ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------
MẠCH THỊ KHÁNH TRINH
PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC
CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ TRONG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ Ở TỈNH AN GIANG HIỆN NAY
Chuyên ngành: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số: 62.22.80.05
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2016
Luận án đƣợc hoàn thành tại:
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học
1. TS. HỒ ANH DŨNG
2. TS. TRẦN CHÍ MỸ
Chủ tịch hội đồng:
Phản biện độc lập 1:
Phản biện độc lập 2:
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc hội đồng chấm luận án cấp cơ sở đào tạo họp
tại Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh.
Vào lúc … giờ… phút … ngày … tháng … năm 2016
Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thƣ viện Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh
Thƣ viện Khoa học Tổng hợp, Số 9 Lý Tự Trọng, Q.1, Tp. Hồ Chí Minh
DANH MỤC
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. Mạch Thị Khánh Trinh (2016),Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp cơ sở của tỉnh An Giang – thực trạng và giải pháp, Tạp chí
Khoa học chính trị, số 1+ 2.
2. MạchThị Khánh Trinh (2014),Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở của
tỉnh An Giang đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hiện nay, Tạp chí Tuyên giáo, số
6.
3. Mạch Thị Khánh Trinh (2014), Nâng cao chất lượng cán bộ cấp cơ sở ở
An Giang, Tạp chí Mặt trận, số 7+8.
4. Mạch Thị Khánh Trinh (2014), Nâng cao chất lượng nguồn lực cán bộ
trong hệ thống chính trị cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay – nhìn từ hoạt động
đào tạo, bồi dưỡng, Kỷ yếu hội thảo khoa học“ Sức sống của Chủ nghĩa
Mác – Lênin trong thời đại ngày nay”,Trung tâm lý luận chính trị -Đại học
Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
5. Mạch Thị Khánh Trinh (2013), Những yêu cầu riêng biệt đối với đội ngũ
cán bộ cấp cơ sở vùng dân tộc Khmer của tỉnh An Giang, Kỷ yếu hội thảo
khoa học“ Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống
chính trị cấp cơ sở trong giai đoạn hiện nay”,Trƣờng Đại học Ngân Hàng
và Tạp chí Cộng sản (cơ quan thƣờng trú tại miền Nam) tổ chức.
6. Mạch Thị Khánh Trinh (2012), Phát huy nguồn lực cán bộ cấp cơ sở
trong hệ thống chính trị ở Việt Nam trước bối cảnh hội nhập quốc tế hiện
nay, Kỷ yếu hội thảo khoa học “ Bối cảnh thế giới hiện nay và những vấn
đề đặt ra đối với Việt Nam”, Trung tâm đào tạo, bồi dƣỡng giảng viên Lý
luận chính trị - Đại học Quốc gia Hà Nộ ivà Đề tài cấp Nhà nƣớc KX 04 –
20/11 – 15, tổ chức.
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gần ba mƣơi năm trôi qua, sự nghiệp đổi mới của Đảng ta đã tiếp
tục khẳng định và chứng minh chân lý: Sau khi có đƣờng lối đúng,
cán bộ đóng vai trò quyết định trong mọi công việc. Cán bộ thời nào,
ở bất cứ đâu, trong các hệ thống và bộ phận nào cũng đều quan trọng.
Song, cán bộ trong hệ thống chính trị cấp cơ sở có vị trí và vai trò đặc
biệt quan trọng hiện nay bởi vì cơ sở xã phƣờng, thị trấn là nơi tuyệt
đại bộ phận nhân dân ta cƣ trú và sinh sống. Hệ thống chính trị ở cơ
sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân
thực hiện đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc.
Tăng cƣờng đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội và tổ chức
cuộc sống của cộng đồng dân cƣ. Để đảm bảo cho cấp cơ sở hoàn
thành nhiệm vụ của mình, việc phát triển nguồn lực cán bộ nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở cấp cơ
sở đóng vai trò then chốt.
Xuất phát từ điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa và xã hội, An
Giang và hệ thống chính trị cấp cơ sở ở tỉnh An Giang vừa có những
nét tƣơng đồng vừa có những nét khác biệt so với các tỉnh lân cận
trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh nền tảng nông
thôn và hoạt động nông nghiệp, An Giang còn là địa bàn miền núi,
biên giới với sự đan xen phức tạp của yếu tố dân tộc, tôn giáo.
Trong những năm qua, mặc dù còn nhiều khó khăn nhƣng việc
phát triển nguồn lực cán bộ cấp cơ sở trong hệ thống chính trị ở tỉnh
An Giang đã đạt đƣợc những thành tựu quan trọng. Hệ thống chính trị
ở cơ sở có bƣớc phát triển vững chắc, góp phần tạo nên thành quả khá
toàn diện, kinh tế - xã hội phát triển, chính trị - xã hội ổn định, dân
chủ đƣợc phát huy, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân đƣợc
nâng lên, bộ mặt nông thôn và đô thị biến đổi mạnh mẽ.
2
Tuy nhiên, việc phát triển nguồn lực cán bộ cấp cơ sở trong hệ
thống chính trị ở tỉnh An Giang hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều hạn
chế, nhiều bất cập về cơ cấu, trình độ, năng lực, phẩm chất, số lƣợng
cán bộ trong nguồn lực.
Vì vậy, việc nghiên cứu, nhận thức đúng về lý luận, về vai trò và
thực trạng của nguồn lực cán bộ cấp cơ sở trong hệ thống chính trị ở
tỉnh An Giang hiện nay, cũng nhƣ những ƣu điểm và hạn chế trong
quá trình phát triển nguồn lực này ở An Giang trong thời gian qua sẽ
góp phần xây dựng cơ sở cho việc xác định phƣơng hƣớng, giải pháp
hữu hiệu nhằm phát triển hiệu quả nguồn lực cán bộ cấp cơ sở trong
hệ thống chính trị ở An Giang trong thời gian tới luôn luôn là việc làm
rất quan trọng và cần thiết cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề phát triển nguồn lực con ngƣời, nguồn lực cán bộ và phát
triển nguồn lực cán bộ cấp cơ sở trong hệ thống chính trị thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở nƣớc ta, có thể phân chia các
công trình liên quan thành ba hƣớng chính: Một là, các công trình
nghiên cứu về nguồn lực con ngƣời, nguồn lực cán bộ và phát triển
nguồn lực cán bộ; Hai là, các công trình liên quan đến đề tài hệ thống
chính trị và hệ thống chính trị cấp cơ sở ở Việt Nam; Ba là, các công
trình nghiên cứu về vai trò của nguồn lực cán bộ cấp cơ sở và việc
phát triển nguồn lực cán bộ cấp cơ sở ở các địa phƣơng. Tuy nhiên,
chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên biệt, trực tiếp, có
hệ thống về việc phát triển nguồn lực cán bộ cấp cơ sở trong hệ thống
chính trị ở tỉnh An Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án: Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về việc phát triển nguồn lực cán bộ cấp cơ sở trong hệ thống chính trị
ở tỉnh An Giang; đề xuất một số phƣơng hƣớng và giải pháp phát triển
nguồn lực này trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ của luận án: Thứ nhất, phân tích, làm rõ quan niệm hệ
3
thống chính trị, cấp cơ sở trong hệ thống chính trị; quan niệm về cán
bộ và nguồn lực cán bộ cấp cơ sở; quan niệm về phát triển và những
nội dung của việc phát triển nguồn lực cán bộ cấp cơ sở trong hệ
thống chính trị ở Việt Nam hiện nay. Thứ hai, phân tích, đánh giá
thực trạng việc phát triển nguồn lực cán bộ cấp cơ sở trong hệ thống
chính trị ở tỉnh An Giang trong những năm qua, chỉ ra nguyên nhân
của thành tựu và hạn chế trong phát triển nguồn lực cán bộ cấp cơ sở
của tỉnh. Thứ ba, đề xuất một số phƣơng hƣớng và giải pháp để phát
triển có hiệu quả nguồn lực cán bộ cấp cơ sở trong hệ thống chính trị
ở tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay.
4.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu: Nguồn lực cán bộ cấp cơ sở trong hệ
thống chính trị ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh An Giang nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu: Luận án giới hạn việc nghiên cứu là phát
triển nguồn lực cán bộ cấp cơ sở trong hệ thống chính trị ở tỉnh An
Giang hiện nay (giai đoạn từ năm 2002 đến nay).
5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
của luận án
Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin,
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đƣờng lối chính sách của Đảng và
Nhà nƣớc ta về hệ thống chính trị cấp cơ sở và nguồn lực cán bộ cấp
cơ sở.
Phương pháp nghiên cứu: Luận án đƣợc thực hiện chủ yếu theo
hƣớng tiếp cận triết học chính trị, sử dụng phối hợp các phƣơng pháp
nghiên cứu cụ thể nhƣ: Phƣơng pháp lôgíc và lịch sử, phân tích và
tổng hợp, so sánh, đối chiếu, diễn dịch, quy nạp, thống kê, loại suy,
nghiên cứu định tính, nghiên cứu định lƣợng, điều tra xã hội học,…
Nguồn tài liệu: Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; các văn kiện của Đảng và Nhà nƣớc,
của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang; các công trình nghiên
cứu của các tập thể, cá nhân các nhà khoa học có liên quan đến đề tài;
4
các tài liệu, số liệu thống kê của các ban, ngành, đoàn thể các cấp ở
Trung ƣơng và tỉnh An Giang; các số liệu, tài liệu do tác giả điều tra,
khảo sát thực tế.
6. Cái mới của luận án
Thứ nhất, luận án đã phân tích, đánh giá và chỉ ra đƣợc thực
trạng của quá trình phát triển nguồn lực cán bộ cấp cơ sở trong hệ
thống trị ở tỉnh An Giang trong những năm qua;
Thứ hai, luận án đã đề xuất đƣợc một số phƣơng hƣớng và giải
pháp chủ yếu có tính khả thi, nhằm phát triển có hiệu quả nguồn lực
cán bộ cấp cơ sở trong hệ thống chính trị ở tỉnh An Giang trong giai
đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về ý nghĩa lý luận, luận án đã góp phần làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận chung về cấp cơ sở và việc phát triển nguồn lực cán bộ cấp
cơ sở trong hệ thống chính trị ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh An
Giang nói riêng. Từ thực trạng phát triển nguồn lực cán bộ cấp cơ sở
của tỉnh An Giang thời gian qua, đề xuất những giải pháp phát triển
nguồn lực này nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của cấp cơ sở trong
hệ thống chính trị ở tỉnh An Giang hiện nay.
Về ý nghĩa thực tiễn, những phƣơng hƣớng và giải pháp mà luận
án đề xuất sẽ góp phần vào việc hoạch định, chính sách phát triển hợp
lý nguồn lực cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh An Giang nhằm nâng cao hơn
nữa hiệu quả hoạt động của cấp cơ sở trong hệ thống chính trị trong
quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và hội nhập quốc
tế. Ngoài ra, những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm
tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy về vấn đề hệ thống
chính trị, về nguồn lực cán bộ và phát triển, phát huy nguồn lực cán
bộ cấp cơ sở.
5
Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẤP CƠ SỞ TRONG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CÁN BỘ CẤP
CƠ SỞ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM
1.1. QUAN NIỆM VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ CẤP CƠ
SỞ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM
1.1.1. Quan niệm về hệ thống chính trị ở Việt Nam
Thuật ngữ hệ thống chính trị Việt Nam đƣợc hiểu là một chỉnh
thể, bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đƣợc pháp luật
thừa nhận cùng cơ chế vận hành và mối quan hệ qua lại giữa các bộ
phận đó nhằm tăng cƣờng vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý
của Nhà nƣớc, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, vì mục tiêu dân
giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay có các đặc điểm: Tính
nhất nguyên chính trị; tính thống nhất toàn hệ thống; gắn bó mật thiết
với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân; sự kết hợp
giữa tính giai cấp và tính dân tộc của hệ thống chính trị.
1.1.2. Quan niệm về cấp cơ sở trong hệ thống chính trị ở
Việt Nam
Tƣơng ứng với sự phân cấp hành chính, hệ thống chính trị ở
nƣớc ta chia thành 4 cấp, cấp xã, phƣờng, thị trấn là cấp cuối cùng
trong đơn vị hành chính, nên đƣợc gọi là cấp cơ sở. Về mặt tổ chức,
hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm ba bộ phận cấu thành là tổ chức
Đảng, Chính quyền và Mặt trận Tổ quốc ở xã và các tổ chức thành
viên của Mặt trận Tổ quốc bao gồm Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ,
Hội Nông dân và Hội Cựu chiến binh.
Cấp cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng xét trong toàn bộ hệ
thống. Bởi vì: Cấp cơ sở là nền tảng của chế độ chính trị và đời sống
xã hội; cơ sở là nơi diễn ra cuộc sống của ngƣời dân, là nơi chính
6
quyền và các đoàn thể tổ chức cuộc sống, hoạt động và các phong trào
của cộng đồng dân cƣ; cơ sở cũng chính là tầng sâu nhất mà sự vận
hành của thể chế từ vĩ mô phải tác động tới; cơ sở là cấp hành động
và tổ chức hành động để đƣa đƣờng lối, nghị quyết, chính sách vào
cuộc sống.
1.2. QUAN NIỆM VỀ NGUỒN LỰC CÁN BỘ VÀ NGUỒN
LỰC CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở
VIỆT NAM
1.2.1. Quan niệm về nguồn lực và nguồn lực cán bộ
Quan niệm về nguồn lực
Nguồn lực là hệ thống các yếu tố cả vật chất và tinh thần đã,
đang và sẽ có khả năng tạo ra sức mạnh tổng hợp góp phần thúc đẩy
quá trình cải biến tự nhiên và xã hội của một quốc gia, dân tộc hay
một địa phƣơng, một đơn vị.
Nguồn lực con ngƣời là tổng thể số lƣợng và chất lƣợng con ngƣời với tổng hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất
đạo đức - tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con ngƣời và xã hội
đã, đang và sẽ huy động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát
triển và tiến bộ xã hội.
Quan niệm về cán bộ
Cán bộ là khái niệm dùng để chỉ những người ở trong cơ cấu của
một cơ quan, tổ chức nhất định của hệ thống chính trị; có trọng trách
hoàn thành nhiệm vụ theo chức năng được tổ chức đó phân công. Để
đảm bảo cho người cán bộ hoàn thành nhiệm vụ được giao họ sẽ
được lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng theo những tiêu chuẩn nhất định
nhằm có được những phẩm chất và năng lực cần thiết để có thể thực
thi nhiệm vụ của mình.
Ngƣời cán bộ ở Việt Nam hiện nay có bốn đặc trƣng cơ bản là:
Cán bộ là ngƣời đƣợc sự ủy thác của Đảng, Nhà nƣớc và các tổ chức
khác trong hệ thống chính trị - xã hội, lấy danh nghĩa của Đảng, Nhà
nƣớc và các tổ chức đó để hoạt động; cán bộ là ngƣời giữ một chức
7
vụ, một trọng trách nào đó trong hệ thống chính trị nói chung; ngƣời
làm cán bộ phải thông qua bầu cử, tuyển chọn, bổ nhiệm, đề bạt hay
phân công của tổ chức chính trị - xã hội; ngƣời cán bộ đƣợc hƣởng
lƣơng và các chính sách đãi ngộ căn cứ vào nội dung, chất lƣợng hoạt
động của họ.
Quan niệm về nguồn lực cán bộ
Nguồn lực cán bộ là tổng thể các yếu tố về số lượng, chất lượng
và cơ cấu cán bộ, có thể huy động vào quá trình hoạt động nghiệp vụ
của từng cán bộ, của mỗi tổ chức, của cả bộ máy để nâng cao hiệu
lực và hiệu quả của bộ máy đó.
Nguồn lực cán bộ còn bao gồm cả lực lƣợng kế thừa, ở thời điểm
hiện tại đây là lực lƣợng thanh niên, học sinh, sinh viên đang học tập,
tham gia vào các hoạt động kinh tế - văn hóa- xã hội.
1.2.2. Quan niệm về nguồn lực cán bộ cấp cơ sở trong hệ
thống chính trị ở Việt Nam
Nguồn lực cán bộ cấp cơ sở trong hệ thống chính trị Việt Nam
Nguồn lực cán bộ cấp cơ sở trong hệ thống chính trị ở Việt Nam
hiện nay là tổng thể các yếu tố về số lượng, chất lượng và cơ cấu đội
ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở, có thể huy động vào quá trình hoạt
động nghiệp vụ của từng cán bộ và của các đơn vị cấp xã, phường,
thị trấn để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của cấp cơ sở trong hệ
thống chính trị ở Việt Nam.
Nguồn lực cán bộ cấp cơ sở trong hệ thống chính trị ở Việt Nam
còn bao gồm cả lực lƣợng kế thừa. Lực lƣợng này có thể đang là học
sinh, sinh viên, thanh niên, là con em của các gia đình có công với
cách mạng, gia đình thƣơng binh, liệt sĩ; các thanh niên ƣu tú trong các
phong trào hoạt động thanh niên, đoàn hội.
Đặc điểm và yếu tố cấu thành nguồn lực cán bộ cấp cơ sở
trong hệ thống chính trị ở Việt Nam
Đặc điểm của nguồn lực cán bộ cấp cơ sở: Nguồn lực cán bộ cấp
cơ sở quyết định trực tiếp, hiệu quả hoạt động của cấp cơ sở trong hệ
8
thống chính trị; Là nguồn lực ít về số lƣợng xét trên từng đơn vị cơ sở
và thấp về chất lƣợng xét trong toàn bộ hệ thống chính trị; nguồn lực
có sự biến động thƣờng xuyên, chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi hoàn
cảnh cụ thể của từng đơn vị cơ sở ở các địa phƣơng.
Yếu tố cấu thành nguồn lực cán bộ cấp cơ sở
Số lƣợng cán bộ
Số lƣợng cán bộ trong đơn vị cơ sở đƣợc quy định theo Nghị
định số 92/2009 của Chính phủ, bố trí theo loại đơn vị hành chính tối
đa là từ 21 ngƣời (đối với đơn vị cơ sở loại 3) đến 25 ngƣời (đối với
đơn vị cơ sở loại 1).
Chất lƣợng cán bộ
Yêu cầu thuộc về phẩm chất của cán bộ cấp cơ sở
Phải tuyệt đối trung thành với Đảng, với Nhà nƣớc, luôn bảo vệ
danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia. Gƣơng mẫu chấp hành nghiêm
chỉnh đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc và
trong đạo đức lối sống. Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm
về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đƣợc giao. Có ý thức tổ
chức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan,
tổ chức, đơn vị; chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công
vụ; giữ gìn đoàn kết trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Yêu cầu thuộc về năng lực của cán bộ cấp cơ sở
Có năng lực và tổ chức vận động nhân dân thực hiện có kết quả
đƣờng lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nƣớc; đạt tiêu
chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ. Có trình độ văn hoá, chuyên môn,
đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ đƣợc giao. Những cán bộ công chức cấp cơ sở công tác tại
các nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống phải biết ít nhất
tiếng của một dân tộc thiểu số. Tuỳ thuộc vào vị trí, nhiệm vụ của
mình trong hệ thống chính trị cơ sở mà mỗi cán bộ, viên chức còn
phải đáp ứng những yêu cầu và tiêu chuẩn riêng.
9
Cơ cấu cán bộ
Việc bố trí cơ cấu cán bộ trong mỗi đơn vị cơ sở phải đảm bảo sự
hài hòa, hợp lý giữa các cơ cấu thành phần xuất thân, cơ cấu ngành
nghề, cơ cấu trình độ, cơ cấu phân bố, cơ cấu dân tộc, cơ cấu giới
tính...
Vai trò của nguồn lực cán bộ cấp cơ sở trong hệ thống chính trị ở
Việt Nam
Nguồn lực cán bộ cấp cơ sở là lực lƣợng trực tiếp tổ chức và
vận động nhân dân thực hiện đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nƣớc; trực tiếp quản lý địa bàn, tạo điều kiện cho nhân
dân thực hiện quyền làm chủ của mình; là lực lƣợng nòng cốt đi đầu
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phƣơng; là nguồn bổ
sung cho đội ngũ cán bộ cấp trên trong hệ thống chính trị.
1.3. PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM
1.3.1. Quan niệm về phát triển nguồn lực cán bộ cấp cơ sở
trong hệ thống chính trị ở Việt Nam
Phát triển nguồn lực cán bộ cấp cơ sở là quá trình nâng cao
phẩm chất và năng lực về mọi mặt cho đội ngũ cán bộ chuyên trách
cấp cơ sở; sử dụng có hiệu quả những phẩm chất và năng lực của
từng cán bộ vào quá trình hoạt động nghiệp vụ của bản thân và cả bộ
máy nhằm nâng cao hơn nữa hiệu lực và hiệu quả hoạt động của cấp
cơ sở trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay.
1.3.2.Thực chất của việc phát triển nguồn lực cán bộ cấp cơ
sở trong hệ thống chính trị ở Việt Nam
Một là, nâng cao phẩm chất, năng lực mọi mặt cho đội ngũ cán
bộ cấp cơ sở thông qua hoạt động đào tạo, bồi dƣỡng
Hai là, sử dụng có hiệu quả những phẩm chất và năng lực của
từng cán bộ vào quá trình hoạt động nghiệp vụ của bản thân và cả bộ
máy nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của cấp cơ sở trong
hệ thống chính trị ở nƣớc ta hiện nay.
10
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Cấp cơ sở hệ thống chính trị là hình ảnh thu nhỏ của hệ thống
chính trị cấp quốc gia, bao gồm: tổ chức Đảng, Chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp, hay vẫn
thƣờng đƣợc gọi là các Đoàn thể nhân dân ở địa phƣơng. Nguồn lực
cán bộ cấp cơ sở hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay đƣợc xác
định là tổng thể các yếu tố về số lƣợng, chất lƣợng và cơ cấu đội ngũ
cán bộ chuyên trách cấp cơ sở, có thể huy động vào quá trình hoạt
động nghiệp vụ của từng cán bộ và của các đơn vị cấp xã, phƣờng,
thị trấn để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của cấp cơ sở hệ thống
chính trị Việt Nam. Thực chất của việc phát triển nguồn lực cán bộ
cấp cơ sở trong hệ thống chính trị nƣớc ta hiện nay là thực hiện song
song, đồng bộ cả hai việc: Một là, đào tạo và bồi dƣỡng nhằm nâng
cao phẩm chất và năng lực mọi mặt cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
Hai là, sử dụng có hiệu quả những phẩm chất và năng lực hiện có
của từng cán bộ vào quá trình hoạt động nghiệp vụ nhằm nâng cao
hiệu quả và hiệu lực hoạt động của từng đơn vị cũng nhƣ của cả hệ
thống chính trị cấp cơ sở.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CÁN BỘ CẤP CƠ
SỞ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở
TỈNH AN GIANG TRONG NHỮNG NĂM QUA
2.1. KHÁI QUÁT VỀ AN GIANG VÀ NGUỒN LỰC CÁN BỘ
CẤP CƠ SỞ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở TỈNH AN GIANG
2.1.1.Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của tỉnh
An Giang
Tỉnh An Giang nằm ở phía tây nam của Tổ quốc Việt Nam, thuộc
vùng kinh tế trọng điểm của đồng bằng sông Cửu Long, là tỉnh biên
giới, có nhiều dân tộc và tôn giáo. Địa hình An Giang đa dạng, vừa có
đồng bằng, vừa có đồi núi tạo nên cảnh quan sắc thái độc đáo. An
11
Giang là một trong những tỉnh có diện tích đất canh tác lớn nhất trong
vùng đồng bằng sông Cửu Long. Vốn đƣợc thiên nhiên ƣu đãi, An
Giang có những thuận lợi to lớn trong việc phát triển một nền kinh tế
nông nghiệp toàn diện trong đó thế mạnh là trồng lúa và nuôi cá nƣớc
ngọt. Vùng Bảy núi với nhiều di tích lịch sử, văn hóa, tôn giáo và
huyền thoại bí ẩn, mang đến lợi thế cho An Giang trong việc phát
triển kinh tế du lịch, dịch vụ.
Ngoài ngƣời Kinh, ở An Giang còn có các dân tộc khác nhƣ
ngƣời Khmer, ngƣời Chăm, ngƣời Hoa và một ít ngƣời thuộc các dân
tộc khác. Dân số toàn tỉnh đến năm 2014 là 2.150.999 ngƣời. Đến nay
vẫn còn 70,2% dân số của tỉnh sống ở nông thôn,58% dân số có việc
làm trong đó số làm việc trong các ngành nông, lâm thủy sản chiếm tỉ lệ
58% lao động.
Không chỉ là tỉnh đa dân tộc, An Giang còn là tỉnh đa tôn giáo,
bên cạnh sự có mặt của các tôn giáo lớn nhƣ Phật giáo, Thiên chúa
giáo, Tin lành, Hồi giáo… An Giang còn là nơi xuất phát của nhiều
tôn giáo bản địa nhƣ: Đạo Hòa Hảo, đạo Bửu Sơn Kỳ Hƣơng; đạo Tứ
ân hiếu nghĩa…
Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa – xã hội của An Giang không
chỉ quy định đặc điểm, nhiệm vụ của hệ thống chính trị cấp cơ sở của
tỉnh mà còn ảnh hƣởng đến chất lƣợng nguồn lực cán bộ cấp cơ sở
cũng nhƣ yêu cầu nhiệm vụ của việc phát triển nguồn lực này nhằm
đảm bảo hiệu quả hoạt động của cấp cơ sở trong hệ thống chính trị của
tỉnh hiện nay.
2.1.2. Khái quát về cấp cơ sở và nguồn lực cán bộ cấp cơ sở
trong hệ thống chính trị ở tỉnh An Giang hiện nay
Cấp cơ sở trong hệ thống chính trị ở tỉnh An Giang hiện nay
Đƣợc thành lập từ năm 1832, An Giang ngày nay là đơn vị hành
chính cấp tỉnh loại II theo Quyết định số 1428/QĐ – TTg ngày
03/10/2008 của Thủ tƣớng Chính phủ. Toàn tỉnh có 11 đơn vị hành
chính cấp huyện bao gồm 2 thành phố,1 thị xã và 8 huyện. Với 156
12
đơn vị hành chính cấp cơ sở, An Giang hiện nay có 21 phƣờng, 13 thị
trấn và 122 xã, toàn tỉnh có 888 khóm và ấp.Trong số 156 đơn vị cấp
cơ sở có 78 đơn vị đƣợc xếp vào xã trọng điểm quốc phòng, 18 xã
biên giới, 35 xã thuộc diện khó khăn và 37 đơn vị dân tộc, miền núi.
Tỉnh An Giang hiện nay có 156 đảng bộ cơ sở với 3310 đảng
viên.Chính quyền cơ sở, bao gồm Hội đồng nhân dân (với 156 đơn vị
và 4580 đại biểu), đội ngũ cán bộ chuyên trách và công chức cấp xã là
3.575 ngƣời. Với 772 cán bộ lãnh đạo, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân ở cơ sở, các đoàn thể nhân dân.
Nguồn lực cán bộ cấp cơ sở trong hệ thống chính trị ở tỉnh An
Giang hiện nay
Về số lƣợng: Tính đến ngày 31/12/2014, tổng số cán bộ cấp cơ
sở ở tỉnh An Giang là 3.575 ngƣời, bao gồm 1.723 cán bộ và 1.852
công chức.
Về chất lƣợng
Trình độ lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức và lối sống
Có 2.483 ngƣời (chiếm tỉ lệ 69,4%) đã qua đào tạo, bồi dƣỡng
đạt chuẩn quy định về trình độ lý luận chính trị (trung cấp và cao
cấp). Có 53,9% trên tổng số công chức cấp cơ sở đạt trình độ lý luận
chính trị từ trung cấp trở lên.Trong tổng số cán bộ cấp cơ sở của tỉnh,
có 92,5% cán bộ là đảng viên.
Về kiến thức và năng lực chuyên môn
Số cán bộ đạt trình độ trung học phổ thông chiếm 95,8%, có
3361 cán bộ có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên, đạt tỉ lệ
94,%. Số cán bộ cấp cơ sở có chứng chỉ ngoại ngữ hiện nay là 2009
ngƣời, chiếm tỉ lệ 56,1% tổng số cán bộ và 68% có chứng chỉ tin học.
Về cơ cấu
Có 63% cán bộ chuyên trách dƣới 45 tuổi, trong lực lƣợng công
chức cấp cơ sở chiếm đến 90,8%. Hơn 2/3 cán bộ là nam, số cán bộ là
ngƣời dân tộc thiểu số khác chiếm tỉ lệ rất ít, chƣa đến 4% (có 124
ngƣời thuộc các dân tộc khác).
13
2.2.THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CÁN BỘ CẤP
CƠ SỞ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở TỈNH AN GIANG
TRONG NHỮNG NĂM QUA – THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ
2.2.1. Thực trạng phát triển số lƣợng nguồn lực cán bộ cấp cơ
sở trong hệ thống chính trị ở tỉnh An Giang trong những năm qua
Tăng cƣờng cán bộ ở những nơi còn khó khăn, vùng sâu, biên
giới, dân tộc bằng cách luân chuyển cán bộ đang công tác ở các cơ
quan cấp huyện, tỉnh về công tác ở cơ sở lâu dài hoặc từng thời gian
3 năm, 5 năm nhất là ở vùng sâu, vùng dân tộc, biên giới. Trong công
tác quy hoạch, An Giang luôn gắn trách nhiệm với ngƣời đứng đầu
đơn vị cơ sở.
Việc tuyển dụng công chức cấp cơ sở trong tỉnh thông qua kỳ
thi tuyển công chức do Sở Nội vụ tổ chức. Đối với các địa bàn khó
khăn, vùng sâu, vùng dân tộc thiểu số, các xã biên giới vẫn tiếp tục
áp dụng hình thức xét tuyển.Ngƣời tham gia dự tuyển phải có trình
độ chuyên môn,nghiệp vụ từ trung cấp trở lên phù hợp với chức danh
cần tuyển, có chứng chỉ tin học văn phòng từ trình độ A trở lên. Ở
địa bàn công tác phải sử dụng tiếng dân tộc thiểu số trong hoạt động
công vụ thì phải biết thành thạo tiếng dân tộc thiểu số phù hợp. Tỉnh
chỉ đạo, quan tâm tạo nguồn cán bộ cơ sở, hƣớng vào các đối tƣợng
là con em các gia đình cách mạng, đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng,
trung cấp kỹ thuật, trƣờng Dân tộc nội trú; thanh niên đã hoàn thành
nghĩa vụ quân sự, những ngƣời sản xuất, kinh doanh giỏi. Đến nay,
công tác quy hoạch đã dần đi vào nề nếp, từng bƣớc nâng cao đƣợc
chất lƣợng cán bộ, đủ về số lƣợng, đảm bảo tính liên tục, tính phát
triển, khắc phục đƣợc tình trạng hẫng hụt, bị động, chấp vá, không
đồng bộ... trong nguồn lực cán bộ cấp cơ sở.Tỉ lệ bình quân cán bộ
trên một đơn vị cơ sở trong toàn tỉnh là 22,9 ngƣời về cơ bản đảm
bảo số lƣợng theo quy định của Chính phủ và đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ của từng đơn vị cơ sở.
14
2.2.2. Thực trạng phát triển chất lƣợng nguồn lực cán bộ cấp cơ
sở trong hệ thống chính trị ở tỉnh An Giang trong những năm qua
Thứ nhất, đẩy mạnh hoạt động đào tạo và bồi dưỡng nhằm nâng
cao phẩm chất và năng lực mọi mặt nguồn lực cán bộ cấp cơ sở
Năm 2002, An Giang xác định: Tập trung chuẩn hóa cán bộ và
công chức cấp cơ sở, đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định. Tổ chức các
lớp bồi dƣỡng chuyên đề nhằm phổ biến các Văn kiện, Nghị quyết
của Đảng. Trang bị kiến thức, văn hóa công sở, kiến thức quốc phòng,
an ninh, kỹ năng ngoại ngữ, tin học văn phòng. Đẩy mạnh và nâng
cao chất lƣợng công tác đào tạo tiếng dân tộc Khmer cho cán bộ, công
chức đang công tác tại vùng có đông đồng bào dân tộc Khmer và
vùng tiếp giáp Vƣơng quốc Campuchia.
Năm 2011, tỉnh xác định: Tiếp tục đào tạo để chuẩn hóa về
chuyên môn và lý luận chính trị trình độ trung cấp trở lên cho đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã, từng bước đào tạo một tỉ lệ cán bộ, công
chức cấp xã có trình độ đại học.
Đến năm 2013, chất lƣợng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trên địa bàn
tỉnh đã đƣợc nâng lên rất nhiều, tỉ lệ cán bộ, công chức cơ sở của tỉnh
đạt chuẩn tăng gần gấp đôi. Đến nay, về cơ bản, đội ngũ cán bộ xã đã
đƣợc đào tạo đáp ứng yêu cầu cho trƣớc mắt và lâu dài, góp phần đáp
ứng yêu cầu thực tiễn công tác và hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị,
phát triển kinh tế xã hội của địa phƣơng.
Tuy nhiên, một số địa phƣơng chậm cụ thể hóa thành kế hoạch,
thiếu phân công trách nhiệm nên có phần chậm chạp trong sắp xếp, tổ
chức, đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ. Do vậy, vẫn tồn tại, bất cập về trình
độ, năng lực của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trên nhiều mặt: Về trình độ
lý luận chính trị; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ…
Thứ hai, thực trạng việc sử dụng những phẩm chất và năng lực
của từng cán bộ vào quá trình hoạt động nghiệp vụ nhằm nâng cao
hiệu quả và hiệu lực hoạt động của từng đơn vị cũng như của cả hệ
thống chính trị cấp cơ sở
15
Các đơn vị cơ sở thực hiện việc rà soát chức trách, nhiệm vụ
của từng chức danh và cán bộ để sắp xếp hợp lý, sử dụng hết thời
gian hành chính. Khuyến khích thực hiện chế độ kiêm nhiệm trong
phân công, bố trí cán bộ. Chủ trƣơng trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp cơ sở cũng đƣợc tỉnh An Giang chú trọng và triển
khai thực hiện.
Lấy kết quả đánh giá cuối năm này làm cơ sở để điều chỉnh,
bổ sung quy hoạch, bố trí, sắp xếp, điều chuyển đội ngũ cán bộ
hiện có cho phù hợp với trình đội và năng lực đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ mới.
Năm 2002, An Giang xác định: Thực hiện đầy đủ các chế độ,
chính sách của Trung ương ban hành đối với cơ sở. Trong phạm vi
quyền hạn, tỉnh tiếp tục nghiên cứu vận dụng để có các chính sách
ƣu tiên, đãi ngộ, đảm bảo tốt nhất cho các hoạt động của hệ thống
chính trị và cán bộ cấp cơ sở trong khả năng của địa phƣơng. Mức
lƣơng của Bí thƣ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn
đƣợc xếp bằng hoặc cao hơn mức lƣơng trƣởng phòng cấp huyện.
Đến năm 2006, An Giang thực hiện việc điều chỉnh, bổ sung chính
sách cho cán bộ cơ sở với mục tiêu tạo mặt bằng chung trong hệ
thống tiền lương cũng như trợ cấp địa phương. Thực hiện theo chế
độ tiền lƣơng của Trung ƣơng quy định, bỏ phần phụ cấp địa
phƣơng bằng tiền và chuyển sang thực hiện phụ cấp theo hệ số cho
các chức danh.
2.2.3. Thực trạng phát triển cơ cấu nguồn lực cán bộ cấp cơ
sở trong hệ thống chính trị ở tỉnh An Giang trong những năm qua
Từ năm 2002, tỉnh có chủ trƣơng, trong quy hoạch kịp thời phát
hiện ngƣời tốt, trẻ, có triển vọng và quan tâm tạo nguồn cán bộ ngƣời
Khmer, Chăm ở các vùng có đông đồng bào dân tộc. Ƣu tiên cán bộ
trẻ, cán bộ nữ trong quy hoạch, bổ nhiệm, nâng dần độ tuổi cán bộ cơ
sở bằng chủ trƣơng trẻ hóa đội ngũ, ƣu tiên cán bộ trẻ, đƣợc đào tạo
bài bản.
16
2.2.4.Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong
việc phát triển nguồn lực cán bộ cấp cơ sở trong hệ thống chính
trị ở tỉnh An Giang trong những năm qua
Những thành tựu và hạn chế chủ yếu
Những thành tựu chủ yếu
Khắc phục tình trạng thiếu hụt cán bộ cơ sở tồn tại trong thời
gian dài ở các địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa, địa bàn biên
giới, dân tộc và miền núi của tỉnh. Cơ bản thực hiện đƣợc mục tiêu
đạt chuẩn đối với đội ngũ cán bộ trên địa bàn tỉnh, từng bƣớc thực
hiện mục tiêu nâng chuẩn đội ngũ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt. Tinh thần và thái độ phục vụ nhân dân của nguồn lực cán
bộ cấp cơ sở đặc biệt là công chức cơ sở trên địa bàn tỉnh ngày càng
cải thiện, giải quyết kịp thời và hiệu quả những đề xuất, nguyện vọng
chính đáng của nhân dân và đƣợc ngƣời dân đánh giá cao. Nguồn lực
cán bộ cấp cơ sở của tỉnh hiện nay đã đƣợc đào tạo đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ cho trƣớc mắt và lâu dài.
Những hạn chế chủ yếu
Sự chuyển biến nhận thức trƣớc yêu cầu nâng cao năng lực đội
ngũ cán bộ cấp cơ sở chƣa đồng đều, có nơi thiếu mạnh dạn, chần chừ
trong việc chuẩn hóa. Vẫn còn một bộ phận cán bộ cấp cơ sở trên địa
bàn tỉnh chƣa đạt chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ; về lý luận chính
trị; về kiến thức quốc phòng, an ninh, về quản lý hành chính Nhà
nƣớc… Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tuy đƣợc đào tạo, thông
qua hoạt động thực tiễn, song trình độ học vấn, chuyên môn và chính
trị vẫn còn thấp so với yêu cầu, làm việc theo kinh nghiệm, sự vụ,
nhiều nơi tùy tiện.Tình trạng xa dân, ít xuống địa bàn để tiếp xúc với
dân và nắm tình hình ở địa bàn cơ sở của nguồn lực cán bộ cấp cơ sở
vẫn còn phổ biến.
Nguyên nhân của những thành tựu
Thứ nhất, từ đƣờng lối đúng đắn của Đảng, chính sách kịp thời
17
của Nhà nƣớc về cán bộ, công tác cán bộ; Thứ hai, sự quan tâm, chỉ
đạo của Tỉnh ủy và Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang; Thứ ba, từ hoạt
động của các đơn vị cơ sở trên địa bàn tỉnh An Giang; Thứ tư, sự nỗ
lực vƣơn lên của chính nguồn lực cán bộ cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh
An Giang.
Nguyên nhân của những hạn chế
Xuất phát điểm thấp về kinh tế - xã hội khó thu hút và giữ chân
cán bộ từ nơi khác đến đây công tác.
Đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, không tích cực tham gia
vào các chƣơng trình, mục tiêu, hoạt động của hệ thống chính trị cấp
cơ sở.
Chƣa xây dựng, hoàn thiện hệ thống các tiêu chuẩn phù hợp đối
với từng chức danh cán bộ trong nguồn lực cán bộ cấp cơ sở làm căn
cứ tuyển chọn, đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ. Chƣa chú trọng tổ chức các
lớp đào tạo, bồi dƣỡng riêng về chuyên môn, nghiệp vụ, những kiến
thức, kỹ năng chuyên biệt cho những cán bộ cấp cơ sở công tác ở
những địa bàn chuyên biệt. Đời sống vật chất và tinh thần của phần
lớn cán bộ cấp cơ sở trong hệ thống chính trị ở tỉnh An Giang còn
nhiều khó khăn.
Tâm lý an phận trì trệ, ngại học tập, ngại phấn đấu hoặc tự mãn
bằng lòng với mình. Không có khả năng giao tiếp bằng tiếng dân tộc,
công tác dân vận không đạt hiệu quả cao.Tác phong làm việc quan
liêu, thủ tục hành chính rƣờm rà gây khó khăn cho ngƣời dân nhất là
đồng bào dân tộc Khmer, Chăm vốn không rành tiếng Việt
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Trong những năm qua, bên cạnh việc duy trì số lƣợng cán bộ hợp
lý điều chỉnh những điểm bất cập trong cơ cấu cán bộ cấp cơ sở hiện
có, tỉnh An Giang tập trung vào việc phát triển yếu tố chất lƣợng
nguồn lực, thực hiện mục tiêu chuẩn hóa và nâng dần chất lƣợng đội
ngũ cán bộ cấp cơ sở. Tỉnh cũng đã áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp
- Xem thêm -