Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn ...

Tài liệu Pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn

.PDF
88
697
133

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ TUYẾT CHINH “PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN Ở VIỆT NAM” LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2014 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ TUYẾT CHINH PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Doãn Hồng Nhung Hà Nội - 2014 2 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN .................................................................................................................. 6 1.1. Khái quát chung về tranh chấp quyền sử dụng đất .................................... 6 1.2. Khái niệm tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn................. 11 1.3. Chế độ tài sản của vợ chồng ...................................................................... 13 1.3.1. Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng ..........................................17 1.3.2. Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ chồng ............................................26 1.4. Nguyên tắc chung của giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn ..................................................................................................... 29 1.5. Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn .. 34 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN ................................... 37 2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn........................................................................... 37 2.1.1. Đối với quyền sử dụng đất được Nhà nước giao đất........................................38 2.1.2. Đối với quyền sử dụng đất được Nhà nước cho thuê đất.................................41 2.1.3. Đối với quyền sử dụng đất được chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế chung, nhận thế chấp trong thời kỳ hôn nhân. .....................................................................45 2.1.4. Đối với quyền sử dụng đất được Nhà nước bồi thường khi thu hồi đất ..........47 2.1.5. Đối với quyền sử dụng đất của vợ chồng được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất .....................................................................................................................48 2.2. Tình hình chung của việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn ở Việt Nam ................................................................................. 59 2.2.1. Những thuận lợi trong quá trình áp dụng pháp luật .......................................61 3 2.2.2. Những khó khăn phát sinh khi áp dụng pháp luật hiện hành ........................63 2.2.3. Nguyên nhân chủ yếu khi giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất...............65 CHƢƠNG 3: NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN .................................................. 71 3.1. Kiến nghị về hoàn thiện quy phạm pháp luật ........................................... 71 3.2. Kiến nghị về tổ chức thực hiện giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn. ......................................................................................... 73 3.3. Các giải pháp hỗ trợ, nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai .... 76 KẾT LUẬN...................................................................................................... 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................80 4 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả trong tài liệu luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận văn đảm bảo chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN 5 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất đai là tài nguyên đặc biệt quan trọng của quốc gia. Sự gia tăng về dân số cũng như sự phát triển về kinh tế đã làm cho những tranh chấp phát sinh về vấn đề đất đai ngày càng nhiều, các quan hệ về đất đai ngày càng phong phú, đa dạng và phức tạp. Tranh chấp đất đai tiếp tục là vấn đề phức tạp và ngày càng phổ biến ở Việt Nam. Vì thế mà các quan hệ về đất đai cần phải có những chế định pháp luật điều chỉnh nhằm ổn định trật tự chung trong xã hội. Đặc biệt cần phải xem xét việc giải quyết tranh chấp đất đai là một nội dung quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước đối với đất đai và là những biện pháp để pháp luật đất đai phát huy được vai trò trong đời sống xã hội. Tranh chấp đất đai trong quan hệ hôn nhân và gia đình là một loại tranh chấp phổ biến trong đời sống xã hội, đặc biệt là tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn. Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp đất đai trong lĩnh vực này hiện nay đang khó khăn và cũng là khâu yếu trong công tác giải quyết các tranh chấp về đất đai. Do đó, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về việc phân chia đất đai trong vấn đề ly hôn; trên cơ sở đó đề ra đường lối giải quyết các tranh chấp này một cách tương đối cụ thể để lành mạnh hoá quan hệ đất đai; mang lại niềm tin cho xã hội là việc làm rất cần thiết. 2. Đối tƣợng nghiên cứu Nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Nhưng kéo theo đó là thực tế xã hội ngày càng phức tạp khiến cho quá trình giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn gặp nhiều biến động. Điều đó liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của mọi cá nhân trong xã hội, đặc biệt là các cặp vợ chồng. Luật đất đai năm 2003 cùng các văn bản pháp luật khác như Luật nhà ở năm 2005, Luật hôn nhân gia đình năm 2000… ở nước ta là cơ sở cho công tác giải 6 quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn được thuận lợi. Tuy nhiên thực tế nhiều trường hợp giải quyết tranh chấp về vấn đề này còn gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Ở địa phương việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn gặp nhiều khó khăn. Mà nguyên nhân chủ yếu là do người dân không nắm vững pháp luật; hay do các cán bộ Nhà nước có trách nhiệm giải quyết tranh chấp không thực hiện đúng thẩm quyền, trình độ chưa bắt kịp với thực tế cuộc sống, hệ thống pháp luật về vấn đề này còn nhiều bất cập... Theo thống kê của Tòa án Nhân dân tối cao, năm 2010, nước ta có gần 88.000 vụ ly hôn, tăng hơn 9.700 vụ so với năm 2009. Theo một kết quả nghiên cứu được công bố năm 2008 của Tiến sĩ Nguyễn Minh Hòa (Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM), tỷ lệ ly hôn ở Việt Nam tăng nhanh và chiếm 31% - 40%, nghĩa là cứ ba cặp kết hôn thì có một cặp ly hôn. Nhưng dù cho ly hôn vì lý do gì thì khi phân chia tài sản, đặc biệt là đất đai (tài sản có giá trị lớn) luôn được các bên quan tâm. Vì thế đòi hỏi pháp luật phải điều chỉnh các mối quan hệ này sao cho phù hợp với nhu cầu của xã hội. Với mục đích nghiên cứu, làm rõ những quy định về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn; tìm hiểu và đóng góp một phần hiểu biết của mình vào quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, Tôi đã chọn đề tài: “Pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn ở Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ của mình. 3. Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi là luận văn thạc sỹ luật học thuộc chuyên ngành kinh tế, luận văn này bao gồm những quy định về lý luận, thực tiễn có liên quan đến áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn tại Việt Nam với tư cách là một hình thức cụ thể, chủ yếu và sinh động của hoạt động áp dụng pháp luật. Luận văn khái quát những vấn đề chung trong việc áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn tại Việt Nam để thấy 7 được những khó khăn, bất cập đang tồn tại. Từ đó đưa ra những đánh giá, nhận xét cũng như đưa ra những giải pháp để khắc phục những khó khăn, bất cập ấy. Luận văn xem xét nghiên cứu tình hình áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến năm 2012 tại Việt Nam. 4. Tình hình nghiên cứu đề tài Đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu đề cập đến một số khía cạnh về những vấn đề liên quan đến đề tài như: Tác giả Trần Hoàng Châu, “Tranh chấp đất đai và thẩm quyền giải quyết của Tòa án”, Luận văn Thạc sỹ Luật học – Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002; Tác giả Phạm Đức Thắng, “các vấn đề về giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay”, khóa luận tốt nghiệp cử nhân – Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001... Những luận văn này tuy đã được nghiên cứu từ cách đây khá lâu nhưng những vấn đề lý luận của luận văn vẫn mang ý nghĩa sâu sắc và có tính kế thừa cao cho những công trình nghiên cứu về sau. Vấn đề giải quyết tranh chấp về đất đai luôn là chủ đề được xã hội quan tâm, đặc biệt những năm gần đây rất nhiều tác giả nghiên cứu và viết về vấn đề này như: tác giả Nguyễn Thị Ngọc Lan (2008), “Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo Luật hôn nhân gia đình năm 2000”, luận văn thạc sỹ luật học - Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội; TS. Doãn Hồng Nhung (2009), “Pháp luật đất đai và vấn đề bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 23(160) tháng 12/2009, tr. 48-50; Tác giả Hạnh Nguyên (2013), Bài viết “quyền về đất đai của phụ nữ sau ly hôn: vẫn thiệt đơn, thiệt kép”, Phụ nữ Việt Nam, 44 (3779), tr.14; Tác giả Hoàng Thị Thái Hoa (2005), vấn đề ly hôn – nhìn từ sự tác động của yếu tố văn hóa truyền thống, thông tin khoa học phân viện nghiên cứu văn hóa thông tin tại Huế, số tháng 9/2005, trang 59-71; Tác giả Lê Thị Tuyết Chinh (2010), “giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn”, luận văn cử nhân – Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội ... 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu, thu thập thông tin: trong khóa luận này, phương pháp nghiên cứu chủ yếu là tìm kiếm thông tin qua các tài liệu được lưu trữ trong 8 thư viện trường Đại học Quốc gia Hà Nội và Thư viện Trung tâm Đại học Quốc gia Hà Nội với một số luật của các nước trên thế giới và các tài liệu trên mạng internet và các phương tiện thông tin đại chúng … - Phương pháp phân tích và tổng hợp: phân chia cái toàn thể của đối tượng nghiên cứu thành những mặt, những yếu tố cấu thành giản đơn hơn để nghiên cứu phát hiện ra những thuộc tính và bản chất của từng yếu tố đó và từ đó hiểu rõ hơn về từng khía cạnh của vấn đề. Tổng hợp những kết quả nghiên cứu từng mặt, từng khía cạnh để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung. Hai phương pháp này được sử dụng song song để bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong nghiên cứu. Từ đó đưa ra những nhận định đúng đắn để giúp cho quá trình nghiên cứu đạt được kết quả tốt. - Phương pháp quy nạp và diễn dịch: hai phương pháp nghiên cứu này tuy trái ngược nhau nhưng lại là một phần không thể thiếu của nhau. Chúng hỗ trợ nhau và hỗ trợ cho công tác nghiên cứu. Phương pháp quy nạp và diễn dịch được sử dụng chủ yếu trong chương I của luận văn để lý giải những nguyên tắc, nguyên lý, giả thuyết, kết luận, định nghĩa, khái niệm … - Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp chung nhất trong công tác nghiên cứu. Luận văn vận dụng phương pháp này trong việc xem xét đánh giá thực trạng công tác giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn tại Việt Nam trong những điều kiện cụ thể và các mối quan hệ khác. Ngoài ra, luận văn còn vận dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp thu thập số liệu, xử lý thông tin, thống kê, phân tích, so sánh… nhằm đưa ra được những thông tin, số liệu chính xác, những biện pháp tối ưu phục vụ cho công tác nghiên cứu bám sát với thực tiễn đời sống. 6. Tính mới và những đóng góp của đề tài Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn tại Việt Nam. Qua đó thấy được những nguyên nhân chủ yếu (chủ quan và khách quan) dẫn đến những tranh chấp này, từ đó đưa ra những biện pháp ngăn chặn và phương pháp giải quyết khi tranh chấp xảy ra. 9 Trên cơ sở đưa ra những giải pháp có tính khả thi cao nhằm đảm bảo việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn đạt hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp cũng như đáp ứng nhu cầu cuộc sống ngày càng phát triển hiện nay. 7. Bố cục luận văn bao gồm: Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn còn gồm có 3 chương: CHƢƠNG 1 – Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn CHƢƠNG 2 – Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn CHƢƠNG 3 – Nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu không tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy tác giả rất mong nhận được những lời nhận xét, đánh giá góp ý để có thêm kinh nghiệm nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn và giải quyết tranh chấp đất đai nói chung. 10 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN 1.1. Khái quát chung về tranh chấp quyền sử dụng đất Tranh chấp đất đai hiện nay rất đa dạng, phong phú, nhiều khi nhiều mâu thuẫn đan xen lẫn nhau. Để thấy rõ một cách toàn diện những vấn đề lý luận cơ bản về tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn ta phải xem xét nó nằm ở vị trí nào trong các dạng tranh chấp đất đai phổ biến hiện nay và nó có vai trò như thế nào trong các quan hệ pháp luật cũng như trong xã hội. Tranh chấp đất đai có thể được chia thành hai loại lớn, đó là tranh chấp mà trong đó cần xác định ai là người có quyền sử dụng hợp pháp đất đang tranh chấp và tranh chấp đất đai trong đó người sử dụng đất đã sử dụng đất hợp pháp, tranh chấp chỉ phát sinh trong quá trình người đó thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Trong dạng tranh chấp này luôn luôn có sự tranh chấp giữa các bên về quyền quản lý, quyền sử dụng một diện tích nào đó hoặc một phần trong diện tích đó. Việc xác định ai là người có quyền sử dụng hợp pháp đất tranh chấp đó là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Có thể chia thành các dạng như sau: - Thứ nhất: Tranh chấp về quyền sử dụng đất có liên quan đến tranh chấp về địa giới hành chính. Loại tranh chấp này thường xuyên xảy ra giữa người ở hai tỉnh, hai huyện, hai xã với nhau, tập trung ở những nơi có vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hóa, ở những vị trí dọc theo triền sông lớn, những vùng có địa giới hành chính không rõ ràng, không có mốc giới nhưng là vị trí quan trọng, ở những nơi có nguồn lâm, thổ sản quý hiếm. Cùng với việc chia tách các đơn vị hành chính tỉnh, huyện, xã thì tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính tương đối nhiều. - Thứ hai: Tranh chấp đòi lại đất, đòi lại tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất: thực chất đây là dạng tranh chấp đòi lại đất, đòi lại tài sản gắn liền với đất có nguồn gốc trước đây thuộc quyền sở hữu của họ hoặc người thân của họ mà do 11 nhiều nguyên nhân khác nhau họ không còn quản lý, sử dụng nữa. Bây giờ những người này đòi lại người đang quản lý, sử dụng dẫn đến tranh chấp. Trong dạng tranh chấp này có những dạng sau: + Một là: Đòi lại đất, tài sản của họ, của người thân trong các giai đoạn khác nhau trước đây qua các cuộc điều chỉnh đã chia, cấp cho người khác: Sau cải cách ruộng đất, nông nghiệp, nông thôn bước vào thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp. Đặc biệt từ năm 1958, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp theo mô hình sản xuất tập thể, quản lý tập trung. Ruộng đất và các tư liệu sản xuất của nông dân được tập trung vào hợp tác xã. Đến khi thực hiện Nghị quyết Trung Ương 10/TW năm 1988, đất đai được phân chia đến hộ gia đình, cá nhân để sản xuất. Do việc phân chia đất đai không hợp lý một số cán bộ xã, huyện đã làm sai như chia đất sản xuất cho những người không phải là nông dân để rồi những người này đem bán, cho thuê, trong khi đó nông dân không có đất sản xuất, một số hộ trước khi vào tập đoàn, hợp tác xã có đất, đến khi giải thể họ không có đất để canh tác. Một số hộ thực hiện chính sách nhường cơm xẻ áo của Nhà nước trong những năm 1981 – 1986 đã nhường đất cho những người khác sử dụng, nay đòi lại… Ở miền Nam, Nhà nước thực hiện chính sách cải tạo công thương nghiệp, quốc hữu hóa đất đai, nhà cửa, tư liệu sản xuất của địa chủ, tư bản và tay sai chế độ cũ hoặc giao nhà cửa, đất đai cho người khác sử dụng, đến nay do có sự hiểu lầm về chính sách họ cũng đòi lại những người đang quản lý, sử dụng. Ngoài ra, một số người bỏ đi nơi khác ở, ra nước ngoài sinh sống cũng trở về đòi lại đất đai, tài sản trước đây của họ đã được giao cho người khác quản lý, sử dụng. + Hai là: Tranh chấp giữa những người làm nghề thủ công, nay thất nghiệp trở về đòi lại ruộng của những người làm nông nghiệp: Những người làm nghề thủ công trước đây đã được phân ruộng để sản xuất, để ở, sau đó họ không sản xuất nông nghiệp nữa hoặc chuyển đi nơi khác để làm nghề, đến nay họ trở về đòi lại đất để sản xuất, để ở. + Ba là: Tranh chấp đòi lại đất, tài sản của nhà thờ, các dòng tu, chùa chiền, miếu, nhà thờ họ. Dạng tranh chấp này thường xảy ra như sau: Trước đây do hoàn 12 cảnh lịch sử chính quyền địa phương đã mượn đất của các cơ sở nói trên để sử dụng hoặc tịch thu một số cơ sở để làm trụ sở cơ quan, trường học… đến nay các cơ sở đó đòi lại nhưng Nhà nước không trả lại được nên dẫn đến khiếu kiện của các cơ sở đó. Ngoài ra, trong những trường hợp nói trên, một số người được các nhà thờ, dòng tu, chùa chiền, nhà thờ họ cho đất để ở họ đã xây dựng nhà kiên cố, hoặc lấn chiếm thêm đất của các cơ sở nói trên dẫn đến việc các cơ sở nói trên đòi lại đất, nhà. + Bốn là: Tranh chấp đòi lại nhà, đất cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ: Dạng tranh chấp này phát sinh do việc một bên cho bên kia mượn đất, thuê đất, cho ở nhờ. Có vụ cho mượn, thuê trong thời gian gần đây, có vụ cho mượn, thuê cách đây vài chục năm (nhất là ở miền Nam). Trong nhiều trường hợp không làm hợp đồng, chỉ giao kết bằng miệng dẫn đến khi bên cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ đòi lại hoặc là hết hạn hợp đồng, hoặc là bên mượn, thuê, ở nhờ đã xây dựng nhà kiên cố thì việc tranh chấp này càng trở nên phức tạp. - Thứ ba: Tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn: đây là trường hợp tranh chấp quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn. Đất tranh chấp có thể là đất nông nghiệp, lâm nghiệp hoặc đất để ở; có thể là giữa vợ chồng với nhau hoặc giữa một bên ly hôn với hộ gia đình vợ hoặc chồng hoặc có thể xảy ra khi bố mẹ cho con đất đến khi ly hôn thì cha mẹ đòi lại… - Thứ tư: Tranh chấp về quyền thừa kế quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất: đây là dạng tranh chấp do người có quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất đã chết mà không để lại di chúc, hoặc để lại di chúc không phù hợp với quy định của pháp luật và những người hưởng thừa kế không thỏa thuận được với nhau về phân chia thừa kế hoặc thiếu hiểu biết về pháp luật dẫn đến tranh chấp. - Thứ năm: Tranh chấp giữa những người sử dụng với nhau về ranh giới giữa các vùng đất được phép sử dụng và quản lý: đây là tranh chấp về ranh giới. Loại 13 tranh chấp này thường do một bên tự ý thay đổi ranh giới hoặc hai bên không xác định được với nhau về ranh giới, một số trường hợp chiếm luôn diện tích đất của người khác. Những trường hợp tranh chấp này xảy ra thường do ranh giới đất giữa những người sử dụng đất liền kề không rõ, đất này thường sang nhượng nhiều lần bàn giao không rõ ràng. Ngoài ra, việc tranh chấp ranh giới xảy ra nhiều khi do lỗi của các cơ quan nhà nước, đó là khi cấp đất cơ quan cấp đất có ghi diện tích, nhưng không đo đạc cụ thể khi giao đất chỉ căn cứ vào giấy cấp đất và đơn kê khai diện tích của đương sự. Sau này khi đương sự đo lại thấy diện tích đất ít hơn so với quyết định cấp đất cũng như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có phần diện tích chồng lên nhau. Do đó cũng gây nên tranh chấp giữa các hộ liền kề nhau. Khi giải quyết tranh chấp, các cơ quan có thẩm quyền phải xác định phần đất tranh chấp đó là thuộc quyền sử dụng của ai. - Thứ sáu: Tranh chấp giữa đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế mới với đồng bào dân tộc sở tại: đây là dạng tranh chấp thường xảy ra ở vùng Tây Nguyên. Việc di dân, đặc biệt là di dân tự do khi đến nơi ở mới không phải lúc nào chính quyền sở tại cũng cấp đất cho người dân di cư, dẫn đến việc người mới đến phá rừng, lấn chiếm đất đai dẫn đến những tranh chấp với đồng bào dân tộc sở tại. - Thứ bảy: Tranh chấp giữa các nông trường, lâm trường và các tổ chức sử dụng đất khác với nhân dân địa phương: do cơ chế trước đây nên dẫn đến tình trạng các nông trường, lâm trường, các đơn vị quân đội bao chiếm một lượng lớn đất đai, không sử dụng hết đất để đất bỏ hoang hoặc cho người dân sử dụng theo hình thức phát canh, thu tô. Mặt khác, nhiều nông trường, lâm trường, các đơn vị quân đội quản lý đất đai lỏng lẻo dẫn đến tình trạng người dân chiếm đất để sử dụng. Do đó cũng dẫn đến những tranh chấp đất đai. - Thứ tám: Các dạng tranh chấp đất đai trong đó người sử dụng đất đã sử dụng đất hợp pháp, tranh chấp chỉ phát sinh trong quá trình người đó thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Trong các dạng tranh chấp này thì người đang sử dụng đất đã sử dụng đất hợp pháp, không có ai tranh chấp. Tuy nhiên, khi sử dụng quyền 14 và nghĩa vụ sử dụng đất của mình như: thực hiện các giao dịch về dân sự hoặc do chủ trương, chính sách của Nhà nước như giải tỏa, trưng dụng, trưng mua hoặc do người khác gây thiệt hại, hoặc bị hạn chế về quyền và nghĩa vụ sử dụng đất của mình mà dẫn đến tranh chấp. Có các dạng như sau: + Một là: Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. + Hai là: Tranh chấp do người khác gây thiệt hại hoặc hạn chế quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất. + Ba là: Tranh chấp về mục đích sử dụng, đặc biệt là tranh chấp về đất nông nghiệp với đất lâm nghiệp, giữa đất trồng lúa với đất nuôi tôm, giữa đất trồng cao su với đất trồng cà phê, giữa đất nông nghiệp với đất thổ cư trong quá trình phân bố và quy hoạch sử dụng. Trong thực tế trường hợp tranh chấp này xảy ra như sau: do mục đích sử dụng đất nên Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng để giao cho người khác sử dụng với mục đích khác, dẫn đến người đang sử dụng khiếu kiện việc chuyển mục đích sử dụng đất hay khiếu kiện việc thu hồi hoặc khiếu kiện người được giao đất sử dụng với mục đích khác. Mặt khác, người được Nhà nước giao đất chuyển mục đích sử dụng khiếu kiện người đang sử dụng đất phải giao đất cho mình theo quyết định giao đất. + Bốn là: Tranh chấp về giải tỏa mặt bằng phục vụ các công trình công cộng, lợi ích quốc gia và mức đền bù khi thực hiện giải tỏa. Trong tranh chấp dạng này chủ yếu là khiếu kiện về giá đất bồi thường, diện tích đất được bồi thường, giá cả đất tái định cư và bồi thường không đúng người, giải tỏa quá mức quy định để chừa đất cấp cho các đối tượng khác. Trong tình hình hiện nay, việc quy hoạch mở mang đường, đô thị quá lớn dẫn đến việc tranh chấp loại này rất gay gắt, phức tạp, có nhiều người, tập thể đồng loạt khiếu kiện. Hiện nay ngoài những tranh chấp như đã kể trên, còn có một loại tranh chấp nữa, đó là tranh chấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai tức là tranh chấp hành chính về đất đai. Các dạng tranh chấp thuộc loại này nảy sinh khi các đương 15 sự quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai hoặc cán bộ quản lý nhà nước về đất đai áp dụng đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Ví dụ: Các quyết định về giao đất, thu hồi đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các quyết định về giải quyết tranh chấp đất đai. Tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn là một dạng tranh chấp phổ biến mà hiện nay các cơ quan pháp luật của Nhà nước còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết. Cũng thấy được rằng việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn có vai trò rất lớn đối với xã hội nói chung, góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân trong xã hội, đặc biệt là các cặp vợ chồng. 1.2. Khái niệm tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn Theo quy định của pháp luật Việt Nam chỉ có thể hiểu “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền sử dụng đất”. Sở dĩ Th.s Lưu Quốc Thái – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh có kết luận như vậy vì: thứ nhất, theo khoản 1 Điều 5 Luật Đất đai năm 2003 quy định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu”; thứ hai, Điều 202 Luật đất đai năm 2013 có quy định: “Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến UBND xã, phường, thị trấn nơi có tranh chấp. UBND xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận, các tổ chức xã hội khác để hòa giải tranh chấp đất đai”; thứ ba, Điều 160 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai năm 2003 quy định: “Tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên tranh chấp không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai thì các bên tranh chấp gửi đơn đến cơ quan hành chính để được giải quyết”; thứ tư, đến nay các thuật ngữ tranh chấp đất đai và tranh chấp quyền sử dụng đất đã được sử dụng như những thuật ngữ thay thế cho nhau kể từ Luật Đất đai năm 1986 đến nay mà không hề có sự phân biệt. 16 Luật Đất đai năm 2003 lần đầu tiên tại khoản 26 điều 4 và tiếp tục được quy định tại khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Qua đó ta có thể thấy được, khái niệm “tranh chấp đất đai” là tranh chấp một tổng thể những yếu tố hợp nhất chứ không phải là việc tranh chấp từng quyền và nghĩa vụ đơn lẻ hay tranh chấp về quyền và nghĩa vụ khác của người sử dụng đất có liên quan đến các quyền và nghĩa vụ nêu trên. Cách hiểu này đặt khái niệm tranh chấp đất đai trong mối quan hệ không thể tách rời với tất cả các quy định có liên quan, chứ không phải cô lập nó hoặc đặt nó lên trên tất cả các quy định khác nhằm phát huy trí tưởng tượng một cách thái quá, dẫn đến những suy diễn không phù hợp. Có nghĩa là, không thể “trộn lẫn” tranh chấp đất đai với những tranh chấp dân sự thuần túy có liên quan đến đất đai. Tranh chấp đất đai là biểu hiện sự mâu thuẫn, bất đồng trong việc xác định quyền quản lý, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng đối với đất đai, phát sinh trực tiếp hoặc gián tiếp trong quản lý và sử dụng đất đai. Vậy từ đó ta có thể rút ra một định nghĩa như sau: Tranh chấp đất đai là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất [18,7]. Trong quan hệ pháp luật đất đai, việc xét giải quyết tranh chấp đất đai là một trong những biện pháp quản lý Nhà nước đối với đất đai. Đó là biện pháp vô cùng quan trọng để pháp Luật đất đai phát huy được vai trò của mình trong đời sống xã hội. Như vậy, giải quyết tranh chấp đất đai là việc vận dụng các quy định của pháp luật để bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của nhân dân. Kết hôn là một hiện tượng bình thường nhằm xác lập quan hệ vợ chồng thì ly hôn là một hiện tượng bất bình thường, là mặt trái của hôn nhân nhưng đó lại là mặt không thể thiếu khi hôn nhân tan vỡ. Vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng thì ly hôn là 17 sự cần thiết cho cả hai, vì nó giải phóng cho hai vợ chồng, các con cũng như thành viên khác trong gia đình thoát khỏi mâu thuẫn, xung đột, bế tắc trong cuộc sống. Vậy ly hôn là gì? Theo quy định tại Khoản 8 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì “Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng”. Hay nói cách khác ly hôn là sự chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Sau khi kết hôn vì những lý do nhất định, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng mâu thuẫn, quan điểm sống không thể dung hòa, đời sống chung không thể kéo dài làm ảnh hưởng đến các thành viên khác trong gia đình và ảnh hưởng đến việc nuôi dạy giáo dục con cái. Vì thế ly hôn là giải pháp cho cả hai bên để mỗi bên tự tìm hạnh phúc cho mình. Qua đó đảm bảo quyền tự do, bình đẳng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân mỗi người theo quy định của pháp luật. Qua những phân tích trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn như sau: “tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ ly hôn là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa vợ, chồng và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về đất đai khi quan hệ hôn nhân của họ chấm dứt và tranh chấp về quyền sử dụng đất đó được Tòa án công nhận hoặc quyết định”. 1.3. Chế độ tài sản của vợ chồng Kết hôn là sự kiện làm phát sinh một gia đình mà ở đó phản ánh sự chung sống của hai vợ chồng và con cái (nếu có). Như là một tất yếu của cuộc sống chung, vợ và chồng thực hiện những quan hệ về tài sản nhằm đáp ứng những nhu cầu tồn tại và phát triển của gia đình. Đây là những quan hệ xảy ra phổ biến trong xã hội và chịu sự điều chỉnh trực tiếp của pháp luật về hôn nhân và gia đình, trong một quy chế được gọi là “chế độ tài sản của vợ chồng” (được quy định tại các Điều sau: Điều 27, Điều 28, Điều 29, Điều 32; Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình) [10]. Chế độ tài sản của vợ chồng là một chế định quan trọng của pháp luật Hôn nhân và gia đình, đã và đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều luật gia và 18 các nhà áp dụng pháp luật. Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định phụ thuộc chặt chẽ vào chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Do đó, chế độ tài sản của vợ chồng ở mỗi quốc gia và trong cùng một đất nước ở các giai đoạn phát triển có thể là khác nhau. Thực tế có hai trường phái pháp luật mang hai quan điểm khác nhau về vấn đề này. Phần lớn pháp luật của các nước trên thế giới thừa nhận quyền tự do thỏa thuận của vợ chồng về chế độ tài sản, vì vậy, một mặt pháp luật dự liệu một chế độ tài sản của vợ chồng, mặt khác quy định những người kết hôn có quyền lập hôn ước (Contrat de marriage – tiếng Pháp). Chế độ tài sản do pháp luật dự liệu chỉ có hiệu lực áp dụng trong trường hợp hai vợ chồng không có hôn ước hoặc hôn ước được lập ra nhưng vô hiệu do vi phạm những quy định của luật chung. Chỉ có một số nước như Hungari, Roumani, Tiệp Khắc, Arhentina, Việt Nam và một số bang của Mehico duy trì duy nhất một chế độ tài sản pháp định đối với vợ chồng. Bộ luật dân sự Pháp năm 1804 đã tổ chức một cách có hệ thống các chế độ tài sản của vợ chồng. Điều đó được thể hiện qua việc thiết lập một hệ thống các quy định chung nhằm bảo vệ cuộc sống gia đình – được gọi là chế độ cơ sở, theo đó các chế độ tài sản của vợ chồng, nhất là những chế độ tài sản theo sự thỏa thuận của vợ chồng (chế độ ước định) phải triệt để tuân theo. Tại các Điều từ 212 đến 226 Bộ luật dân sự Pháp năm 1804 đã quy định những quyền và nghĩa vụ riêng biệt của vợ chồng với một tinh thần chung nhất là: vợ chồng cùng nhau đảm bảo điều hành gia đình về tinh thần và vật chất, chăm lo việc dậy dỗ con cái và chuẩn bị cho tương lai của chúng (Điều 213), đặc biệt các điều từ 214 đến 226 tập hợp nên một chế định pháp lý mà học thuyết của Pháp gọi là chế độ cơ sở của các chế độ tài sản của vợ chồng (Le resgime primaire hoặc Le statut de base). Đây là những quy định về các quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng nhằm đáp ứng nhu cầu của cuộc sống gia đình. Đó là những vấn đề: đóng góp vào việc chi tiêu của gia đình, bảo vệ chỗ ở của gia đình … Theo quy định của Điều 226, các quy định trên có hiệu lực đối với tất cả các quan hệ vợ chồng, bất kể họ lựa chọn chế độ hôn sản nào. Trong bối cảnh thừa nhận nhiều chế độ tài sản của vợ chồng, chế độ cơ sở giữ vai trò chủ đạo, nhất là đối 19 với chế độ hôn sản ước định, nhằm đảm bảo những điều kiện vật chất cho sự ổn định cuộc sống gia đình. Chế độ tài sản của vợ chồng trong luật của Cộng hòa Pháp dựa trên nguyên tắc tôn trọng tự do thỏa thuận của vợ chồng nhưng không thể tách rời nghĩa vụ của họ đối với đời sống chung của gia đình. Điều đó tạo điều kiện cho vợ, chồng có thể thực hiện những quan hệ tài sản phù hợp với tình hình kinh tế của bản thân, mang lại lợi ích cho gia đình và cá nhân mỗi bên vợ, chồng. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 của Việt Nam chỉ tập trung quy định về một chế độ tài sản pháp định (chế độ cộng đồng toàn sản – tài sản mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng), tức là pháp luật Việt Nam không quy định một điều luật nào về quyền lập hôn ước của vợ chồng. Nhà lập pháp không dự liệu bất kỳ một điều khoản nào cho phép vợ chồng lập hôn ước, nhưng cũng không ấn định những quy định cấm. Trong bối cảnh đó, nhìn chung giới luật gia và những người áp dụng pháp luật đều cho rằng chế độ hôn sản pháp định có hiệu lực áp dụng đối với tất cả các quan hệ hôn nhân hợp pháp. Do vậy, mọi thỏa thuận của vợ chồng trái với các quy định của chế độ hôn sản pháp định cần bị tuyên bố là vô hiệu khi có tranh chấp xảy ra. Nhìn chung có thể hiểu khái niệm về chế độ tài sản của vợ chồng như sau: “Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quan hệ sở hữu của vợ chồng, cụ thể là các quy định về căn cứ xác lập tài sản chung và riêng của vợ, chồng; phạm vi quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng”. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả nghiên cứu về vấn đề quyền sử dụng đất trong quan hệ hôn nhân và việc xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng. Có thể nói quyền sử dụng đất là một bộ phận cấu thành của quyền sở hữu đất đai. Ở Việt Nam đất đai thuộc sở hữu toàn dân [24, Điều 5, Điều 17]. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan