói đến sự thành công của công cuộc cải cách tư pháp nói riêng cũng như sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam nói chung. Về mặt lý luận: thực trạng trên đây đang đặt ra nhiệm vụ quan trọng và cấp bách là phải nghiên cứu để đưa ra những luận điểm khoa học để đề xuất hoàn thiện các quy định về quyền và các cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của bị can, bị cáo trong pháp luật TTHS hiện hành của Việt Nam bởi lẽ cho đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn diện về nội dung này. Như vậy, với những phân tích ở trên đã đặt ra sự cần thiết của việc nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt lý luận các luận điểm khoa học của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về quyền của bị can, bị cáo. Tóm tại: Bị can, bị cáo là những người tham gia tố tụng, có vị trí trung tâm trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Họ là đối tượng bị pháp luật coi là những người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm. Chính vì vậy, họ dễ bị xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Trong công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu làm rõ những khái niệm có liên quan đến quyền và thực hiện quyền của bị can, bị cáo; đặc điểm quyền của bị can, bị cáo trong TTHS; ý nghĩa của việc hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo. Đáng lưu ý là kết quả nghiên cứu lý luận về quyền của bị can, bị cáo đã đưa ra bốn khái niệm cơ bản: 1. Khái niệm bị can: Bị can là người bị tình nghi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã bị cơ quan có thẩm quyền khởi tố và đã có quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát để điều tra làm rõ hành vi phạm tội, chịu sự điều chỉnh của pháp luật 10 tố tụng hình sự và có nguy cơ bị áp dụng những biện pháp cưỡng chế cần thiết theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. 2. Khái niệm bị cáo: Bị cáo là người bị tình nghi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã bị buộc tội bằng bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố của Viện kiểm sát và được Tòa án quyết định đưa ra xét xử; phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật tố tụng hình sự và có nguy cơ bị áp dụng những biện pháp cưỡng chế cần thiết theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. 3. Khái niệm quyền của bị can, bị cáo: Quyền của bị can, bị cáo là những bảo đảm pháp lý được ghi nhận trong Bộ luật tố tụng hình sự cho phép người đã bị khởi tố về hình sự và người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử có thể sử dụng trong quá trình tham gia tố tụng hình sự. 4. Khái niệm hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo: Hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của bị can, bị cáo là tổng hợp các biện pháp đồng bộ nhằm đổi mới các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của bị can, bị cáo cho phù hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, phù hợp với các nguyên tắc và các quy phạm được thừa nhận chung của pháp luật quốc tế và truyền thống pháp luật của Việt Nam trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần nâng cao hiệu quả của sự điều chỉnh về mặt pháp luật, đảm bảo cho việc áp dụng thống nhất và chính xác các quy định đó trong thực tiễn. Các khái niệm này là cơ sở lý luận quan trọng cho việc kiến nghị hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo trong quá trình nghiên cứu luận án. Chương 3 THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 3.1. Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền của bị can, bị cáo 3.1.1. Khái quát các quy định về quyền của bị can, bị cáo trước khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có hiệu lực Nhìn lại lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam có thể thấy: ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945 đến nay, qua những thăng trầm của lịch sử, những quy định về quyền và bảo đảm quyền của bị can, bị cáo nói riêng và quyền của những người tham gia tố tụng hình sự nói chung được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và ngày càng được hoàn thiện. Tác giả đã nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của TTHS Việt nam qua các giai đoạn: - Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 2003, mặc dù đất nước còn rất nhiều khó khăn về kinh tế, chính trị, xã hội; nhưng quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia TTHS nói chung; quyền của bị can, bị cáo trong quá trình tiến hành tố tụng nói riêng. Đặc biệt, sự ra đời của BLTTHS năm 1988 là một bước phát triển lớn liên 11 quan đến việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng nói chung và bảo đảm quyền của bị can, bị cáo nói riêng. Điều này thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Xã hội chủ nghĩa và là cơ sở quan trọng trong việc xây dựng và phát triển các văn bản quy phạm pháp luật TTHS sau này. 3.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về quyền của bị can, bị cáo Theo quy định tại khoản 2 Điều 49, khoản 2 Điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; bị can, bị cáo có các quyền: được biết mình bị khởi tố về tội gì; được giải thích quyền và nghĩa vụ; trình bày lời khai; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; quyền được nhận quyết định khởi tố; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra bị can; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra vụ án; bản Cáo trạng, quyết định đưa vụ án ra xét xử, bản án và các quyết định tố tụng khác; quyền khiếu nại về việc tạm giữ; quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng... Ngoài các quyền trên bị can, bị cáo còn có các quyền khác như: Được bảo đảm các quyền công dân khác mà không bị pháp luật hạn chế hoặc nghiêm cấm khi bị tạm giữ hoặc bị xác định là bị can, bị cáo (Điều 4 BLTTHS); Bị can, bị cáo có quyền, nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội (Điều 10 BLTTHS); Được xét xử công khai, trừ trường hợp khác do BLTTHS quy định (Điều 18 BLTTHS); Được quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án (Điều 19 BLTTHS); Được sử dụng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình (Điều 24 BLTTHS); Được bồi thường thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra (Điều 30 BLTTHS). Đối với bị cáo còn có thêm các quyền: Quyền được xem biên bản phiên tòa, được yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận (Điều 200 BLTTHS); Quyền được nhận xét, hỏi thêm về những vấn đề có liên quan đến tài liệu, kết luận giám định của vụ án được công bố tại phiên tòa (Điều 214, Điều 215 BLTTHS)… 3.1.3. Quy định về quyền của bị can, bị cáo trong pháp luật quốc tế và một số nước trên thế giới – so sánh với pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam Vấn đề quyền của bị can, bị cáo trong pháp luật quốc tế chủ yếu được đề cập đến trong hai văn bản pháp lý quan trọng, đó là: Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (UDHR – The Universal Declaration of Human Right) được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua ngày 10/12/1948 tại Palais de Chailot, Paris (Pháp) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR – International Convenant on Civil and Political Rights) được Đại hội đồng liên hiệp quốc thông qua và để ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết số 2200 (XXII) ngày 16/12/1966 và có hiệu lực từ ngày 23/3/1976; Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982. 12 Theo pháp luật quốc tế, các nước thành viên phải chịu trách nhiệm về việc không tuân thủ nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm các quyền con người được công nhận không chỉ trong các hiệp định nước đó tham gia mà cả các văn bản pháp lý khác trên cơ sở của nguyên tắc Pacta Sunt Servanda. Như Tòa án liên Mỹ về nhân quyền giải thích trong vụ Velasquez, Việc vi phạm những quyền mà theo Luật quốc tế bị quy là hành động phạm pháp có thể quy trách nhiệm cho quốc gia mà thuật ngữ đó đề cập tới. Việt Nam gia nhập Công ước về quyền dân sự và chính trị năm 1966 vào ngày 24/9/1982, và để cụ thể hóa nghĩa vụ trong Công ước, Việt Nam đã ban hành và sửa đổi hệ thống pháp luật, trong đó có Bộ luật TTHS. Đây là một đạo luật liên quan trực tiếp đến những quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền của bị can, bị cáo bằng việc khẳng định những nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, BLTTHS Việt Nam hiện hành vẫn còn một số quy định bất cập ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo như việc tạm giữ, tạm giam; vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; những quy định về điều tra, truy tố, xét xử... Do đó, việc nghiên cứu, so sánh, phân tích các quy định về quyền và bảo đảm quyền của bị can, bị cáo trong pháp luật TTHS Việt Nam với luật pháp quốc tế và TTHS một số nước trên thế giới là một yêu cầu cần thiết, để từ đó tìm ra những ưu điểm của các quy định về thủ tục này trong pháp luật quốc tế và các nước trên thế giới; đồng thời làm rõ những hạn chế, bất cập trong các quy định về quyền và bảo đảm quyền của bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam, trên cơ sở đó xác định những phương hướng hoàn thiện các quy định này theo yêu cầu cải cách tư pháp. Luận án đã nghiên cứu và phân tích các quyền cụ thể của bị can, bị cáo được ghi nhận trong pháp luật quốc tế và pháp luật TTHS một số nước trên thế giới như: Quyền của bị can, bị cáo khi bị áp dụng biện pháp ngăn chặn; quyền không bị ép buộc phải làm chứng chống lại mình hoặc buộc tự thú là mình có tội; quyền được thông báo kịp thời của bị can, bị cáo bằng ngôn ngữ mà họ hiểu biết về bản chất và nguyên nhân của tội danh đó; quyền bình đẳng trước Tòa án và quyền được xét xử công bằng, khách quan; quyền được coi là vô tội cho đến khi có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án (suy đoán vô tội); quyền được tự mình bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên; quyền của bị can, bị cáo được áp dụng thủ tục rút gọn… Từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá các quy định của BLTTHS hiện hành về quyền của bị can, bị cáo tại mục 3.1.4. 3.2. Thực trạng thực hiện quyền của bị can, bị cáo ở Việt Nam Bên cạnh việc phân tích thực trạng quy định của BLTTHS năm 2003 về quyền của bị can, bị cáo. Qua nghiên cứu các báo cáo tổng kết, các báo cáo chuyên đề, số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Liên đoàn luật sư Việt Nam… từ năm 2004 đến 2014; qua kết quả khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội học, tổ chức Hội thảo… luận án đã phần nào làm rõ thực trạng thực hiện quyền của bị can, bị cáo ở Việt Nam trong 11 năm (từ năm 2004 đến hết năm 2014) như: Thực trạng thực hiện quyền tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa và quyền được trợ giúp pháp lý của bị can, bị cáo; thực trạng thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo; thực trạng thực hiện quyền được bồi thường oan sai 13 của bị can, bị cáo; thực trạng thực hiện quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên; thực trạng thực hiện quyền của bị can, bị cáo được giải quyết theo thủ tục rút gọn và thực trạng thực hiện các quyền khác của bị can, bị cáo. 3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện quyền của bị can, bị cáo Qua phân tích thực trạng quy định và thực trạng thực hiện quyền của bị can, bị cáo; luận án đã chỉ ra những nguyên nhân của những hạn chế, bất cập; trong đó có hai nguyên nhân chính là nguyên nhân về mặt pháp luật và nguyên nhân về mặt áp dụng pháp luật. 3.3.1. Nguyên nhân về mặt pháp luật Qua nghiên cứu thực trạng quy định và thực trạng áp dụng BLTTHS năm 2003 cho thấy: nguyên nhân khách quan chủ yếu là do những hạn chế, bất cập của các quy định của BLTTHS hiện hành về quyền của bị can, bị cáo, thể hiện ở một số nội dung sau: Thứ nhất: Một số nguyên tắc quan trọng định hướng cho việc quy định quyền của bị can, bị cáo như nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo; nguyên tắc tranh tụng... mặc dù được quy định rải rác trong một số Điều của BLTTHS nhưng không được áp dụng triệt để trong thực tiễn vì chưa được ghi nhận chính thức trong BLTTHS. Một số nguyên tắc đã được quy định nhưng chưa đầy đủ hoặc quy định còn chung chung, mang nặng tính hình thức, dẫn đến việc hạn chế quyền của bị can, bị cáo như nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án (Điều 10), nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự (Điều 13), nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể (Điều 17), nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự (Điều 23). Thứ hai: Các quy định về cơ quan THTT, người THTT, người tham gia tố tụng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập: việc phân chia các chủ thể TTHS thành chủ thể THTT và chủ thể tham gia tố tụng tạo ra sự bất bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa; chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát còn nhiều điểm bất hợp lý: Tòa án là cơ quan xét xử, đóng vai trò trọng tài lại có thẩm quyền khởi tố vụ án, có vai trò tích cực trong việc thẩm vấn bị cáo nhằm chứng minh chứng cứ buộc tội tại phiên tòa; tính độc lập của Tòa án để có một phán quyết công bằng chưa thực sự được bảo đảm ảnh hưởng đến quyền được xét xử công bằng của bị cáo; giới hạn xét xử của Tòa án quy định chưa hợp lý; thẩm quyền của người trực tiếp THTT như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán còn mờ nhạt. BLTTHS hiện hành cũng chưa ghi nhận hoặc ghi nhận chưa đầy đủ, rõ ràng các quyền của bị can, bị cáo so với quy định của pháp luật quốc tế cũng như pháp luật TTHS của một số nước tiên tiến trên thế giới như: quyền im lặng, quyền tiếp xúc với người bào chữa, quyền tự thu thập chứng cứ gỡ tội, quyền bào chữa hoặc tự mình bào chữa... Vấn đề người bào chữa trong TTHS cũng còn nhiều hạn chế, bất cập như: quy định về việc cấp giấy chứng nhận bào chữa (Điều 56); quy định về chỉ định người bào chữa (Điều 57); quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, theo đó 14 người bào chữa có khá nhiều quyền, nhưng không có chế tài quy định đối với người tiến hành tố tụng để bảo đảm thực hiện quyền của người bào chữa (Điều 58). 3.3.2. Nguyên nhân về áp dụng pháp luật Qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn; thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự... tác giả đã chỉ ra những hạn chế, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật TTHS về bảo đảm các quyền của bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự từ đó làm cơ sở cho việc đề xuất sửa đổi các quy định của BLTTHS về quyền của bị can, bị cáo. Tóm lại: Việc nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật TTHS, thực trạng áp dụng BLTTHS trong thực tiễn đã cho chúng ta thấy một bức tranh toàn cảnh về quyền và bảo đảm quyền của bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam. Nghiên cứu nội dung này cho chúng ta thấy những ưu điểm cũng như những hạn chế trong các quy định của BLTTHS về quyền và bảo đảm quyền của bị can, bị cáo; những ưu điểm và hạn chế của các cơ quan và người THTT trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; vai trò của người bào chữa trong việc tham gia bảo đảm quyền của bị can, bị cáo trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự. Trong quá trình cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến quyền con người nói chung, quyền của người tham gia tố tụng hình sự nói riêng và đặc biệt là quyền và bảo đảm quyền của bị can, bị cáo trong quá trình tiến hành tố tụng. Chính vì vậy, thông qua việc nghiên cứu thực trạng quy định pháp luật, thực trạng áp dụng pháp luật, tìm ra những nguyên nhân của những hạn chế bất cập trong các quy định về quyền và bảo đảm thực hiện quyền của bị can, bị cáo là căn cứ thuyết phục để chúng ta đưa ra những đề xuất kiến nghị để hoàn thiện các quy định của BLTTHS hiện hành theo hướng quy định triệt để các quyền của bị can, bị cáo và các biện pháp bảo đảm thực hiện các quyền này. Mặt khác sẽ giúp cho những người tiến hành tố tụng nhận thức đúng đắn hơn tầm quan trọng của việc bảo đảm thực hiện quyền của bị can, bị cáo; đồng thời là nguồn tài liệu để các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, tham khảo, nắm được thực trạng quy định và áp dụng pháp luật để từ đó có chính sách phù hợp, góp phần bảo đảm hơn nữa quyền của bị can, bị cáo trong quá trình tham gia tố tụng. Chương 4 KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 4.1. Yêu cầu hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về quyền của bị can, bị cáo Thứ nhất: Việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS năm 2003 phải dựa trên những quan điểm chỉ đạo của Đảng, phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013. Cụ thể là những định hướng trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị như: Nghị quyết số 08NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 26/5/2005 Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ 15 thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và các văn kiện đại hội Đảng, Chỉ thị, Kết luận của Bộ chính trị về cải cách tư pháp và Hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2013. Thứ hai: Việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS phải trên cơ sở tổng kết thực tiễn nhằm khắc phục cơ bản các vướng mắc, bất cập của Bộ luật TTHS hiện hành; mở rộng quyền con người nói chung; quyền của bị can, bị cáo nói riêng trong hoạt động tố tụng hình sự; tạo ra cơ chế để nâng cao trình độ, năng lực của cơ quan THTT và người tiến hành tố tụng, bảo đảm sự độc lập của các cơ quan này trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Thứ ba: Việc sửa đổi, bổ sung BLTTHS phải kế thừa và phát huy những ưu điểm, khắc phục, sửa đổi những hạn chế, bất cập; đồng thời tiếp thu có chọn lọc những hạt nhân hợp lý của pháp luật TTHS quốc tế và một số nước trên thế giới về quyền của bị can, bị cáo phù hợp với phong tục, tập quán, văn hóa và tình hình chính trị của Việt Nam. Thứ tư: Việc sửa đổi, bổ sung BLTTHS phải tiến hành một cách thận trọng, bảo đảm tính ổn định, tránh gây xáo trộn đối với các cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp hình sự, bảo đảm tính liên tục, hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. 4.2. Những kiến nghị, đề xuất cụ thể hoàn thiện các quyền của bị can, bị cáo trong Bộ luật tố tụng hình sự 4.2.1. Hoàn thiện các quyền của bị can, bị cáo trong quy định tại khoản 2 Điều 49, khoản 2 Điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự Qua nghiên cứu quy định của quốc tế, quy định của pháp luật TTHS một số nước trên thế giới, lịch sử TTHS Việt Nam và thực tiễn áp dụng BLTTHS hiện hành cho thấy cần thiết phải sửa đổi, bổ sung BLTTHS theo hướng sửa khái niệm bị can, bổ sung một số quyền cho bị can, bị cáo quy định tại khoản 2 Điều 49, khoản 2 Điều 50 BLTTHS như sau: Điều 49. Bị can 1. Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự và được Viện kiểm sát phê chuẩn. 2. Bị can có quyền: a) Có quyền im lặng, không khai báo những nội dung bất lợi cho mình; có quyền không làm chứng chống lại mình; b) Được biết mình bị khởi tố về tội gì; c) Được giải thích về quyền và nghĩa vụ; d) Trình bày lời khai, đề nghị ghi âm, ghi hình các buổi hỏi cung và các buổi làm việc; đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; 16 e) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; g) Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; tiếp cận, liên lạc với người thân, người bào chữa sau khi bị bắt; có quyền tiếp xúc, gặp gỡ riêng và bí mật với người bào chữa không giới hạn thời gian; h) Được yêu cầu cung cấp đầy đủ tài liệu phục vụ cho việc bào chữa, được nghiên cứu hoặc sao chụp toàn bộ hồ sơ vụ án; i) Được nhờ người khác hoặc tự mình thu thập chứng cứ gỡ tội phục vụ cho việc bào chữa; yêu cầu giám định; k) Được nhận quyết định khởi tố; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này; l) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Điều 50. Bị cáo 2. Bị cáo có quyền: a) Có quyền im lặng, không khai báo những nội dung bất lợi cho mình; có quyền không làm chứng chống lại mình; b) Được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án; các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này; c) Tham gia phiên toà; d) Được giải thích về quyền và nghĩa vụ; đ) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; e) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; g) Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; có quyền tiếp xúc, gặp gỡ riêng và bí mật với người bào chữa không giới hạn thời gian; có quyền nhận bản bào chữa của người bào chữa; h) Được yêu cầu cung cấp đầy đủ tài liệu phục vụ cho việc bào chữa, được nghiên cứu hoặc sao chụp toàn bộ hồ sơ vụ án; i) Được nhờ người khác hoặc tự mình thu thập chứng cứ gỡ tội phục vụ cho việc bào chữa; yêu cầu giám định hoặc mời người giám định tham dự phiên tòa; k) Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa; l) Nói lời sau cùng trước khi nghị án; 17 m) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án; o) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. 4.2.2. Hoàn thiện các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự có nội dung ghi nhận quyền của bị can, bị cáo - Bổ sung nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự: Điều 9. Nguyên tắc suy đoán vô tội 1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự Luật định và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật; 2. Việc đánh giá chứng cứ trong suốt quá trình giải quyết vụ án phải theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. - Bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự như sau: Điều… Nguyên tắc tranh tụng (mới) 1. Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền tranh luận dân chủ, bình đẳng; 2. Trong các giai đoạn tố tụng Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và những người được giao tiến hành một số hoạt động điều tra phải bảo đảm việc tranh tụng bình đẳng, dân chủ giữa các bên nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án; 3. Phán quyết của Hội đồng xét xử phải dựa trên kết quả đánh giá chứng cứ và tranh tụng công khai tại phiên tòa. - Sửa đổi, bổ sung nguyên tắc xác định sự thật của vụ án theo hướng: “1. Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án trong phạm vi chức năng của mình có trách nhiệm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ; 2. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát. Phán quyết của Tòa án được thực hiện trên cơ sở sự thật được chứng minh tại phiên tòa; 3. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không có nghĩa vụ phải chứng minh là mình không có tội”. - Sửa đổi, bổ sung nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự (Điều 11) như sau: Điều 11. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; có quyền được chỉ định người bào chữa trong một số trường hợp theo quy định của pháp luật. 18 - Sửa đổi, bổ sung nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự (Điều 23): Qua thực tiễn công tác điều tra, truy tố, xét xử và tham khảo quy định của pháp luật TTHS một số nước; để bảo đảm tính nhân đạo của pháp luật, cần bổ sung chế định lựa chọn truy tố vào nguyên tắc Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong TTHS theo hướng bổ sung nguyên tắc tùy nghi truy tố nhằm thực hiện yêu cầu kết hợp hài hòa giữa lợi ích xã hội và lợi ích công dân trong đầu tranh phòng chống tội phạm. Trong trường hợp xét thấy mặc dù đủ căn cứ truy tố bị can nhưng tính chất hành vi phạm tội không nghiêm trọng; bị can có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt… thì có thể không truy tố. 4.2.3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự nhằm bảo đảm thực hiện quyền của bị can, bị cáo Để bảo đảm việc thực hiện các quyền của bị can, bị cáo được quy định trong BLTTHS, luận án cũng đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định về bảo đảm quyền của bị can, bị cáo như sau: - Hoàn thiện các quy định về Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng như: hoàn thiện một số quy định về chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; hoàn thiện các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng; - Hoàn thiện các quy định về người bào chữa trong tố tụng hình sự tại các Điều 56, 57, 58, 190 Bộ luật tố tụng hình sự; - Hoàn thiện các quy định về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự tại các Điều 79, 88, 91, 92 Bộ luật tố tụng hình sự; - Hoàn thiện các quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên trong tố tụng hình sự quy định tại Chương XXXII Bộ luật tố tụng hình sự; - Hoàn thiện các quy định về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự quy định tại Chương XXXIV Bộ luật tố tụng hình sự; - Hoàn thiện các quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự tại các Điều 326, bổ sung cơ chế đối thoại giữa Điều tra viên và bị can, bị cáo liên quan đến khiếu nại về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra để bảo đảm thực hiện nghiêm túc việc giải quyết khiếu nại tố cáo loại này. - Hoàn thiện các quy định về cơ chế giám sát của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên trong tố tụng hình sự - Hoàn thiện các quy định khác trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự nhằm bảo đảm thực hiện quy ền của bị can, bị cáo (Điều 95, 110, 120, 158, 179, 200 Bộ luật tố tụng hình sự). Tóm lại: Việc hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo phải được dựa trên những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện quyền của các chủ thể này trong thời gian qua, cũng như quan điểm của Đảng và yêu cầu cải cách tư pháp trong 19 thời gian tới. Việc hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo một mặt phải bảo đảm các nguyên tắc chung của tố tụng hình sự; mặt khác phải phù hợp với các quy định trong Hiến pháp năm 2013 về quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự. Mục tiêu của việc hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo nhằm bổ sung một số quyền của các chủ thể này chưa được ghi nhận trong TTHS, đồng thời quy định biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện các quyền này trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử. Nội dung của việc hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo một mặt phải bảo đảm tính kế thừa, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những yếu tố hợp lý của pháp luật quốc tế và pháp luật TTHS một số nước trên thế giới phù hợp với truyền thống pháp luật của Việt Nam. Từ phương hướng hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo đã đặt ra yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới một số nội dung trong Bộ luật TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp về quyền con người nói chung và quyền của bị can, bị cáo nói riêng. KẾT LUẬN Hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo là một trong những nội dung đồng thời là mục đích của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên việc hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo phù hợp với điều kiện thực tế, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế là một đòi hỏi mang tính khách quan. Thông qua việc vận dụng và kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học, luận án đã đưa đến một cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về quyền của bị can, bị cáo trong TTHS. Qua nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: 1. Các quy định về quyền của bị can, bị cáo trong TTHS là một tất yếu khách quan và đã được ghi nhận trong lịch sử TTHS Việt Nam. Việc hoàn thiện các quy định của BLTTHS về quyền của bị can, bị cáo là cần thiết; tạo tiền đề cho bị can, bị cáo có cơ sở pháp lý để tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đồng thời cũng tạo ra một hành lang pháp lý buộc người THTT phải tuân thủ để tránh việc xâm phạm đến quyền của bị can, bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. 2. Việc hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo trong TTHS không chỉ là vấn đề pháp lý đơn thuần mà là vấn đề mang tính lý luận sâu sắc, có ảnh hưởng trực tiếp đến các quy định của Hiến pháp và các nguyên tắc chung của TTHS. Đặc biệt là ảnh hưởng tới việc giải quyết mối quan hệ giữa hiệu quả hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của các cơ quan THTT với việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung và quyền của bị can, bị cáo nói riêng. 3. Việc hoàn thiện các quy định của BLTTHS về quyền của bị can, bị cáo phải tuân thủ các Công ước, Điều ước mà chúng ta đã phê chuẩn; tham khảo những nội dung tiến bộ của pháp luật TTHS một số nước trên thế giới. Tuy nhiên, việc hoàn 20 thiện các quy định này phải mang tính kế thừa truyền thống pháp luật TTHS của Việt Nam. Trên cơ sở đó tìm ra những ưu điểm của từng mô hình tố tụng hình sự để rút ra bài học, kinh nghiệm thiết thực cho việc xây dựng các quy định phù hợp và hiệu quả nhất trong TTHS Việt Nam. 4. Việc hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo phải phù hợp với các quan điểm, định hướng của Đảng, phù hợp với các quy định của Hiến pháp về quyền con người nói chung và quyền con người trong TTHS nói riêng. Việc hoàn thiện các quy định này cũng phải đặt trong mối quan hệ tổng thể với quá trình hoàn thiện pháp luật TTHS, pháp luật hình sự và mô hình tổ chức các cơ quan tư pháp nói chung; bảo đảm tính kế thừa, tính hiện đại, tiếp thu những thành tựu tiến bộ của khoa học pháp lý của các nước… 5. Việc hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo trong giai đoạn hiện nay là cần thiết, cấp bách nhưng đòi hỏi phải có lộ trình, bước đi phù hợp để tránh gây lên những xáo trộn không cần thiết, ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và hoạt động bình thường của các cơ quan THTT. Các quy định về quyền của bị can, bị cáo không chỉ đơn thuần là các vấn đề tố tụng mà rộng hơn nữa là bảo đảm quyền dân chủ, quan điểm lập pháp, trong chừng mực cần thiết phải có những sửa đổi các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, đặc biệt là cơ quan xét xử. 6. Kết quả nghiên cứu đã xây dựng được cơ sở lý luận về quyền của bị can, bị cáo trong BLTTHS; đồng thời cũng làm rõ thực trạng quy định và thực hiện quyền của các chủ thể này trong quá trình THTT, chỉ ra những nguyên nhân của những ưu điểm, những hạn chế, bất cập, từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của BLTTHS về quyền của bị can, bị cáo. Đặc biệt, kết quả nghiên cứu của luận án đã xây dựng được nội dung cụ thể các vấn đề cần sửa đổi, bổ sung và quy định mới về quyền của bị can, bị cáo trong BLTTHS Việt Nam hiện hành. Tuy nhiên, luận án mới chỉ đạt được những kết quả trên cơ sở khả năng nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn mà tác giả tổng kết được. Do đó kết quả nghiên cứu của luận án còn có những hạn chế nhất định, nghiên cứu sinh kính mong nhận được sự chỉ dẫn, đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, các thầy cô và đồng nghiệp về nội dung luận án để việc nghiên cứu đạt kết quả tốt hơn.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất