Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật doanh nghiệp trong mối quan hệ với cải cách cải cách thủ tục hành chín...

Tài liệu Pháp luật doanh nghiệp trong mối quan hệ với cải cách cải cách thủ tục hành chính ở việt nam [tt]

.PDF
28
480
51

Mô tả:

DANH MỤC CHỮ VIẾT BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTẮT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH DN : Doanh nghiệp ĐKDN : Đăng ký doanh nghiệp ĐKKD : Đăng ký kinh doanh Giấy CNĐKDN : Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp TRẦN HUỲNH THANH NGHỊ GPKD : Giấy phép kinh doanh HĐND : Hội đồng nhân dân MTKD : Môi trường kinh doanh NĐT : Nhà đầu tưECD : Tổ chức hợp tác và Phát triển kinh tế PLDN : Pháp luật doanh nghiệp QLNN : Quản lý nhà nước TNHH : Tráchệm hữu hạc hành chính PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI CẢI CÁCH VCCI : Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam THỦ CHÍNH Ở VIỆT NAM UBND : ỦyTỤC ban nhânHÀNH dân VAT : Thuế giá trị gia tăng XHCN : Xã hội chủ nghĩa WB : Ngân hàng thế giới WEF : Diễn đàn kinh tế thế giới TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ WTO : Tổ chức thương mại thế giới TP. Hồ Chí Minh - 2014 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT DN : Doanh nghiệp ĐKDN : Đăng ký doanh nghiệp ĐKKD : Đăng ký kinh doanh Giấy CNĐKDN : Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp GPKD : Giấy phép kinh doanh HĐND : Hội đồng nhân dân MTKD : Môi trường kinh doanh NĐT : Nhà đầu tư OECD : Tổ chức hợp tác và Phát triển kinh tế PLDN : Pháp luật doanh nghiệp QLNN : Quản lý nhà nước TNHH : Trách nhiệm hữu hạn TTHC : Thủ tục hành chính VAT : Thuế giá trị gia tăng VCCI : Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam UBND : Ủy ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa WB : Ngân hàng thế giới WEF : Diễn đàn kinh tế thế giới WTO : Tổ chức thương mại thế giới 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Cải cách TTHC là một trong số giải pháp cơ bản nhất để hoàn thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp và tăng cường hiệu lực, hiệu quả QLNN ở Việt Nam thời kỳ hội nhập. Tiến trình cải cách TTHC đó không thể tách rời với sự hoàn thiện PLDN, vì quy định PLDN đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả cải cách TTHC và tác động đến doanh nghiệp từ quá trình thành lập cho đến tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp. Những năm qua, thứ hạng MTKD của Việt Nam trên trường quốc tế thường bị đánh giá thấp trong các bảng xếp hạng của WB, WEF, OECD. Điều đó phản ánh thực trạng pháp luật đầu tư, kinh doanh còn nhiều vướng mắc, bất cập ảnh hưởng tiêu cực đến quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Trong hoàn cảnh đó, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa PLDN và cải cách TTHC là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, phù hợp với yêu cầu đổi mới và hoàn thiện MTKD để đưa ra các giải pháp hoàn thiện PLDN đóng góp tích cực vào cải cách TTHC ở Việt Nam và hoàn thiện Luật DN 2005 là đề tài nóng bỏng thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả trong và ngoài nước. Nhận thức được tầm quan trọng của mối quan hệ giữa PLDN và cải cách TTHC ở Việt Nam, cũng như ý nghĩa lý luận và thực tiễn của vấn đề trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Pháp luật doanh nghiệp trong mối quan hệ với cải cách cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam” để làm Luận án tiến sĩ luật học cho mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu Luận án nghiên cứu đề tài Pháp luật doanh nghiệp trong mối quan hệ với cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam nhằm giải quyết ba vấn đề cơ bản sau : - Thứ nhất, hệ thống lại các vấn đề lý luận về PLDN và TTHC như nội dung PLDN về TTHC, các nguyên tắc quy định PLDN về TTHC, các tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thiện của PLDN về TTHC để bổ sung vào kho tàng lý luận nghiên cứu PLDN và TTHC ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, Luận án sẽ làm rõ mối quan hệ giữa PLDN về TTHC với cải cách TTHC ở Việt Nam. Đồng thời khẳng định cải cách TTHC đối với doanh nghiệp là giải pháp cơ bản để hoàn thiện MTKD, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp và tăng cường hiệu lực QLNN trong điều kiện hội nhập. - Thứ hai, đánh giá toàn diện thực trạng PLDN về TTHC, phát hiện được những thành công và hạn chế của PLDN về thủ tục thành lập, tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp đang tác động tích cực và tiêu cực đến cải cách TTHC ở Việt Nam. 2 - Thứ ba, nêu lên các yêu cầu, định hướng khoa học cho việc hoàn thiện PLDN thúc đẩy cải cách TTHC và các giải pháp hoàn thiện PLDN về thủ tục thành lập, tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp, góp phần mang lại sự hiệu quả hơn cho cải cách TTHC ở Việt Nam trong thời gian tới. 3. Phạm vi nghiên cứu Luận án nghiên cứu đề tài Pháp luật doanh nghiệp trong mối quan hệ với cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam với nội dung nghiên cứu được giới hạn ở quy định PLDN về thủ tục thành lập, tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp. Luận án không nghiên cứu quy định PLDN điều chỉnh tổ chức quản trị và hoạt động của doanh nghiệp không liên quan đến TTHC đối với doanh nghiệp. Luận án không nghiên cứu toàn bộ TTHC đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực thuế, hải quan, đất đai, lao động, nhà ở,.....quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Ngoài ra, việc tìm hiểu, phân tích, đánh giá doanh nghiệp ở góc độ kinh tế, không liên quan đến pháp luật điều chỉnh doanh nghiệp cũng nằm ngoài phạm vi nghiên cứu của Luận án. Luận án không nghiên cứu các quy định pháp luật chuyên ngành, pháp luật đầu tư điều chỉnh việc thành lập, tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp. Chỉ những doanh nghiệp được thành lập, tổ chức lại và giải thể theo quy định tại Luật DN 2005 mới là đối tượng được nghiên cứu trong nội dung Luận án. Việc thành lập, tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý, tiền tệ – ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, y tế, giáo dục…chịu sự điều chỉnh của các Luật chuyên ngành cũng không thuộc phạm vi nghiên cứu của Luận án. Luận án chỉ nghiên cứu quy định PLDN về thủ tục thành lập, tổ chức lại và giải thể đối với doanh nghiệp bao gồm công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân, không nghiên cứu thủ tục thành lập, tổ chức lại, giải thể đối với HTX và hộ kinh doanh. 4. Điểm mới của Luận án Luận án nghiên cứu đề tài Pháp luật doanh nghiệp trong mối quan hệ với cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam là sự kế thừa và bổ sung cho các công trình nghiên cứu trên với mục đích phục vụ cho việc hoàn thiện MTKD và nâng cao hiệu quả cải cách TTHC ở Việt Nam. So với các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố trước đó, nội dung của Luận án có một số điểm mới cơ bản sau : Thứ nhất, Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên giải quyết các vấn đề lý luận cơ bản về mối quan hệ giữa quy định PLDN với cải cách TTHC ở Việt Nam. Luận án phân tích các nguyên tắc của quy định PLDN về TTHC, nội dung PLDN về TTHC, các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của PLDN về TTHC, nêu lên sự cần thiết để Việt Nam tiến hành cải cách TTHC đối với doanh nghiệp và các mục tiêu đạt được từ cải cách TTHC đó. Đây là những nội dung quan trọng được Luận án nghiên cứu và chưa được giải quyết ở nhiều công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước trước đó. Thứ hai, Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên đánh giá toàn diện những thành công và hạn chế của PLDN về thủ tục thành lập, tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp ảnh hưởng đến cải cách 3 TTHC ở Việt Nam. Đây là vấn đề chưa được giải quyết ở nhiều công trình nghiên cứu khoa học đi trước, nhất là sau sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của WTO từ cuối năm 2006 đến nay. Thứ ba, Luận án là công trình khoa học đầu tiên đánh giá thực trạng pháp luật đăng ký doanh nghiệp Việt Nam sau 4 năm thực thi Nghị định 43/2010/NĐ-CP với những thành công và hạn chế nhất định. Luận án nêu bật các vướng mắc pháp lý về đối tượng ĐKDN, tên doanh nghiệp, sự mâu thuẫn giữa thủ tục ĐKDN và thủ tục đầu tư tại Luật Đầu tư 2005 đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả cải cách TTHC ở Việt Nam. Đây là những nội dung Luận án nghiên cứu mà chưa được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu trước đó. Thứ tư, Luận án nghiên cứu pháp luật về giấy phép kinh doanh ảnh hưởng đến việc thành lập, hoạt động của doanh nghiệp, cải cách TTHC ở Việt Nam. Từ đó, nêu lên giải pháp hoàn thiện pháp luật về giấy phép kinh doanh nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, phù hợp với yêu cầu cải cách TTHC ở Việt Nam mà chưa được giải quyết ở các công trình nghiên cứu đi trước. Thứ năm, Luận án nêu ra các giải pháp hoàn thiện PLDN về thủ tục thành lập, tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu cải cách TTHC, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp ở Việt Nam. Các giải pháp khoa học trên được hình thành sau quá trình đúc kết thực tiễn thi hành PLDN quy định về TTHC đối với doanh nghiệp mà chưa được giải quyết ở nhiều công trình nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước trước đó. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu Ở Việt Nam, đây là đề tài nghiên cứu khoa học đầu tiên về mối quan hệ giữa PLDN với cải cách TTHC. Nghiên cứu đề tài này, Luận án sẽ cung cấp một dung lượng đáng kể thông tin có giá trị về cơ sở lý luận của quy định PLDN về TTHC, trở thành tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn Luật Kinh tế, Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp và Luật Hành chính ở Việt Nam. Ngoài ra, việc đánh giá toàn diện thực trạng PLDN với những tiến bộ và hạn chế tác động đến công cuộc cải cách TTHC, trên cơ sở đó nêu ra các giải pháp hoàn thiện quy định PLDN về TTHC có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc giúp cho các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam tham khảo để đưa ra các quyết sách hoàn thiện PLDN phục vụ cho cải cách TTHC và nâng cao hiệu quả QLNN đối với doanh nghiệp ở Việt Nam. 4 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CÂU HỎI NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Trước và sau sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO, đã có nhiều công trình nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng MTKD, thực trạng PLDN và QLNN liên quan đến thủ tục thành lập, tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp ở VN và nước ngoài. Tuy nhiên, dù có những sự khác biệt nhất định về kinh tế, chính trị, quan điểm pháp lý ở các quốc gia, song việc nghiên cứu đề tài có nội dung luận bàn về PLDN và vấn đề cải cách TTHC đối với doanh nghiệp đã được các nhà khoa học, các tổ chức phi chính phủ có uy tín cao khảo sát, đánh giá một cách nghiêm túc và có giá trị khoa học cao. Các công trình nghiên cứu đều có điểm thống nhất chung ở chỗ : thừa nhận vai trò của các quy định pháp luật về TTHC đối với doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn đến môi trường đầu tư, kinh doanh, đến hiệu quả của chính sách thu hút đầu tư của một quốc gia, cải cách TTHC và quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Các chương trình cải cách TTHC đối với doanh nghiệp dù có khác nhau về cách thức tiến hành nhưng đều hướng đến đảm bảo cho việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp ngày càng thuận lợi và ít tốn kém hơn - Hầu hết công trình nghiên cứu đều xác định các quy định pháp luật về TTHC đối với doanh nghiệp luôn có mặt tích cực và hạn chế tác động đến MTKD, quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc đưa ra các giải pháp để hoàn thiện MTKD, hoạt động QLNN đảm bảo quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp ở mỗi công trình nghiên cứu đều có cách nhìn nhận khác nhau, chưa thống nhất phụ thuộc vào tình hình chính trị, kinh tế cụ thể của từng quốc gia và góc nhìn của các tác giả cũng có sự khác biệt khá lớn. - Việc hoàn thiện quy định pháp luật về TTHC đối với doanh nghiệp được các tác giả nêu ra theo hai xu hướng : Dưới góc độ QLNN, hoàn thiện quy định về TTHC nhằm đảm bảo tăng cường hiệu lực, hiệu quả QLNN và chức năng điều tiết của nhà nước đối với doanh nghiệp. Đặc biệt, sau sự kiện khủng hoảng kinh tế toàn cầu, người ta lại cần sự can thiệp mạnh mẽ hơn của nhà nước để hạn chế các khuyết tật thị trường phát sinh từ hoạt động của doanh nghiệp. Dưới góc độ bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp, các tác giả đề xuất hoàn thiện quy định về TTHC nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp theo nguyên tắc “được kinh doanh trong các ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Cần tiếp tục rà soát, loại bỏ các GPKD và điều kiện kinh doanh không còn phù hợp, đơn giản hóa thủ tục thành lập doanh nghiệp, tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong thực hiện TTHC là nội dung được đề cập nhiều trong các công trình nghiên cứu. Thế nhưng, các giải pháp để hoàn thiện quy định PLDN về TTHC chưa được hệ thống hóa đầy đủ và còn mang tính chung chung. 5 - Các công trình nghiên cứu về cải cách TTHC ở Việt Nam chủ yếu nghiên cứu quy định pháp luật về TTHC trong nhiều lĩnh vực khác nhau, chưa đi sâu nghiên cứu quy định PLDN về TTHC đối với doanh nghiệp. Hơn nữa, thời gian nghiên cứu khá lâu không còn phù hợp với bối cảnh tình hình thực tế hiện nay. Đặc biệt, từ giữa năm 2010, sự ra đời của Nghị định 43/2010/NĐ-CP, Nghị định 102/2010/NĐ-CP và các nghị quyết của Chính phủ về phê duyệt phương án đơn giản hóa TTHC trên các lĩnh vực QLNN thì nhiều đề xuất hoàn thiện, phân tích thực trạng TTHC đối với doanh nghiệp trong các văn bản pháp luật trước đây đã trở nên lạc hậu - Chưa có công trình nghiên cứu ở cấp độ Luận án tiến sĩ về mối quan hệ giữa quy định PLDN và vấn đề cải cách TTHC ở Việt Nam. Việc đề cập đến quy định về TTHC đối với doanh nghiệp thường được các tác giả sử dụng để đánh giá MTKD tại một quốc gia, hoạt động QLNN đối với doanh nghiệp và chính sách của nhà nước về đảm bảo quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường. Việc đi sâu, phân tích, đánh giá và hệ thống hóa một cách đầy đủ những tiến bộ và hạn chế của PLDN về TTHC ảnh hưởng đến công cuộc cải cách TTHC ở Việt Nam chưa được tìm thấy trong các công trình nghiên cứu trong nước lẫn ngoài nước thời gian qua. Những vấn đề còn bỏ ngõ trong các công trình nghiên cứu nêu trên : - Chưa hệ thống hóa một cách đầy đủ các quy định PLDN về TTHC ở Việt Nam cũng như ở các quốc gia khác trên thế giới. - Chưa phân tích đầy đủ những ảnh hưởng trực tiếp của quy định PLDN về TTHC đến cải cách TTHC ở Việt Nam thời gian qua. - Chưa đánh giá toàn diện thực trạng quy định PLDN về TTHC ở Việt Nam để thấy được mức độ hiệu quả của PLDN về thủ tục thành lập, tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp. - Chưa đánh giá thực trạng pháp luật về GPKD với những mặt tích cực và hạn chế của chúng ảnh hưởng đến cải cách TTHC ở Việt Nam. - Chưa làm rõ thực trạng quy định pháp luật về ứng dụng công nghệ thông tin trong thủ tục ĐKDN, cấp phép kinh doanh, giải thể doanh nghiệp cũng như mối quan hệ giữa cơ quan ĐKKD với cơ quan cấp phép kinh doanh, cơ quan thuế vẫn còn bỏ ngỏ 6 CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP, THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP VÀ CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM 2.1 Khái niệm, đặc điểm và những nội dung cơ bản của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam 2.1.1 Khái niệm và đặc điểm của pháp luật doanh nghiệp Hiểu theo nghĩa rộng, PLDN bao gồm tất cả QPPL được quy định trong các văn bản QPPL do nhà nước ban hành điều chỉnh doanh nghiệp. Hiểu theo nghĩa này, PLDN có nội hàm rất rộng, bao gồm các QPPL được quy định tại Luật DN, văn bản dưới luật thi hành Luật DN và tại các văn bản QPPL khác như Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Đầu tư, Luật Chứng khoán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Luật sư, Luật Khám chữa bệnh, Luật Xuất bản.... quy định việc thành lập, tổ chức quản lý, hoạt động của doanh nghiệp, được gọi chung là PLDN. Ngược lại, nếu hiểu theo nghĩa hẹp, PLDN chỉ bao gồm các QPPL được quy định tại Luật DN và văn bản dưới luật thi hành Luật DN điều chỉnh việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế. Từ định nghĩa PLDN nêu trên, có thể rút ra các đặc điểm cơ bản của PLDN như sau : Thứ nhất, PLDN là một bộ phận cấu thành của pháp luật kinh tế, là một chế định pháp luật quan trọng của ngành luật kinh tế, do đó mức độ hoàn thiện của PLDN có ảnh hưởng đến mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật kinh tế nói riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung. Thứ hai, nội dung PLDN có chứa đựng các QPPL quy định về TTHC đối doanh nghiệp, đó là thủ tục thành lập, tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp, phản ánh mối quan hệ giữa nhà nước với doanh nghiệp khi doanh nghiệp thực hiện quyền tự do kinh doanh của họ trong khuôn khổ luật định. Thứ ba, PLDN chỉ hình thành và phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường khi có sự thừa nhận của nhà nước về quyền tự do kinh doanh cho nhà đầu tư. Vì vậy, PLDN phản ánh chính sách đổi mới kinh tế và hội nhập quốc tế của nhà nước Việt Nam. PLDN là một đảm bảo pháp lý quan trọng cho nhà đầu tư thực hiện quyền tự do thành lập doanh nghiệp, tự do kinh doanh ở Việt Nam. Thứ tư, PLDN có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật chuyên ngành, pháp luật đầu tư. Thứ năm, PLDN là một thành tố của thượng tầng kiến trúc nên chịu sự chi phối quyết định của kinh tế. Khi các điều kiện kinh tế thay đổi thì đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện PLDN về thành lập, tổ chức quản trị và hoạt động đối với doanh nghiệp cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế đó. Thứ sáu, nguồn của PLDN bao gồm các QPPL được quy định tại Luật DN và các văn bản dưới luật thi hành Luật DN. 7 2.1.2 Những nội dung cơ bản của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam Dù phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau nhưng nội dung PLDN quy định những vấn đề sau: - Một là, PLDN quy định việc thành lập doanh nghiệp. Trong nội dung này, PLDN quy định hai vấn đề cơ bản cho sự gia nhập thị trường của NĐT là điều kiện thành lập và thủ tục thành lập doanh nghiệp. Nhìn chung, phần lớn quy định PLDN về thành lập doanh nghiệp có liên quan đến TTHC như cách thức, trình tự ĐKDN, hồ sơ ĐKDN, điều kiện cấp ĐKDN. - Hai là, PLDN quy định về tổ chức quản lý đối với doanh nghiệp. Trong nội dung này, PLDN quy định cơ cấu tổ chức quản trị của từng loại hình doanh nghiệp trên cơ sở tôn trọng quyền tự chủ quyết định quan hệ nội bộ của doanh nghiệp. Nhìn chung, nội dung PLDN về tổ chức quản lý doanh nghiệp ít chứa đựng quy định liên quan đến TTHC như ở nội dung PLDN về thành lập doanh nghiệp. - Ba là, PLDN quy định về hoạt động của doanh nghiệp. Trong nội dung này, PLDN có nhiều QPPL quy định về thủ tục tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam. 2.2. Khái niệm, đặc điểm và nội dung của thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp 2.2.1 Khái niệm thủ tục hành chính và thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định 63/2010/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 08 tháng 06 năm 2010 về kiểm soát thủ tục hành chính thì TTHC được hiểu là trình tự, cách thức thực hiện, hồ sơ và yêu cầu, điều kiện do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định để giải quyết một công việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức. Còn TTHC đối với doanh nghiệp được hiểu là trình tự, cách thức thực hiện, hồ sơ và yêu cầu, điều kiện phát sinh trong quá trình thành lập, tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp được quy định tại PLDN. 2.2.2. Đặc điểm của thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp Từ định nghĩa trên, có thế rút ra những đặc điểm của TTHC đối với doanh nghiệp sau : - Thứ nhất, TTHC đối với doanh nghiệp được quy định bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. - Thứ hai, TTHC đối với doanh nghiệp là những thủ tục được quy định tại Luật DN 2005 và các văn bản dưới luật thi hành Luật DN 2005. - Thứ ba, TTHC đối với doanh nghiệp là cách thức, trình tự, hồ sơ, yêu cầu và điều kiện nhà nước quy định, thể hiện tính quyền lực của nhà nước đối với doanh nghiệp. - Thứ tư, đối tượng áp dụng của TTHC tại PLDN là các doanh nghiệp. 2.2.3. Nội dung của thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp Nội dung của TTHC đối với doanh nghiệp là các bộ phận cấu thành TTHC do nhà nước quy định áp dụng cho doanh nghiệp khi thành lập, tổ chức lại và giải thể, bao gồm các bộ phận sau: - Tên TTHC - Đối tượng áp dụng của TTHC 8 - Trình tự thực hiện - Cách thức thực hiện - Hồ sơ - Thời hạn giải quyết TTHC - Kết quả thực hiện TTHC - Cơ quan thực hiện TTHC 2.3. Quy định pháp luật doanh nghiệp về thủ tục hành chính PLDN về TTHC được phân thành 3 nhóm cơ bản sau : 2.3.1 Quy định pháp luật doanh nghiệp về thủ tục thành lập doanh nghiệp, bao gồm : - Các quy định PLDN về chủ thể thành lập doanh nghiệp - Các quy định PLDN về nguyên tắc áp dụng giải quyết thủ tục ĐKDN mà cơ quan ĐKKD phải tuân thủ trong quá trình tiếp nhận và xử lý hồ sơ ĐKDN - Các quy định PLDN về ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp - Các quy định PLDN về điều kiện đặt tên doanh nghiệp - Các quy định PLDN về trình tự, thủ tục ĐKDN - Các quy định PLDN về thời hạn cấp ĐKDN, điều kiện cấp ĐKDN, quy định về công khai hóa nội dung ĐKDN, quyền khiếu nại của NĐT trong quá trình ĐKDN - Các quy định PLDN về quyền hạn, nhiệm vụ của cơ quan ĐKKD trong quá trình giải quyết cấp ĐKDN, mối quan hệ giữa cơ quan ĐKKD với các cơ quan QLNN khác trong việc phối hợp cấp ĐKDN cho NĐT và trách nhiệm quản lý doanh nghiệp sau khi cấp ĐKDN. - Các quy định PLDN về quyền và nghĩa vụ của NĐT khi thực hiện thủ tục ĐKDN. 2.3.2 Quy định pháp luật doanh nghiệp về thủ tục tổ chức lại doanh nghiệp, bao gồm : - Các quy định PLDN về ĐKDN đối với doanh nghiệp chuyển đổi, doanh nghiệp nhận sáp nhập, doanh nghiệp mới được thành lập sau quá trình chia, tách, hợp nhất doanh nghiệp. - Các quy định PLDN về hồ sơ tổ chức lại doanh nghiệp, nội dung NĐT phải kê khai trong hồ sơ chuyển đổi doanh nghiệp, hồ sơ của doanh nghiệp nhận sáp nhập, doanh nghiệp được hình thành sau quá trình chia, tách và hợp nhất doanh nghiệp. - Các quy định PLDN về thời hạn cấp ĐKDN cho doanh nghiệp hình thành mới sau quá trình thực hiện thủ tục tổ chức lại doanh nghiệp - Các quy định PLDN về quyền hạn, nhiệm vụ của cơ quan ĐKKD khi tiếp nhận hồ sơ và giải quyết cấp ĐKDN cho doanh nghiệp chuyển đổi, doanh nghiệp nhận sáp nhập, doanh nghiệp mới hình thành sau quá trình chia, tách và hợp nhất doanh nghiệp. - Các quy định PLDN về trách nhiệm thông báo của cơ quan ĐKKD với cơ quan thuế, cơ quan thống kê, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác,… 9 2.3.3 Quy định pháp luật doanh nghiệp về thủ tục giải thể doanh nghiệp, bao gồm : - Các quy định PLDN về các trường hợp giải thể doanh nghiệp - Các quy định PLDN về thủ tục giải thể doanh nghiệp - Các quy định PLDN về thẩm quyền của cơ quan QLNN có trách nhiệm giải quyết thủ tục giải thể cho doanh nghiệp. - Các quy định PLDN về điều kiện giải thể. 2.4. Các nguyên tắc quy định về thủ tục hành chính trong pháp luật doanh nghiệp và các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của quy định pháp luật doanh nghiệp về thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp 2.4.1 Các nguyên tắc quy định về thủ tục hành chính trong pháp luật doanh nghiệp Quy định PLDN về TTHC phải tuân thủ 5 nguyên tắc sau : Một là, quy định về TTHC phải đơn giản, dễ hiểu và dễ thực hiện đối với doanh nghiệp. Hai là, quy định về TTHC phải phù hợp với mục tiêu quản lý hành chính nhà nước. Ba là, phải bảo đảm quyền bình đẳng cho doanh nghiệp khi thực hiện TTHC. Bốn là, phải tiết kiệm được thời gian và chi phí cho doanh nghiệp và cơ quan hành chính nhà nước trong quá trình thực thi và giải quyết TTHC cho doanh nghiệp. Năm là, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ của quy định về TTHC. 2.4.2. Các tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thiện của quy định pháp luật doanh nghiệp về thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp Để đánh giá mức độ hoàn thiện của PLDN về TTHC phải dựa trên 4 tiêu chí sau : - Tính tính phù hợp - Tính hợp lý - Tính hợp pháp - Tính minh bạch 2.5. Mối quan hệ giữa quy định pháp luật doanh nghiệp về thủ tục hành chính và cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam PLDN về TTHC tác động đến cải cách TTHC ở Việt Nam ở những nội dung sau : - Thứ nhất, PLDN về TTHC đóng vai trò ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả cải cách TTHC ở Việt Nam. Có thể nói, cải cách TTHC trong lĩnh vực kinh tế phụ thuộc vào sự hoàn thiện của PLDN về thủ tục thành lập, tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp và thực tiễn thi hành PLDN đó trên thực tế. - Thứ hai, về mặt kinh tế, sự thay đổi tích cực của PLDN về TTHC sẽ đem lại cho cải cách TTHC ở Việt Nam nhiều lợi ích kinh tế, góp phần giảm chi phí tài chính không cần thiết cho doanh nghiệp, kích thích NĐT gia nhập thị trường, hoạt động kinh doanh thuận lợi hơn, đáp ứng được mục tiêu về lợi ích kinh tế của chương trình cải cách TTHC đã đặt ra. 10 - Thứ ba, về mặt xã hội, PLDN về TTHC đem lại những giá trị xã hội lớn cho cải cách TTHC ở Việt Nam. PLDN về TTHC thông thoáng, phù hợp sẽ được sự hưởng ứng, đánh giá cao của doanh nghiệp, góp phần nâng cao ý thức của cộng đồng xã hội và doanh nghiệp trong việc tuân thủ pháp luật, tạo hiệu ứng tích cực cho cải cách TTHC trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. - Thứ tư, về mặt chính trị, việc đổi mới và hoàn thiện PLDN về TTHC góp phần khẳng định vị thế lãnh đạo của Đảng, uy tín của nhà nước đối với các chương trình cải cách TTHC ở Việt Nam, chứng minh chủ trương của Đảng và chính sách cải cách TTHC của nhà nước Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Kết quả đó thể hiện sự tôn trọng quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần nâng cao niềm tin của doanh nghiệp vào sự lãnh đạo của Đảng trong việc đề ra chủ trương hoàn thiện PLDN đáp ứng yêu cầu cải cách TTHC. 2.6. Sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp Ở Việt Nam, cải cách TTHC đối với doanh nghiệp là yêu cầu tất yếu xuất phát từ các lý do sau : 2.6.1 Cải cách TTHC đối với doanh nghiệp là chủ trương, chính sách lớn của Đảng và nhà nước Việt Nam Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 đã đề cập đến ba đột phá chiến lược trong 10 năm tới ở Việt Nam là thể chế, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực, trong đó, cải cách thể chế là ưu tiên hàng đầu.1 Nghị quyết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường Việt Nam với trọng tâm là đặt yêu cầu cải cách TTHC ngay trong quá trình xây dựng thể chế và giảm mạnh các thủ tục hiện có. Trên cơ sở định hướng trên, Nghị quyết Đại hội XI đã yêu cầu nhà nước Việt Nam phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế.2 Về phần nhà nước Việt Nam, Quyết định 339/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 19 tháng 02 năm 2013 về phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế giai đoạn 2013- 2020 đã đề ra 10 giải pháp cơ bản để tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam, trong đó giải pháp ưu tiên hàng đầu là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, cải thiện và nâng cao năng lực cạnh tranh của MTKD quốc gia. Chính phủ giao nhiệm vụ cho Bộ Kế hoạch & Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách về MTKD theo hướng:3 Tháo bỏ rào cản, bãi bỏ hoặc bổ sung, sửa đổi các quy định lạc hậu, không phù hợp với cơ chế thị trường; tiếp tục đơn giản hóa, giảm TTHC; giảm chi phí thực thi TTHC và pháp luật đối với nhân dân và doanh nghiệp; không xây dựng, ban hành các quy định cấm hoặc hạn chế quyền kinh doanh của 1 Xem : Đảng Cộng sản Việt Nam : “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2011, trang 106 2 Xem : Đảng Cộng sản Việt Nam : “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2011, trang 247 3 Xem : Điểm b và Điểm e Mục II.1 Quyết định 339/2013/QĐ-TTg do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 19 tháng 02 năm 2013 11 người dân và doanh nghiệp vì lý do yếu kém về năng lực và trình độ quản lý của các cơ quan QLNN liên quan; khắc phục tình trạng ban hành quy định mới không bảo đảm tính khả thi, không thực hiện được hoặc thực hiện không hiệu quả, gây tổn hại đến lợi ích của nhân dân và doanh nghiệp. 2.6.2. Cải cách thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp nhằm thực hiện các cam kết quốc tế Việt Nam đã ký kết hoặc phê chuẩn trong quá trình hội nhập. Để thực thi các cam kết WTO, ngày 29 tháng 11 năm 2006, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 71/2006/NQ-QH phê chuẩn Nghị định thư gia nhập hiệp định thành lập WTO của Việt Nam. Trong đó, nhấn mạnh việc áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam với WTO trên lãnh thổ Việt Nam, ngay cả trong trường hợp pháp luật Việt Nam không phù hợp với quy tắc của WTO. Đồng thời giao cho Chính phủ rà soát các văn bản QPPL trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản QPPL thuộc thẩm quyền phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO.4 Gia nhập WTO có tác động đẩy nhanh cải cách chính sách, hoàn thiện hệ thống pháp luật, hoàn thiện cơ chế thị trường, cải cách hành chính và cải cách doanh nghiệp trong nước.5 Ngoài ra, gia nhập WTO còn tạo thuận lợi cho việc đổi mới chính sách và hệ thống pháp luật ở Việt Nam, giúp Việt Nam rà soát đánh giá lại hệ thống pháp luật và TTHC đối với doanh nghiệp, đảm bảo phù hợp với hệ thống pháp luật và TTHC chung của toàn cầu. 2.6.3. Cải cách thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp để khắc phục những tồn tại, hạn chế của môi trường kinh doanh, giúp tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế. Năm 2012, chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam chỉ đứng hạng 75/144 quốc gia được khảo sát, tụt đến 10 hạng so với năm 2011. Năm 2013, MTKD của Việt Nam xếp hạng 99/185 nền kinh tế, tụt 1 bậc so với năm 2012, đó là thứ hạng thấp nhất trong vòng 6 năm qua của Việt Nam trên trường quốc tế. Thực trạng đó đòi hỏi Việt Nam sớm tìm ra giải pháp cải thiện MTKD, với ưu tiên hàng đầu đẩy mạnh các chương trình cải cách TTHC đối với doanh nghiệp, đảm bảo cho MTKD không bị tụt hậu và có thể cạnh tranh với các nền kinh tế khác trong thu hút đầu tư. 2.6.4. Cải cách thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp góp phần đấu tranh phòng chống tham nhũng, giảm chi phí tốn kém không cần thiết cho doanh nghiệp. Theo cuộc điều tra năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI 2013 của VCCI, có đến 41% trong tổng số 8000 doanh nghiệp dân doanh Việt Nam cho rằng tình trạng nhũng nhiễu khi giải quyết thủ tục cho doanh nghiệp vẫn còn diễn ra khá phổ biến.6 Để đẩy lùi vấn nạn tham nhũng, giải pháp quan trọng là 4 Xem : Mục 2 và Mục 3 Nghị quyết 71/2006/NQ-QH do Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006 Khi gia nhập WTO, Việt Nam phải rà soát và sửa đổi khoảng 148 quy định pháp lí, bao gồm các luật, pháp lệnh, nghị định và một số lượng lớn các Thông tư, các quyết định của các Bộ trưởng và Chủ tịch các tỉnh (Trích từ bài viết của Lê Đăng Doanh – Những thay đổi căn bản được mong đợi về chính sách và MTKD liên quan đến việc gia nhập WTO của Việt Nam được trình bày trong quyển “Các doanh nghiệp Việt Nam với việc gia nhập WTO” do GS.TS Đỗ Hoài Nam chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2005, trang 46) 6 Có thể tru cập tại www.cafef.vn, thứ sáu ngày 21/03/2014 5 12 nhà nước phải tiến hành cải cách TTHC đối với doanh nghiệp,7 vì TTHC thông thoáng, minh bạch sẽ giúp kéo giảm tệ tham nhũng, kích thích doanh nghiệp đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 2.7. Mục tiêu của cải cách thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp ở Việt Nam Cải cách TTHC đối với doanh nghiệp là quá trình lâu dài, phức tạp nhưng phải hướng đến những mục tiêu cơ bản sau : Một là, phải củng cố và mở rộng được quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, tạo cơ hội cho doanh nghiệp gia nhập thị trường và hoạt động kinh doanh thuận lợi hơn, tạo chất xúc tác cần thiết để khuyến khích NĐT bỏ vốn đầu tư, kinh doanh vào nền kinh tế. Hai là, hoàn thiện hoạt động quản lý nhà nước, hướng đến xây dựng nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh ở Việt Nam, giúp giảm chi phí tài chính cho nhà nước trong hoạt động quản lý doanh nghiệp, chấn chỉnh công tác nhân sự, khắc phục được tình trạng cồng kềnh của bộ máy nhà nước, nêu cao tinh thần trách nhiệm của công chức nhà nước giải quyết TTHC cho doanh nghiệp, phòng ngừa tình trạng tham nhũng trong bộ máy hành chính nhà nước. Ba là, đem lại một môi trường kinh doanh thuận lợi và ít tốn kém hơn cho doanh nghiệp ở 3 cấp độ : tiết kiệm được thời gian tuân thủ TTHC cho doanh nghiệp, tiết kiệm được công sức doanh nghiệp phải bỏ ra để làm TTHC và tiết kiệm được chi phí tài chính tuân thủ TTHC của doanh nghiệp. 7 Trong bài viết “Nâng cao trách nhiệm và đạo đức trong khu vực công” Tác giả Jeremy Pope đã đưa ra 4 loại chiến lược để giảm tham nhũng, trong đó chiến lược thứ hai là phải hướng vào việc cải tổ thủ tục của Chính phủ để nâng cao tính minh bạch và giảm yếu tố kích thích tham nhũng. Còn chiến lược thứ ba là nhằm vào các chương trình chính phủ có thể dẫn tới tham nhũng do do được thiết kế kém hoặc không cần thiết. Những quy định quản lí có thể phải được xem xét lại để xác định xem chúng có cần thiết không và chúng có thể được thực hiện suông sẻ không (Xem : Rick Stapenhurst và Sahr.Kpundeh : “Kiềm chế tham nhũng - Hướng tới một mô hình xây dựng sự trong sạch quốc gia”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002, trang 140 và 141) 13 CHƯƠNG 3 ĐÁNH GIÁ PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP VỀ THỦ TỤC THÀNH LẬP, TỔ CHỨC LẠI VÀ GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM 3.1. Đánh giá pháp luật doanh nghiệp về thủ tục thành lập doanh nghiệp 3.1.1. Những kết quả đạt được. - Thứ nhất, PLDN hợp nhất thủ tục ĐKKD và đăng ký thuế thành ĐKDN. Trước ngày 01/06/2010, Việt Nam duy trì hai thủ tục độc lập là ĐKKD và đăng ký thuế, mất của NĐT từ 50 - 60 ngày, tốn từ 3 - 5 triệu đồng.8 Tuy nhiên, từ ngày 01/06/2010, thực thi Nghị định 43/2010/NĐ-CP, NĐT chỉ làm một thủ tục cấp giấy chứng nhận ĐKDN - trong đó thống nhất mã số doanh nghiệp đồng thời là mã số thuế và mã số ĐKKD. Ngoài ra, Nghị định 43/2010/NĐ-CP còn rút ngắn và thống nhất thời hạn ĐKDN, thay đổi ĐKDN, tổ chức lại doanh nghiệp, thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp xuống còn 05 ngày làm việc, so với trước đây là 10 ngày cấp ĐKKD và 7 ngày để cấp phép thành lập chi nhánh, VPĐD của doanh nghiệp. Chính cải cách thủ tục ĐKDN trên đã tạo động lực cho NĐT gia nhập thị trường. Ngay trong năm 2010, cả nước đã có 85.000 doanh nghiệp thành lập mới.9 Năm 2013 có 76.955 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 10,1% so với năm 2012.10 Trong 02 tháng đầu năm 2014, đã có 10.869 doanh nghiệp được thành lập mới với tăng 13,1% so với cùng kỳ năm 2013.11 - Thứ hai, PLDN quy định công nghệ hóa thủ tục ĐKDN tại một đầu mối Nghị định 43/2010/NĐ-CP cho phép NĐT có thể ĐKDN bằng hồ sơ điện tử qua Cổng thông tin ĐKDN quốc gia - có giá trị pháp lý như hồ sơ bằng bản giấy.12 Ngoài ra, NĐT có thể nhận giấy chứng nhận ĐKDN qua dịch vụ chuyển phát hoặc nhận tại cơ quan ĐKKD. Giấy chứng nhận ĐKDN được lưu dưới dạng dữ liệu điện tử trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về ĐKDN có giá trị pháp lý như giấy chứng nhận ĐKDN bằng bản giấy do cơ quan ĐKKD cấp. Như vậy, sự phân biệt giấy chứng nhận ĐKDN bằng giấy và bằng dữ liệu điện tử đã không còn, giúp NĐT có thể online 100% khi thành lập doanh nghiệp, tiết kiệm được thời gian, chi phí cho NĐT và tăng cường hiệu quả QLNN bằng công nghệ cao phù hợp với xu thế chung của thế giới. 8 Xem : Phạm Chi Lan “Phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, Tạp chí Cộng sản, số 2+3 (122 + 123), 2007 9 Nguồn : Cục Quản lý ĐKKD (Bộ Kế hoạch & Đầu tư) có thể truy cập tại www.dangkykinhdoanh.gov.vn 10 Nguồn : Cục Quản lý ĐKKD (Bộ Kế hoạch & Đầu tư), có thể truy cập tại www.dangkykinhdoanh.gov.vn 11 Nguồn : Báo cáo tình hình ĐKDN hai tháng đầu năm 2014 được đăng tải tại địa chỉ www.dangkykinhdoanh.gov.vn 12 Ông Hồ Sĩ Hùng – Cục trưởng Cục Phát triển DN (Bộ KHĐT) cho biết“Sau khi Hệ thống thông tin ĐKDN đi vào vận hành, DN sẽ giảm chi phí và thời gian hoàn tất thủ tục đăng ký, do nhiều quy trình sẽ được tự động hóa, giảm thời gian ĐKKD, đồng thời giảm thiểu số lượng hồ sơ bị trả lại. Bên cạnh đó, sẽ mở rộng khả năng tiếp cận thông tin có giá trị pháp lý của DN trên phạm vi toàn quốc, DN sẽ có nhiều cơ hội để chủ động tìm hiểu thông tin pháp lý về đối tác, bạn hàng... thông qua dịch vụ cung cấp thông tin của Hệ thống” (Có thể truy cập tại www.vietstock.vn, thứ hai 16/08/2010) 14 Bên cạnh đó, Nghị định 43/2010/NĐ-CP đã xây dựng quy trình thành lập doanh nghiệp tại một đầu mối là Hệ thống thông tin ĐKDN quốc gia với hai thành tố hợp thành là Cổng thông tin ĐKDN quốc gia và Cơ sở dữ liệu quốc gia về ĐKDN.13 Dữ liệu tại Hệ thống thông tin ĐKDN quốc gia là thông tin chung để cơ quan thuế và các cơ quan ĐKKD cả nước chia sẻ trong quản lý doanh nghiệp, qua đó giúp nhà nước triển khai các dịch vụ khác về sau như dịch vụ hỗ trợ tìm kiếm thông tin doanh nghiệp, tăng cường vai trò giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp. - PLDN quy định công khai ĐKDN tại một đầu mối, giảm tốn kém cho doanh nghiệp Từ ngày 25/02/2013, theo quy định tại Khoản 1 Điều 8c Nghị định 05/2013/NĐ-CP, doanh nghiệp chỉ đăng nội dung ĐKDN trên Cổng thông tin ĐKDN quốc gia, qua đó giúp nhà nước kiểm soát được số lượng doanh nghiệp thành lập mới trên lãnh thổ Việt Nam tại một đầu mối, khắc phục tình trạng công khai ĐKDN ở nhiều báo viết, báo điện tử phân tán, khó kiểm soát như trước đây. Mặt khác, quy định công khai ĐKDN trên Cổng thông tin ĐKDN quốc gia còn giúp doanh nghiệp giảm chi phí so với đăng báo giấy hoặc báo điện tử, theo đó, doanh nghiệp chỉ tốn 300.000 đồng, nếu so với đăng báo điện tử hoặc báo viết tốn khoảng 1 triệu đồng. - PLDN thu hẹp thẩm quyền quy định về GPKD và bãi bỏ GPKD không cần thiết gây trở ngại cho việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp Trong quy định về GPKD, PLDN có hai cải cách quan trọng : Một là, đã giới hạn thẩm quyền quy định về điều kiện kinh doanh và GPKD. Điều 7 Luật DN 2005 và Điều 8 Nghị định 102/2010/NĐ-CP đã xác định ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh áp dụng theo các quy định của các luật, pháp lệnh, nghị định chuyên ngành hoặc quyết định có liên quan của Thủ tướng Chính phủ. Các quy định về loại ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh đối với ngành nghề đó tại các văn bản QPPL khác đều không có hiệu lực thi hành. Việc giới hạn thẩm quyền quy định về điều kiện kinh doanh và GPKD nêu trên sẽ giúp nhà nước kiểm soát từ đầu việc hình thành GPKD, giảm đầu mối đặt ra điều kiện cấp phép kinh doanh, giảm cơ chế xin – cho trong công tác cấp phép, tiết kiệm cho doanh nghiệp chi phí thành lập và hoạt động, góp phần nâng cao hiệu quả QLNN, hạn chế tư tưởng cục bộ ngành, địa phương gây phương hại đến quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Hai là, tính đến thời điểm năm 2009, Việt Nam đã bỏ được 316 GPKD và chuyển 44 giấy phép khác thành điều kiện kinh doanh, đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp.14 Năm 2010, Chính phủ đã ban hành 25 Nghị quyết về phê duyệt phương án đơn giản hóa TTHC thuộc phạm vi quản lý của bộ, 13 Ưu điểm nổi bật của hệ thống này là Cơ sở dữ liệu trung tâm, bất kỳ Phòng ĐKKD cấp tỉnh nào cũng có thể truy cập vào cơ sở dữ liệu này để lưu thông tin ĐKDN của tỉnh đó. Thông tin chỉ có thể được lưu giữ và chỉnh sửa bởi chính Phòng ĐKKD đó, nhưng tất cả các Phòng ĐKKD các địa phương khác đều có thể truy cập và tra cứu thông tin của một DN trên phạm vi cả nước. (Giải thích của Bộ Kế hoạch & Đầu tư đăng trên Báo Đầu tư số ra ngày 22/05/2010.) 14 Xem : Hà Quang Ngọc : “Cải cách thủ tục hành chính từ khi Việt Nam gia nhập WTO”, Tạp chí Cộng sản số 3 (171), 2009. 15 ngành đã loại bỏ thêm một số GPKD không cần thiết đối với doanh nghiệp. Năm 2013, thực hiện Luật Quảng cáo 2012, Quốc hội đã bỏ nhiều GPKD trong lĩnh vực quảng cáo như bỏ giấy phép quảng cáo trên bảng, băng-rôn thay bằng thủ tục thông báo sản phẩm quảng cáo đến cơ quan QLNN về quảng cáo, bãi bỏ giấy phép ra phụ trương quảng cáo thay bằng thủ tục thông báo cho cơ quan QLNN về báo chí. 3.1.2 Những hạn chế của pháp luật doanh nghiệp về thủ tục thành lập doanh nghiệp - Thứ nhất, thủ tục ĐKDN không áp dụng cho tất cả doanh nghiệp Việt Nam. Điều 3 Luật DN 2005 và Khoản 3 Điều 2 Nghị định 102/2010/NĐ-CP đã xác định “Trường hợp có sự khác biệt giữa Luật DN với các Luật Chứng khoán, Luật Xuất bản, Luật Công chứng, Luật Luật sư,….. về hồ sơ, trình tự, thủ tục và điều kiện thành lập, ĐKDN….thì áp dụng theo quy định của luật đó”. Như vậy, một công ty chứng khoán chỉ cần xin giấy phép thành lập tại Uỷ ban Chứng khoán nhà nước và tuân thủ điều kiện, thủ tục quy định tại Luật Chứng khoán 2010 là đủ. Hệ quả, nhiều quy định thông thoáng của Luật DN 2005 bị vô hiệu hóa bởi pháp luật chuyên ngành, làm giảm ý nghĩa tích cực của thủ tục ĐKDN tại Nghị định 43/2010/NĐ-CP. - Thứ hai, các quy định về TTHC đi kèm thủ tục ĐKDN còn nhiều Báo cáo của WB về MTKD toàn cầu năm 2014 đã chỉ ra thực tế thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam NĐT phải trải qua 10 thủ tục, mất 34 ngày, tốn 2,3 triệu đồng. Trong khi ở Thái Lan, NĐT chỉ trải qua 4 thủ tục, mất 27.5 ngày để thành lập 1 DN. Ở Malaysia, chỉ trải qua 3 thủ tục, mất 6 ngày để thành lập 1 doanh nghiệp thì số lượng thủ tục ở Việt Nam là nhiều hơn. 15 Các thủ tục khắc dấu, cấp phép kinh doanh, đăng ký số lao động ...vẫn còn phức tạp. Ví dụ, sau khi ĐKDN, NĐT phải trực tiếp liên hệ cơ quan công an để làm thủ tục khắc dấu doanh nghiệp theo quy định tại Nghị định 58/2001/NĐ-CP và Nghị định 31/2009/NĐ-CP. Sự thiếu kết nối giữa thủ tục ĐKDN và thủ tục khắc dấu đã làm giảm hiệu quả thực thi Nghị định 43/2010/NĐ-CP trên thực tế. - Thứ ba, sự bất nhất trong quy định về thủ tục thành lập doanh nghiệp giữa PLDN và pháp luật đầu tư Theo Luật Đầu tư 2005, NĐT nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam phải có dự án đầu tư và làm thủ tục đầu tư để được cấp giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là giấy chứng nhận ĐKDN.16 Lẽ ra Luật Đầu tư 2005 chỉ cần điều chỉnh việc cấp giấy chứng nhận đầu tư, thực tế lại điều chỉnh cả việc cấp giấy chứng nhận ĐKDN cho doanh nghiệp, dẫn đến sự chồng chéo chức năng giữa cơ quan ĐKKD và cơ quan quản lý đầu tư, làm phát sinh nhiều vướng mắc về thủ tục bổ sung, sửa đổi nội dung ĐKDN trong giấy chứng nhận đầu tư như tên gọi, địa chỉ trụ sở chính, người đại diện theo pháp luật,…..gây rối cho cả cơ quan QLNN lẫn NĐT. 15 16 Nguồn : www.doingbusiness.org/data/exploreeconomies/vietnam#starting-a-business, 2014 Xem : Khoản 1 Điều 50 Luật Đầu tư 2005 16 - Thứ tư, pháp luật về giấy phép kinh doanh còn gây khó doanh nghiệp Một là, GPKD còn nhiều. Theo thống kê của VCCI, tính đến đến thời điểm 03/2010, cả nước có 315 GPKD.17 So với số GPKD bị bãi bỏ hoặc chuyển thành điều kiện kinh doanh, số lượng GPKD còn lại khoảng 250 là hợp lý, thực tế có hơn 300 giấy phép. Điều đó chứng tỏ một số lớn GPKD bằng nhiều phương thức khác nhau đã “hồi sinh”, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp và cải cách TTHC ở Việt Nam. Theo thống kê của VCCI, một doanh nghiệp cần bình quân 4,14 GPKD các loại, 14,56% doanh nghiệp đánh giá rất khó để có đủ các loại giấy phép này.18 Trong nội dung một số văn bản QPPL ban hành gần đây có xu hướng khôi phục lại GPKD, về thực chất đang làm sống lại cơ chế xin – cho trong cơ chế bao cấp trước đây.19 Ví dụ, trước năm 2012, thành lập doanh nghiệp kiểm toán theo quy định tại Nghị định 105/2004/NĐ-CP chỉ cần ĐKKD, không xin cấp phép kinh doanh tại Bộ Tài chính. Kết quả đã có 161 doanh nghiệp kiểm toán hoạt động ổn định ở Việt Nam.20 Thế nhưng, từ ngày 01/01/2012 thực hiện Luật Kiểm toán độc lập 2011, doanh nghiệp kiểm toán ngoài việc ĐKDN còn phải xin cấp GPKD tại Bộ Tài chính với thời hạn cấp phép lên đến 30 ngày !21 Hai là, điều kiện kinh doanh ngày càng siết chặt, gây khó cho doanh nghiệp, hạn chế cơ hội gia nhập thị trường của doanh nghiệp, chi phí doanh nghiệp bỏ ra ngày càng cao.22 Nghị định 109/2010/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 04/11/2010 về kinh doanh xuất khẩu gạo quy định bốn điều kiện để được Bộ Công thương cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo, trong đó buộc doanh nghiệp phải có ít nhất 01 kho chuyên dùng với sức chứa tối thiểu 5.000 tấn thóc, có ít nhất 01 cơ sở xay xát gạo với công suất tối thiểu 10 tấn thóc/giờ và phải trữ ít nhất 10% lượng gạo xuất khẩu 6 tháng trước đó.23 Quy định trên quá khó và không sát thực tế ở Việt Nam. Hệ quả, cả nước chỉ còn 49/210 doanh nghiệp đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo.24 Một số lượng lớn doanh nghiệp bị loại khỏi thương trường mà không dựa trên năng lực cạnh tranh của họ, do điều kiện kinh doanh khó làm tăng chi phí cho doanh nghiệp gia nhập thị trường.25 17 Xem : Vũ Thị Hoài Phương : “Hoàn thiện pháp luật về thủ tục hành chính trong đầu tư” , Tạp chí Tổ chức nhà nước, 03/2010. 18 Nguồn : có thể truy cập tại www.vneconomy.vn, thứ ba, ngày 25/09/2007 19 Xem : Nguyễn Thị Doan : “Một số giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay” Bài viết đăng trong Kỷ yếu hội thảo khoa học “Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam : Lý luận và Thực tiễn” do GS.TS Lê Hữu Nghĩa và TS. Đinh Văn Ân (đồng chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2004, trang 595 20 Xem : Tờ trình của Chính phủ về Dự thảo Luật Kiểm toán độc lập, 04/2010, Mục A.I 21 Xem : Điều 23 Luật Kiểm toán độc lập 2011, có hiệu lực thực thi từ ngày 01-01-2012 22 Xem : Anthony Ogus và Qing Zhang : “Licensing regimes East and West”, International Review of Law and Economics, số 25, 2005, trang 139. 23 Xem : Điều 4 và Điều 12 Nghị định 109/2010/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 04/11/2010, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2011 24 Xem : Báo Thanh niên số 222 (5709), thứ tư ngày 10/08/2011, trang 4 25 Xem : W.D.White : “Dynamic elements of regulation : The case of occupational licensure”, Research in Law and Economics, số 1, 1979, trang 15 17 Ba là, sự thiếu rõ ràng trong quy định về điều kiện kinh doanh. Khoản 2 Điều 8 Nghị định 102/2010/NĐ-CP liệt kê 7 hình thức của các điều kiện kinh doanh, trong đó hình thức thứ 6 và thứ 7 lại được quy định có tính đa nghĩa : “Chấp thuận khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”26 và “Các yêu cầu khác mà doanh nghiệp phải thực hiện hoặc phải có mới được quyền kinh doanh ngành, nghề đó mà không cần xác nhận, chấp thuận dưới bất kỳ hình thức nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.27 Quy định trên quá mập mờ vì không xác định cụ thể chấp thuận khác ở đây là gì và cơ quan có thẩm quyền là cơ quan nào ? Ngoài ra, Khoản 4 Điều 24 và Khoản 6 Điều 30 của Quy chế hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 103/2009/NĐ-CP quy định doanh nghiệp kinh doanh vũ trường hoặc karaoke phải đáp ứng điều kiện “phù hợp với quy hoạch của từng địa phương”. Thực tế, việc xác định thế nào là phù hợp với quy hoạch của tỉnh, thành phố…hoàn toàn thuộc thẩm quyền và ý chí chủ quan của cơ quan nhà nước.28 Để đối phó với quy định thiếu rõ ràng, gây khó trên, nhiều doanh nghiệp chuyển sang thành lập quán bar để kinh doanh vũ trường, “lách” quy định “phù hợp với quy hoạch” của nhà nước, trong khi thủ tục cấp phép lại thoáng hơn nhiều. 3.2 Đánh giá pháp luật doanh nghiệp về thủ tục tổ chức lại doanh nghiệp 3.2.1 Những kết quả đạt được Ngày 27/12/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 70/2010/NQ-CP về đơn giản hoá TTHC thuộc quản lý của Bộ Kế hoạch & Đầu tư để thảo gỡ các vướng mắc phát sinh trong thủ tục tổ chức lại doanh nghiệp ở những nội dung sau : - Đối với thủ tục chuyển đổi công ty TNHH thành công ty cổ phần : Nghị quyết 70/2010/NQCP xác định số lượng hồ sơ chuyển đổi doanh nghiệp là 01 (trước đó Luật DN 2005, Nghị định 43/2010/NĐ-CP không quy định cụ thể) và bỏ hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp hoặc thỏa thuận góp vốn trong thành phần hồ sơ. - Đối với thủ tục chuyển đổi công ty TNHH hai thành viên trở lên thành công ty TNHH một thành viên : Nghị quyết 70/2010/NQ-CP chỉ yêu cầu doanh nghiệp nộp 01 bộ hồ sơ chuyển đổi, bỏ các loại giấy tờ không cần thiết trong hồ sơ chuyển đổi như bản sao hợp lệ một trong giấy tờ chứng thực cá nhân, bản sao giấy chứng nhận ĐKKD hoặc giấy chứng nhận ĐKDN. Thay vào đó, chỉ yêu cầu doanh nghiệp nộp bản chụp kèm bản chính Giấy CMND/hộ chiếu của cá nhân, giấy chứng nhận ĐKDN (đối với trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp), bản sao có chứng thực các giấy tờ trên (đối với trường hợp nộp qua đường bưu điện), bản chụp bằng máy scan (đối với trường hợp nộp qua mạng internet). Ngoài ra, trong hồ sơ chuyển đổi, danh sách người đại diện theo ủy quyền đối với công ty 26 Xem : Điểm e Khoản 2 Điều 8 Nghị định 102/2010/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 01/10/2010 Xem : Điềm g, Khoản 2 Điều 8 Nghị định 102/2010/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 01/10/2010 28 Xem : Phạm Thị Hiền : “Bàn về các quy định cấp phép cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mở cơ sở bán lẻ tại Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12 (284), 2011, trang 45 27 18 TNHH một thành viên quy định tại Nghị định 43/2010/NĐ-CP và hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp của công ty cũng được loại bỏ, giúp thủ tục chuyển đổi nhanh chóng hơn. - Đối với thủ tục chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thành công ty TNHH : Nghị quyết 70/2010/NQ-CP đã loại bỏ các loại giấy tờ sau ra khỏi thành phần hồ sơ chuyển đổi mà nếu áp dụng theo Nghị định 43/2010/NĐ-CP và Nghị định 102/2010/NĐ-CP buộc doanh nghiệp phải có : (1) Danh sách chủ nợ và số nợ chưa thanh toán, danh sách người lao động hiện có; danh sách các hợp đồng chưa thanh lý. (2) Văn bản thỏa thuận với các bên của hợp đồng chưa thanh lý về việc công ty TNHH chuyển đổi tiếp nhận và thực hiện các hợp đồng đó. (3) Văn bản cam kết của chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thỏa thuận giữa chủ doanh nghiệp tư nhân và các thành viên góp vốn khác về việc tiếp nhận và sử dụng lao động hiện có của doanh nghiệp. 29 3.2.2. Những hạn chế của pháp luật doanh nghiệp về thủ tục tổ chức lại doanh nghiệp. Một là, việc quy định các công ty cùng loại mới được sáp nhập, hợp nhất là chưa phù hợp với thực tế Việt Nam, thể hiện sự can thiệp vào quyền tự chủ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và không phù hợp với nguyên tắc tự do kinh doanh của kinh tế thị trường. Ở Trung Quốc, họ cho phép các công ty được sáp nhập với nhau, không nhất thiết phải công ty cùng loại như ở Việt Nam.30 Hơn nữa, việc thiếu sự giải thích thuật ngữ “cùng loại” là cùng loại hình công ty hay cùng ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh cũng gây trở ngại không nhỏ cho việc tái cấu trúc doanh nghiệp ở Việt Nam. Hai là, Nghị định 43/2010/NĐ-CP và Nghị định 102/2010/NĐ-CP không cho phép doanh nghiệp tư nhân chuyển thành công ty cổ phần và công ty hợp danh hoặc chuyển từ công ty TNHH thành doanh nghiệp tư nhân, loại bỏ công ty hợp danh ra khỏi đối tượng áp dụng của thủ tục chuyển đổi doanh nghiệp là không phù hợp với thực tế kinh tế thị trường ở Việt Nam, làm tăng thêm gánh nặng TTHC cho doanh nghiệp. Hiện nay, theo quy định tại Thông tư 11/2011/TT-BTP do Bộ Tư pháp ban hành ngày 27/06/2011, Bộ Tư pháp khuyến khích các văn phòng công chứng tư dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân chuyển đổi sang hình thức văn phòng công chứng dưới hình thức công ty hợp danh. Song, để thay đổi loại hình các văn phòng công chứng, doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục giải thể, sau đó tiến hành thủ tục thành lập mới, gây khó khăn, tốn kém, phát sinh thêm các TTHC, lãng phí thời gian, công sức của các văn phòng công chứng và cơ quan nhà nước có thẩm quyền.31 29 Xem Phần I, Mục I.21.a Nghị quyết 70/2010/NQ-CP ngày 27/12/2010 của Chính phủ về Phê duyệt Phương án đơn giản hoá TTHC thuộc phạm vi quản lý của Bộ Kế hoạch & Đầu tư Việt Nam 30 Xem : Điều 173 Luật Công ty Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa ban hành ngày 27 tháng 10 năm 2005, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 06 năm 2006 31 Xem : Phan Hải Hồ : “Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với văn phòng công chứng”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 14(222), 07/2012, trang 25
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan