Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai từ thực tiễn tỉnh vĩnh phúc ...

Tài liệu Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai từ thực tiễn tỉnh vĩnh phúc

.PDF
96
332
69

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ------/------ BỘ NỘI VỤ ---/--- HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA TRẦN MẠNH HÙNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN TỈNH VĨNH PHÚC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ------/------ BỘ NỘI VỤ ----/--- HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA TRẦN MẠNH HÙNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN TỈNH VĨNH PHÚC Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 60 38 01 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Quốc Sửu HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Trần Mạnh Hùng MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU Chương 1: 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI 7 1.1. Giải quyết khiếu nại về đất đai 7 1.2. Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai 12 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TỪ TỈNH VĨNH PHÚC 2.1. Pháp luật Việt Nam về giải quyết khiếu nại đất đai 2.2. Thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai ở tỉnh Vĩnh Phúc 33 33 51 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI 70 3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai 70 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai 74 KẾT LUẬN 85 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT GQKN : Giải quyết khiếu nại HĐND : Hội đồng nhân dân QSDĐ : Quyền sử dụng đất SDĐ : Sử dụng đất UBND : Ủy ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Tên biểu đồ Số hiệu Trang biểu đồ 2.1 Tỉ lệ khiếu nại ở Vĩnh Phúc 2.2 Tình hình tiếp nhận đơn, giải quyết khiếu nại ở tỉnh Vĩnh Phúc 55 64 1 MỞ ĐẦU Khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận tại Điều 30 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam năm 2013. Đây là hiện tượng phát sinh trong đời sống xã hội như là một phản ứng của con người trước một quyết định, một hành vi nào đó mà người khiếu nại cho rằng quyết định hay hành vi đó là không phù hợp với các quy tắc, chuẩn mực trong đời sống cộng đồng, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc thực hiện quyền khiếu nại là một hình thức dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước, công chức nhà nước. Giải quyết khiếu nại (GQKN) là trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước, giải quyết tốt khiếu nại của công dân nhằm phát huy dân chủ xã hội; góp phần đấu tranh chống quan liêu tham nhũng, tiêu cực trong các cơ quan nhà nước, góp phần ổn định chính trị, thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong quá trình xây dựng phát triển và bảo vệ đất nước, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác GQKN của công dân qua đó đã ban hành nhiều văn bản, pháp luật quy định về vấn đề này. Chính sách, pháp luật về GQKN ngày càng hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho tổ chức, cá nhân thực hiện quyền khiếu nại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Trong những năm gần đây, tình hình khiếu nại có chiều hướng gia tăng, trong đó khiếu nại về đất đai luôn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số đơn thư khiếu nại đây là một hiện tượng xảy ra phổ biến trong xã hội, đặc biệt khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, đất đai là tài sản quý giá, vừa là tư liệu sản xuất vừa là điều kiện cần thiết trong đời sống xã hội ở nước ta, Theo Hiến pháp năm 2013, "người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ". Người sử dụng đất (SDĐ) có các quyền chung 2 như: được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ), quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất; hưởng các lợi ích do công trình của Nhà nước phục vụ việc bảo vệ, cải tạo đất nông nghiệp; được Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo, bồi bổ đất nông nghiệp; được Nhà nước bảo hộ khi người khác xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp về đất đai của mình; được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; có quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm QSDĐ hợp pháp của mình và những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai. Chính vì vậy lĩnh vực đất đai luôn là một lĩnh vực quan trọng phát sinh nhiều mâu thuẫn tranh chấp, khiếu nại, đặc biệt là các vụ việc liên quan đến vấn đề thu hồi đất, đền bù, giải phóng mặt bằng. Việc giải quyết các khiếu nại trong lĩnh vực này là hết sức khó khăn, phức tạp; không ít các vụ việc trở thành điểm nóng, dẫn đến tình trạng khiếu kiện đông người vượt cấp, gây mất ổn định chính trị, tình hình trật tự an toàn xã hội. Tính phức tạp của khiếu nại về đất đai không chỉ bắt nguồn từ những xung đột gay gắt về lợi ích kinh tế, từ hệ quả của sự quản lý thiếu hiệu quả của cơ quan công quyền, sự bất hợp lý và thiếu đồng bộ của hệ thống chính sách mà còn do những hạn chế của hệ thống pháp luật GQKN về đất đai. Từ thực tiễn trên cần thiết phải có những nghiên cứu về thực trạng pháp luật GQKN để minh chứng làm căn cứ hoàn thiện hệ thống pháp luật về GQKN đất đai trên cơ sở đáp ứng yêu cầu nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân, tạo điều kiện cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết ngày càng tốt hơn các vụ khiếu nại về đất đai hiện nay trên địa bàn quản lý. Vĩnh Phúc là một tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cửa ngõ của Thủ đô, gần sân bay quốc tế Nội Bài, là cầu nối giữa các tỉnh phía Tây Bắc với Hà Nội và đồng bằng châu thổ sông Hồng, do vậy có vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế khu vực và quốc gia. Là địa phương đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ, Vĩnh Phúc cũng có nhu cầu lớn về 3 SDĐ làm cho giá trị QSDĐ trên địa bàn cũng tăng lên nhanh chóng. Điều này đã dẫn đến một thực tế là khiếu nại về đất đai tại Vĩnh Phúc cũng đang diễn ra hết sức phức tạp, đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ trên cơ sở pháp luật GQKN về đất đai để tháo gỡ những vướng mắc cho người dân góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người SDĐ. Xuất phát từ bối cảnh đó tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: "Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai - từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc" làm đề tài Luận văn cao học chuyên ngành Luật Hiến pháp - Luật Hành chính, nhằm tìm kiếm những cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật GQKN về đất đai ở Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Pháp luật GQKN nói chung và pháp luật GQKN về đất đai nói riêng là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Hiện nay đã có một số lượng lớn các bài viết, công trình nghiên cứu về GQKN và pháp luật GQKN, GQKN về đất đai, trong đó có một số công trình tiêu biểu sau: - Phạm Văn Long (2005), "Việc thực hiện thẩm quyền giải quyết của thủ trưởng cơ quan nhà nước và trách nhiệm của các cơ quan thanh tra nhà nước trong giải quyết khiếu nại hành chính", Đề tài khoa học cấp Bộ; - Ngô Mạnh Toan (2005), "Xây dựng quy trình giải quyết khiếu nại hành chính", Đề tài khoa học cấp cơ sở; - Nguyễn Tuấn Khanh (2008), "Việc áp dụng pháp luật để giải quyết khiếu nại về đất đai", Tạp chí Thanh tra, số 5/2008; - Nguyễn Thị Lệ Hằng (2010), "Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực quản lý đất đai của Ủy ban nhân dân cấp huyện thuộc tỉnh Khánh Hòa", Luận văn Thạc sĩ hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia; - Phạm Anh Tuấn (2011), "Cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính ở Việt Nam hiện nay và vấn đề hoàn thiện", Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; 4 - Viện khoa học thanh tra, Thanh tra Chính phủ (2012), Khiếu nại hành chính và giải quyết khiếu nại hành chính ở Việt Nam hiện nay; - Đỗ Văn Tuấn (2013), "Thẩm quyền giải quyết khiếu nại đất đai của cơ quan hành chính nhà nước, thực tiễn tại Tỉnh Hưng Yên", Luận văn Thạc sĩ Hành chính công, Học viện Hành chính. - Trần Ngân Hà (2013), "Pháp luật về giải quyết khiếu nại tố cáo ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; - Doãn Hồng Nhung (2014), "Kỹ năng áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam", Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; - Nguyễn Ngọc Phi (2015), "Giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc", Luận văn Thạc sĩ Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia;... Nội dung nghiên cứu trong các công trình nói trên mới dừng lại ở mức độ chung nhất về GQKN hành chính và hoạt động GQKN về đất đai trên một số địa bàn. Tuy nhiên chưa nhiều công trình nghiên cứu cụ thể về pháp luật GQKN về đất đai trực tiếp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật GQKN về đất đai, đánh giá đúng thực trạng pháp luật GQKN về đất đai và thực tiễn thực hiện pháp luật trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, tìm ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân. Từ đó, đề xuất một số giải pháp phù hợp và khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật GQKN về đất đai ở nước ta hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây: Một là, nghiên cứu một cách hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật GQKN về đất đai như: Khái niệm, đặc điểm của GQKN về đất đai; khái niệm, đặc điểm pháp luật GQKN về đất đai, nội dung, vai trò của pháp luật GQKN về đất đai. 5 Hai là, phân tích đánh giá thực trạng pháp luật GQKN về đất đai và thực trạng việc thực hiện pháp luật GQKN về đất đai trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, qua đó thấy được những ưu điểm, hạn chế và tìm ra nguyên nhân dẫn tới những hạn chế đó. Ba là, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật GQKN về đất đai. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn chủ yếu nghiên cứu các quy định pháp luật thực định về GQKN đất đai và việc thực tiễn thực hiện các quy định đó trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng pháp luật GQKN về đất đai trước và sau khi Luật GQKN năm 2011 có hiệu lực, tập trung chủ yếu vào giai đoạn từ 2011 đến nay. - Về không gian: Nghiên cứu về thực tiễn thực hiện pháp luật GQKN về đất đai trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền khiếu nại của công dân và GQKN của công dân; chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về GQKN đất đai, về yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Cơ sở lý luận nêu trên là nền tảng tư tưởng, lý luận để nghiên cứu vấn đề hoàn thiện pháp luật GQKN về đất ở Việt Nam hiện nay. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh, lôgic, 6 kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, chú trọng việc thu thập các số liệu từ các báo cáo thực tế về GQKN đất đai ở trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. 6. Những đóng góp mới của luận văn Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống, toàn diện về pháp luật GQKN về đất đai từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc nên có những đóng góp mới như sau: - Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về pháp luật GQKN về đất đai. - Làm rõ thực trạng pháp luật GQKN về đất đai từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc qua việc phân tích, so sánh, đánh giá, rút ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân. Từ đó, làm tiền đề đưa ra quan điểm và giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật GQKN về đất đai, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hoàn thiện pháp luật về GQKN nói riêng, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Góp phần hệ thống, xây dựng cơ sở lý luận về pháp luật GQKN đất đai. - Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu lập pháp và các nhà thực tiễn áp dụng pháp luật về GQKN đất đai trong việc thực hiện thẩm quyền quản lý và SDĐ có hiệu quả; ngăn ngừa, hạn chế nguyên nhân gây nên khiếu nại về đất đai cũng như nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật GQKN về đất đai. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai. Chương 2: Thực trạng pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai. 7 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI 1.1. GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI 1.1.1. Khiếu nại đất đai Khiếu nại là một hiện tượng được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội. Khiếu nại được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ xã hội, khiếu nại là hiện tượng phát sinh trong đời sống xã hội đó là sự phản ứng có tính tự nhiên của một người đối với hành vi của người khác khi họ cho rằng hành vi đó không phù hợp với quy tắc chuẩn mực trong đời sống cộng đồng, xâm phạm đến quyền và lợi ích của mình. Về góc độ này khiếu nại phản ánh hiện tượng vi phạm những quy tắc của xã hội, của cộng đồng và xã hội cần phải có phương thức giải quyết. Về góc độ chính trị - pháp lý, khiếu nại là quyền tự do, quyền dân chủ quan trọng của công dân được pháp luật quy định và được bảo đảm thực hiện bằng bộ máy nhà nước. Quyền khiếu nại được coi là "quyền để bảo vệ quyền", là công cụ pháp lý để công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị hành vi của người khác xâm phạm, nghĩa là khiếu nại được sử dụng khi quyền chủ thể của bản thân công dân khiếu nại hoặc người do mình bảo hộ bị vi phạm do quyết định hoặc hành vi vi phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước hoặc nhân viên nhà nước. Ở đây khiếu nại được coi là phương tiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội, phản ánh giá trị của nền dân chủ của một quốc gia. Dưới góc độ khoa học luật học, khiếu nại được đặt trong mối quan hệ giữa một bên là Nhà nước và một bên là công dân. Vì vậy, khiếu nại được hiểu là việc công dân, cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính hành vi hành chính 8 hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Theo Luật Khiếu nại năm 2011, khiếu nại lại được định nghĩa là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, khiếu nại được coi là quyền cơ bản của công dân, là một trong các hình thức để công dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của mình, thông qua việc khiếu nại mà công dân phản ánh ý chí, nguyện vọng của mình tới các cơ quan nhà nước để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và đấu tranh chống các biểu hiện tham nhũng, tiêu cực, vi phạm pháp luật, góp phần dân chủ, lành mạnh hóa các hoạt động của cơ quan thực thi quyền lực công. Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là tài sản, nguồn lực to lớn của đất nước, là nguồn sống của nhân dân. ở nước ta, mặc dù trải qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau từ việc công nhận các hình thức sở hữu đối với đất đai cho đến việc lựa chọn hình thức sở hữu toàn dân đối với đất đai hiện nay. Tại Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 quy định: "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai" [39]. Người SDĐ, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến SDĐ có quyền khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai. Có thể thấy khiếu nại về đất đai là một dạng khiếu nại hành chính, chỉ việc khiếu nại của các chủ thể là người nhằm hướng tới lợi ích của họ trong lĩnh vực đất đai. Chủ thể khiếu nại đất đai rất đa dạng, là người SDĐ được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công 9 nhận QSDĐ, nhận chuyển QSDĐ theo quy định của pháp luật về đất đai. Các chủ thể có quyền khiếu nại đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai khi có căn cứ cho rằng các quyết định hành chính, hành vi hành chính đó xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khiếu nại về đất đai là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân theo thủ tục do Luật Khiếu nại quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến lĩnh vực đất đai của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Khiếu nại về đất đai có các đặc điểm sau: - Đối tượng khiếu nại là các quyết định hành chính, hành vi hành chính đều liên quan tới quản lý đất đai của nhà nước mang tính đặc thù, bao gồm: Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích SDĐ; quyết định bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; quyết định về cấp hoặc thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ; quyết định gia hạn thời hạn SDĐ; - Hành vi hành chính trong quản lý đất đai bị khiếu nại là hành vi của cán bộ, công chức nhà nước khi giải quyết công việc hành chính trong quản lý đất đai; - Việc GQKN, tranh chấp về đất đai liên quan đến thẩm quyền của nhiều cơ quan khác nhau: Cơ quan tài nguyên và môi trường thực hiện chức năng quản lý đất đai, cơ quan tài chính quản lý chính sách tài chính về đất đai, cơ quan xây dựng quản lý về nhà ở; thanh tra và Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp… - Phương thức giải quyết được thực hiện dưới nhiều phương diện khác nhau thông qua mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. 10 1.1.2. Giải quyết khiếu nại về đất đai Giải quyết khiếu nại được hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bằng các hoạt động thẩm tra, xác minh, kết luận và ra quyết định GQKN của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xem xét lại các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan có thẩm quyền ban hành khi có căn cứ cho rằng các quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại. Tại Điều 2, Khoản 11 Luật Khiếu nại năm 2011 thì giải quyết khiếu nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại. Ở đây có thể thấy GQKN bao gồm các công việc: Xác minh để làm rõ các tình tiết sự việc; kết luận về nội dung khiếu nại, trong đó xác định rõ khiếu nại của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đúng, đúng một phần hoặc sai toàn bộ; căn cứ vào quy định của pháp luật xử lý từng vấn đề cụ thể trong nội dung khiếu nại từ đó quyết định giữ nguyên, sửa đổi hoặc hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết định hành chính bị khiếu nại, chấm dứt quyết định hành chính, bị khiếu nại; quyết định việc bồi thường thiệt hại cho người khiếu nại (nếu có) hoặc giải quyết các vấn đề cụ thể khác trong nội dung khiếu nại. Yêu cầu của việc GQKN là phải tuân theo đúng quy định của pháp luật; tức là phải đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục giải quyết; trong đó việc xác định đúng cơ quan có thẩm quyền là vấn đề rất quan trọng. Tại Khoản 2 Điều 204 Luật Đất đai năm 2013 quy định về trình tự, thủ tục GQKN quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại. Các "quyết định hành chính về đất đai", "hành vi hành chính về đất đai" nêu trên của cơ quan hành chính nhà nước vừa là đối tượng vừa là khách thể của quản lý hành chính nhà nước. Khi ban hành các quyết định cũng như hành vi hành chính của người có thẩm quyền, cơ quan có thẩm quyền không phù hợp với các quy định của pháp luật về đất đai, làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của công dân thì việc công dân có thể phản ứng lại những quyết 11 định này nhằm yêu cầu người ra quyết định hoặc có hành vi không đúng xem xét và sửa đổi cho phù hợp. Chính vì vậy, GQKN từ phương diện pháp lý nêu trên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm trong việc tiến hành thẩm tra, xác minh (thông qua các hoạt động tác nghiệp) để xác định rõ bản chất sự việc, nội dung khiếu nại kết luận về tính đúng sai của sự việc, yêu cầu của người khiếu nại, từ đó đề xuất với thủ trưởng hướng GQKN. Việc GQKN về đất đai hình thành trên cơ sở phát sinh từ việc yêu cầu thực hiện quyền khiếu nại của công dân. Công dân có quyền yêu cầu từ phía nhà nước cụ thể từ các cơ quan, người có thẩm quyền GQKN về đất đai giải quyết theo trình tự việc khiếu nại. Tuy nhiên, việc phân định thẩm quyền GQKN về đất đai căn cứ vào nội dung, tính chất vụ việc khiếu nại. Theo đó khái niệm GQKN về đất đai được hiểu là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định GQKN đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý và sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người có thẩm quyền. Bản chất việc GQKN về đất đai là một hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai. Do đó đòi hỏi hoạt động này phải tuân thủ theo những nguyên tắc và trình tự thủ tục nhất định nhằm đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước về đất đai. GQKN về đất đai là một hình thức GQKN nói chung vì vậy, GQKN về đất đai mang các đặc điểm của GQKN đó là: Thứ nhất, GQKN về đất đai là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Tính quyền lực nhà nước thể hiện qua hoạt động xem xét, đánh giá, giải quyết theo trình tự thủ tục của người có thẩm quyền như thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước (Chủ tịch UBND các cấp, thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về đất đai như cơ quan tài nguyên môi trường các cấp, cơ quan thanh tra nhà nước…) về tính đúng sai, tính hợp pháp, hợp lý của quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai. Mặt khác, kết quả GQKN về đất đai là quyết định bằng văn bản, khi quyết định có hiệu lực buộc các chủ thể có 12 liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành, trong một số trường hợp được Nhà nước bảo đảm bằng biện pháp cưỡng chế. Thứ hai, GQKN về đất đai phải tuân theo những hình thức, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Trình tự thủ tục phải công khai, dân chủ, bảo đảm đúng thẩm quyền. Khiếu nại cấp dưới do cơ quan cấp trên giải quyết và đến một cấp nhất định thì chấm dứt việc giải quyết, nếu người khiếu nại không đồng ý thì vụ việc được đưa ra tòa án để giải quyết. GQKN về đất đai bao gồm GQKN lần đầu và GQKN lần hai. Đây là điểm khác biệt so với giải quyết tố cáo. Giải quyết tố cáo được phân theo luồng, đồng thời không có điểm dừng, trường hợp giải quyết không đúng, người dân tố cáo tiếp thì cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm xem xét, giải quyết tiếp. Thứ ba, GQKN về đất đai mang tính cá biệt, cụ thể. Việc GQKN về đất đai được thực hiện đối với từng trường hợp cụ thể. Quyết định về kết quả GQKN được áp dụng cho từng đối tượng được xác định trong văn bản và có hiệu lực ngay sau đó. Việc thực hiện và áp dụng nó không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý đối với các chủ thể khác. Thứ tư, GQKN về đất đai phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định bao gồm nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc khách quan, nguyên tắc công khai minh bạch, nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc kịp thời, nguyên tắc đối thoại. Các nguyên tắc cơ bản là những định hướng, những tư tưởng xuyên suốt trong quá trình GQKN về đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Những tư tưởng đó phải trên cơ sở định hướng của Đảng, của Nhà nước về bảo đảm, bảo vệ quyền con người, về tính công bằng của pháp luật, về tính công khai minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước, về tính dân chủ nhân dân. 1.2. PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai Khi các chủ thể thực hiện quyền khiếu nại thì giữa họ với cơ quan nhà nước sẽ phát sinh những quan hệ pháp luật khiếu nại. Khi có khiếu nại phát 13 sinh, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải có trách nhiệm xem xét giải quyết để thực hiện đúng chức năng và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Trong quá trình GQKN, cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền không chỉ xem xét tính hợp lý của các quyết định, hành vi hành chính đó. Từ đó đưa ra các giải pháp để khắc phục, xử lý phù hợp để có thể chấn chỉnh những sai phạm xảy ra, cũng như dự báo được các tình huống có thể xảy đến trong tương lai. Pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ về GQKN. Có thể hiểu pháp luật là công cụ hữu hiệu trong hoạt động quản lý nhà nước. Vai trò điều chỉnh đó chủ yếu được thể hiện thông qua việc Nhà nước ban hành các quy phạm pháp luật cụ thể nhằm điều chỉnh từng nhóm các quan hệ xã hội. Nhóm quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật về đất đai tạo thành nhóm quan hệ pháp luật về đất đai bao gồm nhiều quy định pháp luật như nội dung khiếu nại đất đai, trình tự thủ tục GQKN đất đai… Quan hệ pháp luật về đất đai được hình thành trên các yếu tố cấu thành gồm chủ thể của quan hệ pháp luật đất đai, khách thể quan hệ pháp luật đất đai và nội dung quan hệ pháp luật đất đai. Trong đó chủ thể của quan hệ pháp luật đất đai là các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai thông qua việc thực hiện quyền và nghĩa vụ. Pháp luật quy định về chủ thể của quan hệ pháp luật đất đai gồm có Nhà nước và người SDĐ. Nhà nước tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý nhà nước về đất đai. Nhà nước tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai thông qua hoạt động thực hiện nhiệm vụ quyền hạn được pháp luật quy định như ban hành các quyết định hành chính về đất đai, hành vi hành chính về đất đai của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Mối quan hệ này rất dễ xảy ra tranh chấp bởi một bên mang tính quyền lực nhà nước trong việc thực hiện nhiệm 14 vụ quản lý của mình. Chủ thể SDĐ là người đang thực tế chiếm hữu đất đai do Nhà nước giao, cho thuê, cho phép nhận QSDĐ hoặc được Nhà nước công nhận QSDĐ. Các chủ thể SDĐ này gồm các tổ chức trong nước; cá nhân, hộ gia đình trong nước; cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo; tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao; Người Việt Nam định cư ở nước ngoài; tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, các chủ thể này có thể không đồng ý với những nội dung quyết định hành chính về đất đai hoặc hành vi hành chính về đất đai của người có thẩm quyền, từ đó phát sinh hoạt động khiếu nại về đất đai và hoạt động GQKN về đất đai. Về nội dung của quan hệ pháp luật đất đai là tổng thể quyền hạn và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai. Các quyền hạn, nghĩa vụ này được pháp luật quy định và bảo vệ trong đó có quyền và nghĩa vụ về khiếu nại của các chủ thể, quyền được yêu cầu GQKN và nghĩa vụ GQKN của cá nhân, tổ chức có thẩm quyền.Khách thể của quan hệ pháp luật đất đai là đối tượng mà các chủ thể nhằm hướng tới, đạt được khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai. Có thể thấy khiếu nại về đất đai là một dạng khiếu nại hành chính, chỉ việc khiếu nại của các chủ thể là người nhằm hướng tới lợi ích của họ cho rằng bị vi phạm trong lĩnh vực đất đai và yêu cầu cần có sự giải quyết từ cơ quan có thẩm quyền. Khi có khiếu nại về đất đai phát sinh trong quá trình cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành, quản lý hành chính nhà nước về đất đai, khi đó cơ quan hành chính nhà nước phải có trách nhiệm giải quyết những vấn đề phát sinh do chính hoạt động quản lý của mình gây ra. Khi phát hiện khiếu nại về đất đai cơ quan hành chính nhà nước có nhiệm vụ kiểm tra, đánh giá, kết luận, phán quyết về phương diện pháp lý của các quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai bị khiếu nại. Đáng chú ý là trong quá trình GQKN cơ quan hành chính nhà nước phải căn cứ vào pháp luật để xem xét tính hợp lý, cân nhắc tình hình thực tiễn nơi xảy ra vụ việc và yêu cầu của công tác quản lý nhà nước về đất đai để giải quyết.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan