Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình từ thực tiễn tỉnh tuyên quang ...

Tài liệu Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình từ thực tiễn tỉnh tuyên quang

.PDF
104
331
108

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………/………… BỘ NỘI VỤ ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA ĐÀO XUÂN CƯỜNG PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH- TỪ THỰC TIỄN TỈNH TUYÊN QUANG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÀ NỘI – 2016 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………/………… BỘ NỘI VỤ ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA ĐÀO XUÂN CƯỜNG PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH- TỪ THỰC TIỄN TỈNH TUYÊN QUANG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 60 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS LÊ THỊ HƯƠNG HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Đào Xuân Cường MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ............................................................................................. 8 1.1. QUAN NIỆM VỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH ......................................................................... 8 1.1.1. Khái niệm bạo lực gia đình .............................................................................................. 8 1.1.2. Nguồn gốc của bạo lực gia đình .................................................................................... 14 1.1.3. Đặc điểm của bạo lực gia đình ...................................................................................... 16 1.1.4. Hậu quả của bạo lực gia đình ........................................................................................ 17 1.2. PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH .................................... ….19 1.2.1. Khái niệm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình 19 1.2.2. Nội dung pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ....................................................... 21 1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ...................................................................................................................... 35 Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở TỈNH TUYÊN QUANG VÀ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..................... 42 2.1. THỰC TRẠNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở TỈNH TUYÊN QUANG ................................................................ 42 2.1.1. Thực trạng và nguyên nhân bạo lực gia đình ở tỉnh Tuyên Quang ............................... 42 2.1.2. Thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Tuyên Quang ................................................................................................................... 60 2.2. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................................................................................... 74 2.2.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình........................................................................................................................ 74 2.2.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ......................... 79 2.2.3. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ............ 84 KẾT LUẬN............................................................................................................................. 94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 96 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bạo lực gia đình là vấn đề mang tính toàn cầu, gây nhức nhối cho nhân loại, để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho con người, nhất là đối với phụ nữ và trẻ em. Bạo lực gia đình đang trở thành vấn đề phổ biến, là biểu hiện của các mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa người lớn và trẻ em trên toàn thế giới; là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng tới danh dự, nhân phẩm, sức khỏe, tính mạng của phụ nữ và trẻ em, làm suy giảm chất lượng cuộc sống nói chung. Bạo lực gia đình đã và đang là một trở ngại lớn đối với sự bình đẳng trong xã hội, là lực cản trên con đường xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại. Vì vậy, trong nhiều năm qua, sự gia tăng và mức độ nghiêm trọng của bạo lực gia đình là mối quan tâm của nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế, đặc biệt, tổ chức Liên hợp quốc đã thông qua Công ước về các quyền dân sự và chính trị; Công ước về quyền trẻ em; Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ… đã thể hiện sự quan chung của cả cộng đồng quốc tế trong vấn đề bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình. Ở nước ta, thúc đẩy bình đẳng giới, tôn trọng và bảo đảm quyền con người chống lại mọi hành vi bạo lực là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước. Việt Nam đã phê chuẩn và tham gia nhiều công ước liên liên quan đến phòng, chống bạo lực như: phê chuẩn Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ vào ngày 17/12/1982, phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em ngày 20/2/1990…. Bên cạnh đó, vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình cũng được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, theo đó đều coi bạo lực gia đình là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh 1 dự và nhân phẩm của con người, cụ thể như: Luật Hôn nhân và gia đình; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Bộ luật Dân sự; Bộ luật Hình sự; Luật Bình đẳng giới; đặc biệt là Luật Phòng, chống bạo lực gia đình được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 21/11/2007, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2008. Những văn bản pháp luật nêu trên và các văn bản hướng dẫn thi hành là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình và xử lý các hành vi bạo lực gia đình. Tuy nhiên, thực tiễn pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình cũng còn nhiều hạn chế: bất bình đẳng giới vẫn tồn tại trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội; định kiến giới và tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn nặng nề trong đời sống xã hội; bạo lực gia đình vẫn diễn biến phức tạp dưới nhiều hình thức tinh vi gây ảnh hưởng tới gia đình- tế bào của xã hội… Thực trạng bạo lực gia đình diễn ra có nhiều nguyên nhân, và một trong số đó bắt nguồn từ việc thực thi pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình chưa đầy đủ và thiếu hiệu quả. Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, thực tiễn công tác phòng, chống bạo lực gia đình cũng cho thấy còn những tồn tại, hạn chế nhất định như: chưa có sự phối hợp hành động hiệu quả từ phía các cơ quan chính quyền, tổ chức, đoàn thể trên địa bàn; các nguồn lực xã hội dành cho công tác phòng, chống bạo lực gia đình còn thiếu; trình độ dân trí cùng với mức sống chung của người dân chưa cao; nhận thức về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, về quyền của phụ nữ trẻ em, về bình đẳng giới của người dân còn hạn chế; tâm lý không muốn “vạch áo cho người xem lưng” của chính nạn nhân khi có bạo lực gia đình xảy ra vẫn còn phổ biến... Tất cả những vấn đề trên đã và đang làm cho tình trạng bạo lực gia đình diến biến phức tạp, khó kiểm soát. 2 Trong bối cảnh đó, cần thiết phải có những nghiên cứu, đánh giá đầy đủ, nghiêm túc về những nguyên nhân phát sinh hành vi bạo lực gia đình, những hậu quả mà hành vi đó mang lại cùng những tác động của nó tới đời sống gia đình nói riêng cũng như ảnh hưởng tiêu cực tới xã hội nói chung. Cùng với đó, việc nghiên cứu những quy định pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình cũng là vấn đề hết sức cần thiết để đánh giá toàn diện mức độ điều chỉnh, tác động của pháp luật hiện hành đối với các quan hệ xã hội có liên quan đến vấn đề bạo lực gia đình, từ đó phát huy những điểm tích cực cũng như hạn chế, khắc phục những điểm còn bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Tuyên Quang đồng thời đề xuất những giải pháp cụ thể để từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, không ngừng nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống bạo lực gia đình trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung. Xuất phát từ những lý do trên, vấn đề “Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình- từ thực tiễn tỉnh Tuyên Quang” đã được tác giả lựa chọn làm đề tại luận văn thạc sỹ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Bạo lực gia đình không phải là vấn đề mới mẻ, mà là hiện tượng xã hội có tính lịch sử và tương đối phổ biến trên thế giới. Bạo lực gia đình là vấn đề thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước. Một số công trình nghiên cứu được công bố về vấn đề này, cụ thể như: “Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc phòng chống bạo lực gia đình” của Nguyễn Thị Ngọc Bích, Đại học Luật Hà Nội [2]; “Tìm hiểu và thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình” của Nguyễn Đình Thơ [34]; 3 “Bàn về ranh giới giữa xử lý hình sự và xử lý hành chính các hành vi bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Lan Chi, Viện Nhà nước và Pháp luật [6]; “Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay- Thực trạng vấn đề và giải pháp” của Viện nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia HCM [45]; “Bạo lực gia đình– một sự sai lệch giá trị” của tác giả Lê Thị Quý và Đặng Vũ Cảnh Linh [29]; “Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình” của tác giả Nguyễn Ngọc Điện [11]; “Pháp luật quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ” của tác giả Trần Thị Hòe [12]; “Tính hợp lý, khả thi của một số biện pháp xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình” của tác giả Phan Thị Lan Hương [14]; “Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em - thực trạng và nguyên nhân” của Ngô Thị Hường, Đại học Luật Hà Nội [13]; “Tổng quan về bạo lực và pháp luật phòng, chống bạo lực đối với phụ nữ, trẻ em” của Nguyễn Thị Kim Phụng 17]… Ngoài ra, còn nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học, các Luận văn, đề tài đã được nghiệm thu liên quan đến vấn đề bạo lực gia đình. Nhìn chung, các công trình nêu trên đã phân tích, đánh giá vấn đề bạo lực gia đình dưới nhiều góc độ khác nhau, tuy nhiên việc nghiên cứu về pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình từ thực tiễn một địa bàn cụ thể là tỉnh Tuyên Quang từ đó đề xuất những giải pháp đề hoàn thiện pháp luật về 4 phòng, chống bạo lực gia đình thì có rất ít các đề tài đề cập tới. Vì vậy, đề tài nghiên cứu này không có sự trùng lắp với những công trình nghiên cứu đã được công bố, các kết quả nghiên cứu trước đó chỉ có giá trị tham khảo khi tác giả nghiên cứu đề tài này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cơ sở lý luận về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình hiện nay; đánh giá thực trạng bạo lực gia đình tại tỉnh Tuyên Quang, thực trạng pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình hiện nay và đề xuất giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở nước ta. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận của pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình theo những quy định hiện hành. - Phân tích tình hình bạo lực gia đình và thực trạng pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Tuyên Quang; phân tích, đánh giá những kết quả đã đạt được, những tồn tại, hạn chế của việc thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình tại Tuyên Quang và làm rõ nguyên nhân của những hạn chế đó. - Đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở nước ta hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu 5 Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình từ thực tiễn tỉnh Tuyên Quang. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang từ năm 2010 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, trên cơ sở những phương pháp nghiên cứu cụ thể: thống kê, tổng hợp, diễn giải, quy nạp, phân tích, so sánh để phân tích và làm rõ các vấn đề khoa học cần nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu Về mặt lý luận, những vấn đề được nghiên cứu trong luận văn góp phần làm phong phú thêm những vấn đề lý luận về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, đóng góp vào việc hoàn thiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở nước ta hiện nay. Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần thay đổi phần nào nhận thức của người dân về vấn đề bạo lực gia đình, bên cạnh đó, những giải pháp được đề xuất vận dụng vào thực tiễn sẽ nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống bạo lực gia đình trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang và có thể là kinh nghiệm thực tiễn để tham khảo, áp dụng cho những địa phương khác trên cả nước, đồng thời luận văn cũng là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm nghiên cứu về những vấn đề bạo lực gia đình. 6 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình Chương 2: Thực trạng pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Tuyên Quang và quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH 1.1. QUAN NIỆM VỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH 1.1.1. Khái niệm bạo lực gia đình Bạo lực là một hiện tượng xã hội, trong Tiếng Việt, bạo lực được hiểu là “sức mạnh dùng để cưỡng bức, trấn áp hoặc lật đổ” [38, tr.6]. Với ý nghĩa chung đó, bạo lực có thể được sử dụng với cả nghĩa tiêu cực (bạo lực với trẻ em, bạo lực gia đình, bạo lực giới…) hoặc tích cực (bạo lực cách mạng, bạo lực để trấn áp tội phạm…) Trong xã hội luôn tồn tại nhiều hình thức bạo lực, các chủ thể có thể dùng bạo lực để giải quyết những bất hòa trong quan hệ xã hội, tranh giành quyền lực, lợi ích, hay sử dụng bạo lực để lật đổ các phe phái chính trị, lật đổ chính quyền… có thể nói, bạo lực là vấn đề đã ra đời và tồn tại từ rất lâu trong lịch sử xã hội loài người. Trong những trường hợp nhất định như chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc, phòng vệ chính đáng thì bạo lực có vai trò tích cực trong xã hội nhưng xét về bản chất thì bạo lực là một hiện tượng tiêu cực trái với hòa bình, văn minh, ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội, bị xã hội loài người lên án. Có thể thấy, bạo lực chính là một phương thức hành xử trong các mối quan hệ xã hội và tồn tại từ rất lâu trong lịch sử xã hội loài người, nhưng bạo lực cũng là “loại quyền lực có phẩm chất kém nhất so với quyền lực kinh tế và quyền lực trí tuệ” [15, tr.16]. Như vậy, việc sử dụng bạo lực phụ thuộc vào mục đích sử dụng, đối tượng sử dụng và đối tượng chịu hậu quả của bạo lực. Tuy nhiên, khi trong xã hội không còn giai cấp bóc lột, không trong tình trạng bị giặc ngoại xâm đe dọa… thì phần lớn hiện tượng bạo lực là biểu hiện của những vấn đề tiêu cực, do đó nhà nước cần có những quy định pháp luật để điều chỉnh những hành vi 8 bạo lực trái pháp luật để từ đó có những biện pháp phòng, chống bạo lực trong xã hội nói chung trong đó có vấn đề bạo lực gia đình nói riêng. “Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[9]. Còn bạo lực gia đình là hiện tượng xã hội phát sinh không bình thường, thể hiện những lệch chuẩn xã hội, phá vỡ môi trường gia đình lành mạnh ấy. Bạo lực gia đình là vấn đề mang tính toàn cầu, và xã hội Việt Nam cũng không là một ngoại lệ, gây nhức nhối cho nhân loại, nó để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, cho gia đình và cho cá nhân, nhất là đối với phụ nữ và trẻ em. Bạo lực gia đình tạo nên những rạn nứt, đổ vỡ, gây nên nhiều đau khổ trong đời sống gia đình, kéo theo những hậu quả nặng nề cho xã hội. Bạo lực gia đình gần đây đã trở thành một vấn nạn, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. bạo lực gia đình không chỉ xảy ra ở những nơi có điều kiện kinh tế thấp, cuộc sống nghèo nàn, lạc hậu mà nó diễn ra ở mọi nơi từ thành thị tới nông thôn, xảy ra ở mọi gia đình, trong các tầng lớp khác nhau và gây ra những thiệt hại to lớn cả về vật chất và tinh thần cho gia đình và xã hội. Bạo lực gia đình là vấn đề không mới, nó từ lâu đã là mối quan tâm của nhiều quốc gia, là chủ đề của nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học. Cho tới nay, tùy từng góc độ nghiên cứu, đã có rất nhiều quan điểm, cách hiểu khác nhau về bạo lực gia đình.  Từ góc độ giới: Bạo lực giới là một vấn đề tồn tại từ rất lâu trong lịch sử nhưng lại là một nội dung mới trong luật pháp quốc tế. Trước những năm 80 của thế kỷ XX, người ta cho rằng bạo lực đối với phụ nữ thuộc về các mối quan hệ có tính riêng tư giữa các cá nhân, các thành viên trong gia đình. Vì vậy, mọi 9 hành vi bạo lực đối với phụ nữ nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của luật pháp quốc tế nói chung, luật quốc tế về quyền con người nói riêng. Trong những năm gần đây, mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể trong việc nâng cao địa vị bình đẳng của phụ nữ, nhưng do nhiều yếu tố khác nhau ở nhiều nơi trên thế giới, nạn bạo lực đối với phụ nữ vẫn diễn ra thường xuyên dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau. Theo Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA): “bạo lực trên cơ sở giới là bạo lực giữa nam giới và phụ nữ, trong đó phụ nữ là nạn nhân và điều này bắt nguồn từ các mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ. Bạo lực thường nhằm vào phụ nữ, hoặc ảnh hưởng lớn đến phụ nữ. Bạo lực trên cơ sở giới bao gồm những tổn hại về thân thể, tâm lý, tình dục (bao gồm cả sự đe dọa gây đau khổ, cưỡng bức hoặc tước đoạt sự tự do xảy ra trong gia đình hoặc trong cộng đồng) nhưng nó không bị hạn chế ở những dạng này”[28]. Theo tinh thần của Luật Bình đẳng giới năm 2006 thì bạo lực gia đình còn được hiểu là “sự phân biệt đối xử về giới, đó là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình” [21]. Như vậy, bạo lực gia đình trước hết là hành vi bạo lực đối với phụ nữ, nạn nhân chủ yếu là phụ nữ, trong phần lớn các trường hợp bạo lực gia đình thì hầu hết là những người vợ bị chồng đánh đập, hành hạ, ngược đãi, bên cạnh đó là những người mẹ, người con gái, người chị người em bị những người là con, là cha, là anh đánh đập, ngược đãi, hành hạ. Nhìn từ góc độ giới có thể hiểu: bạo lực gia đình là bất kỳ hành vi nào của các thành viên gia đình đối với nhau trên cơ sở giới tính, được biểu hiện dưới những hình thức nhất định, có khả năng gây ra hoặc đe dọa gây ra những 10 tổn hại nhất định về thể chất, tinh thần, kinh tế, tước đoạt hoặc hạn chế quyền tự do của các thành viên khác trong gia đình.  Từ góc độ xã hội: Dưới góc độ xã hội học, gia đình được coi là tế bào của xã hội. Không giống bất kỳ nhóm xã hội nào khác, gia đình có sự đan xen các yếu tố sinh học, kinh tế, tâm lý, văn hóa…Những mối liên hệ cơ bản của gia đình bao gồm vợ, chồng, cha mẹ và con, ông bà và cháu, anh chị em với nhau, những mối liên hệ khác như: cô, dì, chú, bác với cháu, cha mẹ chồng với con dâu, cha mẹ vợ với con rể…Mối quan hệ gia đình được thể hiện ở các khía cạnh: có đời sống tình dục, sinh con và nuôi dạy con cái, lao động tạo ra của cải vật chất để duy trì đời sống gia đình và đóng góp xã hội. Mối liên hệ này có thể dựa trên những căn cứ pháp lý hoặc có thể dựa trên các căn cứ thực tế một cách tự nhiên, tự phát [16]. Vấn đề bạo lực gia đình không còn là vấn đề mới trong xã hội hiện nay, tuy nhiên, nhận thức về vấn đề này không thật đầy đủ nếu không muốn nói là có phần lệch lạc, hạn chế. Đối với người dân, bạo lực gia đình còn là một khái niệm mới vì thế ít người biết đến, đại bộ phận người dân chưa có cách hiểu đầy đủ và chính xác về vấn đề này. Đa số người dân cho rằng chỉ những hành vi đánh đập, gây thương tích, dẫn tới kết quả nạn nhân bị tổn thương hay tử vong mới bị coi là bạo lực gia đình, còn những hành vi xâm phạm về tinh thần thì không phải bạo lực. Nói về bạo lực gia đình có rất nhiều ý kiến khác nhau, cụ thể là: một nhóm chia bạo lực gia đình ra thành hai loại: loại bạo lực mạnh và loại bạo lực nhẹ. Bạo lực mạnh xảy ra như chồng vô cớ đánh vợ với những tổn thương về thể xác nhất định, còn bạo lực nhẹ là chỉ có hành vi ngược đãi và thi thoảng mới xảy ra. Nhóm khác cho rằng bạo lực gia đình là hành vi tấn công bằng vũ lực của một người (thường là đàn ông) đối với người có quan 11 hệ tình cảm với mình và có hành vi kiểm soát về tài chính cũng như các mối quan hệ xã hội của người bị bạo lực. Có nhóm lại cho rằng chỉ những hành vi đánh đập mà bị xử lý hành chính, thậm chí có thể cấu thành tội phạm mới là bạo lực. Như vậy, có thể thấy sự nhận thức về bạo lực gia đình còn có nhiều chiều và nhiều hạn chế, từ sự nghiên cứu và phân tích tên có thể hiểu dưới góc độ xã hội: bạo lực gia đình là hành động dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực của một người đối với một người khác có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng, gây ra hoặc đe dọa gây ra những tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế cho những người đó.  Từ góc độ pháp luật: Khoản 2, Điều 1 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của các thành viên trong gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình”. Như vậy, khái niệm bạo lực gia đình có liên quan chặt chẽ đến khái niệm thành viên gia đình, vì bạo lực gia đình là hành vi chỉ xảy ra giữa những người có quan hệ nhất định, cùng là thành viên của một gia đình. Theo Khoản 16, Điều 3 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định “Thành viên gia đình bao gồm vợ, chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng; con đẻ, con nuôi, con riêng của vợ hoặc chồng, con dâu, con rể; anh, chị, em cùng cha mẹ, anh, chị, em cùng cha khác mẹ, anh, chị, em cùng mẹ khác cha, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà nội, ông bà ngoại; cháu nội, cháu ngoại; cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột.” như vây, bạo lực gia đình không chỉ xảy ra giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, 12 giữa anh chị em ruột với nhau mà còn có thể xảy ra giữa ông bà, cô, dì, chú, bác… là những người có quan hệ họ hàng thân thích mà theo luật đều là thành viên gia đình. Nhìn từ nhiều góc độ khác nhau nên quan điểm về bạo lực gia đình cũng có sự khác nhau, tuy nhiên nó có một điểm chung đó là: bạo lực gia đình là một dạng của bạo lực xã hội, là việc dùng sức mạnh để giải quyết các vấn đề về gia đình. Nếu coi gia đình là một thiết chế xã hội đặc biệt, là hình thức thu nhỏ của xã hội thì bạo lực gia đình cũng chính là hình thức thu nhỏ và đặc biệt của bạo lực xã hội. Sự khác biệt giữa bạo lực gia đình với bạo lực xã hội ở chỗ bạo lực gia đình thường diễn ra giữa những người có cùng quan hệ hôn nhân hoặc huyết thống. Nhìn chung, cả hai hình thức bạo lực này đều có sự đồng nhất trong nhận thức như về hậu quả, sự xâm hại của hành vi bạo lực tới quyền và lợi ích cá nhân. Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 của Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 21 tháng 7 năm 2007, theo đó tại Điều 1, khoản 2 quy định như sau: “bạo lực gia đìnhlà hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên khác trong gia đình”[22]. Như vậy, qua nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm về bạo lực gia đình, có thể hiểu: bạo lực gia đình trước hết phải là hành vi cố ý, chủ thể thực hiện là thành viên gia đình, hậu quả mang lại đó là gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên khác trong gia đình. Các hành vi bạo lực gia đình có thể được biểu hiện dưới dạng hành động như hành hạ, ngược đãi, đánh đập… hoặc không hành động như bàng quan, thờ ơ, ghẻ lạnh, bỏ mặc hay “chiến tranh lạnh”. 13 1.1.2. Nguồn gốc của bạo lực gia đình Nguồn gốc cơ bản của bạo lực gia đình xuất phát từ 2 khía cạnh chính đó là: từ phía cá nhân và từ phía xã hội.  Về phía cá nhân, phần lớn các hành vi bạo lực thường diễn ra trong những gia đình có chồng (vợ) nghiện hút, cờ bạc, rượu chè, mại dâm… Theo điều tra của Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội, nguyên nhân trực tiếp làm nảy sinh hành vi bạo lực gia đình là do người chồng nghiện rượu, say rượu chiếm 60% các vụ bạo lực, ngoài ra còn do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có công ăn việc làm ổn định, học vấn thấp, thiếu hiểu biết về pháp luật. Đối với hành vi bạo lực gia đình do rượu và ma túy: khi sử dụng các chất kích thích như rượu, ma túy… nam giới thường có xu hướng giải quyết những khó khăn bằng hành vi bạo lực. Chẳng hạn, nhiều người thường lấy cớ say rượu để đánh đập, hành hạ vợ con, bắt vợ phải đưa tiền để mua rượu, chơi bạc. Đối với bạo lực gia đình xảy ra trong những gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn: những cặp vợ chồng phải bươn chải vất vả để kiếm sống thường có sự căng thẳng về thần kinh hơn do đó dễ nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến tranh cãi trong gia đình và cuối cùng, nam giới thường sử dụng sức mạnh của mình để gây bạo lực với vợ và con. Tuy nhiên, không thể đổ lỗi hoàn toàn cho nghiện ngập và đói nghèo vì có nhiều gia đình có cuộc sống vật chất đầy đủ nhưng vẫn xảy ra bạo lực gia đình, hay ngược lại nhiều gia đình khó khăn vất vả về kinh tế mà vẫn hạnh phúc. Bạo lực gia đình còn có nguyên nhân từ sự thiếu hiểu biết, văn hóa thấp từ đó dẫn đến những lệch lạc trong suy nghĩ và thiếu kiểm soát trong hành động 14  Về phía xã hội, nguồn gốc sâu xa của tình trạng bạo lực gia đình đó là nhận thức về vấn đề bình đẳng giới còn hạn chế, bất bình đẳng giới là gốc rễ của bạo lực gia đình, điều này có thể thấy rõ qua những nội dung: Do ảnh hưởng nặng nề của nền văn hóa phong kiến với những quan niệm mang đậm màu sắc định kiến giới, đó là những định kiến nằm ngay trong truyền thống văn hóa, phong tục tập quán, chuẩn mực đạo đức bấy lâu nay trong xã hội phương Đông như: tư tưởng trọng nam khinh nữ; chồng chúa, vợ tôi; tư tưởng gia trưởng, độc đoán của người đàn ông; phụ nữ là người giữ gìn hạnh phúc gia đình; ca ngợi thái quá đức hi sinh của phụ nữ; hay quan niệm nuôi dạy con cái “yêu cho roi, cho vọt”… Những quan niệm này đã khiến cho nam giới đương nhiên có vai trò trụ cột trong gia đình, có quyền định đoạt mọi việc, quyền thể hiện tiếng nói của mình trong gia đình nên họ có thể mắng chửi vợ con là điều bình thường, thậm chí có thể thượng cẳng chân, hạ cẳng tay với vợ con cũng có thể chấp nhận được. Nhận thức của chính bản thân người phụ nữ bị bạo lực chưa đúng đắn: sự đấu tranh của người phụ nữ trước nạn bạo hành gia đình còn hạn chế, thiếu thẳng thắn, còn cam chịu. Người phụ nữ còn mang nặng tư tưởng “xấu chàng hổ ai”, họ sợ “vạch áo cho người xem lưng”, lo sợ bạn bè, hàng xóm chê cười vì những hành vi bạo hành trong gia đình. Ngoài ra, nhận thức của cộng đồng xã hội về vấn đề bạo lực gia đình cũng là một nguyên nhân để hiện tượng bạo lực gia đình còn tồn tại và phát triển. Hiện nay, cộng đồng xã hội đã quá quen với hiện tượng bạo lực gia đình, họ coi bạo lực gia đình là chuyện thông thường, chuyện riêng tư của mỗi gia đình theo kiểu “đèn nhà ai nhà nấy rạng”, sự can thiệp, lên án của cộng đồng, hàng xóm, khu dân cư và ngay cả chính quyền địa phương cũng 15 chỉ mang tính nhất thời, mờ nhạt. Chính vì vậy, bạo lực gia đình vẫn hàng ngày xảy ra trong đời sống xã hội. Như vậy, nguồn gốc của bạo lực trong gia đình là do sự nhận thức của mỗi cá nhân chưa đầy đủ về hành vi bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình là biểu hiện của sự bất bình đẳng giới, là sản phẩm của tư tưởng gia trưởng “trọng nam khinh nữ”. Các yếu tố như tệ nạn xã hội, kinh tế thiếu thốn, mâu thuẫn gia đình, ngoại tình…cũng chỉ là những nguyên nhân thứ yếu dẫn tới bạo lực gia đình. Điều đáng tiếc là một bộ phận không nhỏ nam giới và phụ nữ không nhận thấy sự bất bình đẳng này mà mặc nhiên chấp nhận nó, không có ý định thay đổi. Vì vậy, để giải quyết được triệt để vấn đề bạo lực gia đình, chúng ta cần phải thay đổi nhận thức của từng cá nhân cũng như của cả cộng đồng về vấn đề bình đẳng giới. Xóa bỏ “khoảng cách giới” là một vấn về cấp bách, thực tế đã chứng minh rằng thực hiện sự bình đẳng về giới không chỉ đem lại lợi ích riêng cho nữ giới mà còn vì lợi ích chung của cả hai giới, vì sự tiến bộ chung của các thế hệ mai sau. 1.1.3. Đặc điểm của bạo lực gia đình Thứ nhất, bạo lực gia đình là hành vi trái pháp luật, xâm phạm những quyền cơ bản nhất của con người đó là quyền được sống, quyền được tự do, quyền được bảo vệ và hành vi này mang màu sắc bất bình đẳng giới rõ rệt, nạn nhân thường là người phụ nữ phải chịu đựng những tổn thương, đau đớn về thể xác, tinh thần, tình dục, kinh tế… Thứ hai, bạo lực gia đình là hành vi xảy ra giữa các thành viên trong gia đình, tức là chủ thể có hành vi bạo lực và nạn nhân của hành vi bạo lực ấy phải là thành viên trong gia đình. Thực tế cho thấy, phần lớn bạo lực gia đình do đàn ông gây ra cho người bạn đời của họ. Các hành vi bạo lực gia đình với 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan