Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở t...

Tài liệu Phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố hà nội hiện nay

.PDF
157
563
69

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM VĂN TÂN PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS Mã số : 62 22 03 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. HỒ SĨ QUÝ Hà Nội - Năm 2014 HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả, số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác. Những kết luận khoa học của luận án không trùng với nội dung của bất cứ công trình khoa học nào. Tác giả luận án Phạm Văn Tân MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 6 1.1. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án 6 1.2. Những giá trị của các công trình mà luận án cần kế thừa và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu 26 Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở HÀ NỘI 34 2.1. Quan niệm về nguồn lực con người, phát triển nguồn lực con người, công nghiệp hóa, hiện đại hóa 34 2.2. Tầm quan trọng của việc phát triển nguồn lực con người 51 2.3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội hiện nay và yêu cầu cơ bản của việc phát triển nguồn lực con người ở Hà Nội 56 Chương 3: PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA THỦ ĐÔ: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 69 3.1. Điều kiện tự nhiên, truyền thống lịch sử, văn hóa, đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển nguồn lực con người Hà Nội 69 3.2. Thực trạng phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội 74 3.3. Một số vấn đề đặt ra đối với việc phát triển nguồn lực con người Hà Nội hiện nay 103 Chương 4: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI HÀ NỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA THỦ ĐÔ HIỆN NAY 111 4.1. Quan điểm định hướng phát triển nguồn lực con người Hà Nội 111 4.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn lực con người Hà Nội đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô 118 KẾT LUẬN 143 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 145 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 145 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ASEAN : Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á BCH : Ban chấp hành CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNXH : Chủ nghĩa xã hội HĐND : Hội đồng nhân dân ILO : Tổ chức Lao động quốc tế NNL : Nguồn nhân lực NXB : Nhà xuất bản XHCN : Xã hội chủ nghĩa UBND : Ủy ban nhân dân UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và văn hóa Liên hiệp quốc MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nguồn lực con người là yếu tố cấu thành quan trọng nhất của lực lượng sản xuất xã hội, là nhân tố có thể quyết định sức mạnh của một quốc gia. Phát triển nguồn lực con người từ lâu đã trở thành nhiệm vụ chiến lược của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới. Trong điều kiện ngày nay, khi mà nền kinh tế thế giới đang từng bước chuyển sang kinh tế tri thức, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã trở thành xu thế phổ biến, khách quan, không thể đảo ngược, thì một quốc gia, nếu muốn phát triển, hơn nữa nếu muốn phát triển nhanh và bền vững, thì nhất thiết phải có tầm nhìn về nguồn lực con người, phải biết huy động, đào tạo, phát huy có hiệu quả nguồn lực con người. Kinh nghiệm của các nước phát triển nhanh trong những thập niên gần đây cho thấy, điều kiện địa lý, tài nguyên thiên nhiên, vốn tài chính… không hẳn đã đủ đảm bảo để phát triển. Có những quốc gia nghèo về vốn và tài nguyên, thậm chí điều kiện thiên nhiên còn khắc nghiệt, nhưng vẫn phát triển ngoạn mục do biết đầu tư vào con người và phát huy được nguồn lực con người. Điều này chứng tỏ con người, nguồn lực con người là yếu tố quan trọng nhất, là “nguồn lực của mọi nguồn lực”. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, tiếp thu những quan niệm thời đại về con người và nhân tố con người, Đảng ta đã xác định: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người là nhân tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” [32, tr.85], “Mục tiêu, động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người” [37, tr.8], “Tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, toàn diện của con người” [41, tr.56]. Theo đó, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển; con người được đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Hà Nội - Thủ đô là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục... của cả nước, giữ vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trước kia cũng như ngày nay. Trong những năm đổi mới vừa qua, Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện, trong đó có những thành tựu về phát 1 triển nguồn lực con người, tạo sự chuyển biến căn bản trong đời sống kinh tế - xã hội, đi đầu trong cả nước về công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, Thành phố Hà Nội, như nhiều đánh giá của các cơ quan chức năng, vẫn còn một số hạn chế. Kinh tế tuy phát triển nhưng chưa tương xứng với vị thế tiềm năng của Thủ đô; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Hội nhập quốc tế thực sự chưa đi vào chiều sâu, ở nhiều lĩnh vực chưa trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tuy có sự chuyển biến tích cực song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu. Trong lĩnh vực phát triển nguồn lực con người, “chất lượng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường đặt ra”, “quá trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở nhiều địa phương còn chạy theo số lượng, chưa đảm bảo chất lượng tay nghề và kỹ năng ứng xử để cung cấp ra thị trường lao động” [82, tr.121], lực lượng lao động mất cân đối giữa các ngành nghề và cấp bậc đào tạo, cơ cấu đào tạo còn bất hợp lý, thiếu lao động kỹ thuật lành nghề để phục vụ cho các ngành kinh tế mũi nhọn; thiếu đội ngũ chuyên gia đầu ngành trong các ngành, các lĩnh vực... Trên thực tế, việc huy động các nguồn lực cho phát triển còn nhiều hạn chế, chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của đội ngũ đông đảo các nhà khoa học, văn hóa, chính trị,… trên địa bàn Thủ đô. Trước yêu cầu đẩy mạnh xây dựng và phát triển Thủ đô ngày càng “xứng đáng với vai trò là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế, một động lực phát triển của vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước” [5], Hà Nội được yêu cầu phải phát huy hơn nữa vị thế, tiềm năng thế mạnh của mình, trong đó phải đặc biệt chú trọng tới nguồn lực con người, coi đầu tư, phát triển, huy động nguồn lực con người là khâu “đột phá” chiến lược. Để thực hiện được khâu “đột phá” chiến lược nói trên, khắc phục những hạn chế, bất cập hiện nay, việc nghiên cứu, tổng kết, đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và tìm ra giải pháp phát triển nguồn lực con người Hà Nội nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô là một yêu cầu cấp bách, có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn. Công việc này là nhiệm vụ không chỉ đặt ra 2 với các cơ quan lãnh đạo, quản lý ở Hà Nội, với các nhà nghiên cứu có trình độ cao, mà còn là nhiệm vụ của những nghiên cứu thuộc phạm vi đào tạo sau đại học. Với lý do như vậy, chúng tôi chọn “Phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của luận án của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đính nghiên cứu Nghiên cứu thực trạng phát triển nguồn lực con người ở Thành phố Hà Nội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô giai đoạn hiện nay; đánh giá điểm mạnh và những hạn chế về phát triển nguồn lực con người, xác định vấn đề cần khắc phục, từ đó đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát huy nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở Thành phố Hà Nội hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan những nội dung lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài luận án và những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu. - Hệ thống hóa và làm rõ thêm lý luận về nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; nghiên cứu xác định đặc điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội. - Nghiên cứu làm rõ thực trạng nguồn lực con người Hà Nội hiện nay, xác định một số vấn đề đặt ra trong việc phát triển nguồn lực con người Hà Nội. - Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn lực con người Hà Nội đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH Thủ đô trong giai đoạn hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là nguồn lực con người và phát triển nguồn lực con người ở thành phố Hà Nội trong quá trình CNH, HĐH Thủ đô. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Giới hạn nghiên cứu của luận án là nguồn lực con người tại Hà Nội, bao gồm không chỉ nguồn lực con người trong phạm vi quản lý của chính quyền Hà Nội, mà gồm cả những người đang sống, học tập và làm việc trên địa bàn Thủ đô. 3 - Về phương diện địa lý, địa bàn Thủ đô trong luận án này được hiểu là Thành phố Hà Nội đã mở rộng địa giới hành chính, gồm cả tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh, Vĩnh Phúc và bốn xã thuộc huyện Lương Sơn, Hòa Bình. - Thời gian nghiên cứu và khảo sát đối tượng được xác định là từ năm 2000 trở lại đây, nhất là trong những năm gần đây khi Hà Nội được mở rộng. Những phân tích lý luận và thực tiễn đôi khi có đề cập đến những thời điểm xa hơn, sớm hơn, chủ yếu là do lôgic của vấn đề đòi hỏi. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về con người, về nguồn lực con người, phát triển nguồn lực con người trong quá trình phát triển xã hội nói chung, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng. Ngoài ra luận án còn kế thừa kết quả nghiên cứu đạt được của một số công trình khoa học của các tác giả đi trước có liên quan đến đề tài. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu, phân tích vấn đề. Trong luận án, các phương pháp được sử dụng là lịch sử và lôgic, quy nạp và diễn dịch, phân tích và tổng hợp, đối chiếu so sánh, xử lý tài liệu thứ cấp, sử dụng số liệu thống kê, số liệu của các đề tài nghiên cứu khác về nguồn lực con người... Ngoài ra, do yêu cầu của sự phân tích nguồn lực con người, trong luận án ở một số nội dung thích hợp, chúng tôi cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu có tính chất liên ngành. 5. Đóng góp về mặt khoa học của luận án Luận án góp phần hệ thống hóa và làm rõ thêm một số nội dung lý luận về nguồn lực con người, phát triển nguồn lực con người, vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Luận án đã mô tả và phân tích được thực trạng nguồn lực con người và sự phát triển nguồn lực con người tại Thành phố Hà Nội hiện nay; Chỉ ra được những thành 4 tựu, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó trong việc phát triển nguồn lực con người Hà Nội thời gian qua; Đề xuất quan điểm định hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn lực con người Hà Nội đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô trong thời gian tới. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở nghiên cứu, đào tạo triết học và một số ngành khoa học xã hội khác về nguồn lực con người, phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án Luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan hoạch định chính sách, các cấp chính quyền của Thành phố Hà Nội trong việc quản lý và hoạch định chiến lược và chính sách liên quan đến vấn đề phát triển nguồn lực con người của Thành phố hiện nay. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 10 tiết. 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 1.1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận về nguồn lực con người, phát triển nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa Nguồn lực con người không chỉ là nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, mà sự phát triển của mỗi quốc gia còn được đo bằng chính bản thân mức độ phát triển nguồn lực con người. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới đều rất coi trọng phát triển nguồn lực con người. Đây cũng là vấn đề luôn thu hút nhiều nhà khoa học, nhiều nhà nghiên cứu của Việt Nam cũng như trên thế giới trên nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau quan tâm nghiên cứu. Đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu, luận giải với các góc độ và phương pháp tiếp cận khác nhau về nguồn lực con người, phát triển nguồn lực con người, vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong số các công trình nghiên cứu về vấn đề này, có thể khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình tiêu biểu sau đây: Cuốn Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa của GS.VS. Phạm Minh Hạc, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2001, là thành quả nghiên cứu trong hơn 10 năm của tác giả. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện chiến lược con người với tư tưởng coi nhân tố con người, phát triển con người, nguồn lực con người có ý nghĩa quyết định đối với việc sáng tạo vật chất và tinh thần; trình bày mối quan hệ giữa giáo dục đào tạo, sử dụng và tạo việc làm với phát triển nguồn nhân lực đất nước; từ đó tác giả đề xuất và kiến nghị về chiến lược và chính sách nhằm phát triển toàn diện con người và nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt đáng chú ý trong cuốn sách này, tại chương V, tác giả đã đưa ra khái niệm nguồn nhân lực. Theo tác giả, nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao động được chuẩn bị (ở một mức độ khác nhau, 6 sẵn sàng tham gia một công việc nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng, hay khả năng nói chung), bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khái niệm này được đặt cạnh các khái niệm tương ứng khác, như khái niệm nguồn lao động, đội ngũ lao động và vốn con người. Theo tác giả, nói đến nguồn nhân lực là nói đến số lượng và chất lượng nguồn nhân lực. Cũng ở đây, trong cuốn sách này, tác giả còn đề cập đến một vấn đề cơ bản của nguồn nhân lực, đó là quản lý và phát triển nguồn nhân lực, theo đó, phát triển nguồn nhân lực phải bám sát yêu cầu của thị trường lao động [52]. Sách Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương, Nxb Khoa học xã hội, 2004. Đây là công trình nghiên cứu của các chuyên gia thuộc Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương. Trong công trình nghiên cứu này, tiếp cận vấn đề chủ yếu dưới góc độ kinh tế, các tác giả đã đưa ra và phân tích quan niệm về nguồn nhân lực, quản lý nguồn nhân lực; phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam và tình hình quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam trong thời gian qua; chỉ ra một số vấn đề cần quan tâm để quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam tốt hơn, hiệu quả hơn trong những năm tiếp theo. Sách Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn, do GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, PGS.TS. Nguyễn Thế Nghĩa, PGS.TS. Đặng Hữu Toàn đồng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, 2002. Đây là cuốn sách tập hợp nhiều bài viết, công trình nghiên cứu của nhiều tác giả và được chia làm sáu phần. Phần hai của cuốn sách là tập hợp các bài viết đề cập đến vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa với việc phát triển con người, tạo nguồn nhân lực. Trong phần này đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu đề cập tới vai trò của nguồn lực con người, giải pháp phát triển nguồn lực con người. Tác giả Nguyễn Ngọc Sơn, trong bài viết Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, khi đề cập đến vai trò của nguồn nhân lực đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đã cho rằng: “Thực tiễn cho thấy, sự phát triển kinh tế - xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện nhưng chủ 7 yếu nhất vẫn là phụ thuộc vào con người. Điều khẳng định trên lại càng đúng với hoàn cảnh nước ta trong giai đoạn cách mạng đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. So sánh các nguồn lực với tư cách là điều kiện, tiền đề để phát triển đất nước và tiến hành CNH, HĐH thì nguồn nhân lực có vai trò quyết định” [16, tr.311]. Tác giả Nguyễn Thế Nghĩa, trong bài viết Nguồn nhân lực - động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cũng luận giải vai trò của nguồn nhân lực đối với CNH, HĐH ở hai góc độ, một là, nguồn nhân lực với tư cách là chủ thể của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hai là, nguồn nhân lực với tư cách là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [16, tr.142]; đồng thời tác giả cũng đề xuất năm nhiệm vụ cấp bách cần phải thực hiện để phát triển nguồn nhân lực. Một là, cơ cấu bố trí lại lực lượng lao động một cách hợp lý theo hướng đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra những ngành kinh tế mũi nhọn; Hai là, cần đầu tư đúng và đủ vốn cho giáo dục, đào tạo và khoa học - công nghệ, đồng thời quản lý, sử dụng số vốn này đúng mục đích và có hiệu quả; Ba là, trả lương đúng và đủ cho người lao động, trong đó chú ý đúng đến đội ngũ cán bộ khoa học, bởi theo tác giả, nếu không khắc phục sớm tình trạng này thì chúng ta vẫn không thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn “lương thấp - làm việc ít - lương thấp...”; Bốn là, đào tạo và bồi dưỡng lại lực lượng lao động hiện có và đào tạo lực lượng lao động mới theo chuyên môn, nghề nghiệp nhất định; Năm là, tiến hành một cách thường xuyên, đồng bộ hoạt động giáo dục đối với người lao động về các mặt: chính trị - tư tưởng, lợi ích, đạo đức, ý thức pháp luật [16]. Tác giả Phạm Văn Đức, trong bài viết Về vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khi lý giải về vai trò của nguồn lực con người đã nhấn mạnh rằng, phải đặt nó trong mối quan hệ với các nguồn lực hiện có, và khi đó vai trò của nguồn lực con người được thể hiện vừa với tư cách là chủ thể vừa với tư cách là khách thể của quá trình kinh tế - xã hội [16]. Tác giả Đặng Hữu Toàn, trong bài viết Phát triển nguồn lực con người cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở đẩy mạnh giáo dục - đào tạo, đã nhấn mạnh rằng, khi nguồn lực con người là yếu tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc, thì phát triển giáo dục - đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định chất lượng con người, là nền tảng của chiến lược con người. Do vậy, cần phải phải tạo ra 8 sự chuyển biến căn bản, toàn diện về giáo dục - đào tạo, lấy đó làm điều kiện cơ bản, làm phương tiện chủ yếu để phát huy nguồn lực con người [16]. Sách Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã hội của GS.TS. Bùi Văn Nhơn, Nxb Tư pháp, 2004. Trong cuốn sách này, tác giả đã đi sâu phân tích về dân số; nguồn nhân lực và đặc điểm nguồn nhân lực Việt Nam; phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực xã hội; tổ chức tiền lương và bảo hiểm xã hội; phân bố dân cư và nguồn nhân lực xã hội. Đặc biệt trong cuốn sách này, tác giả đã đưa ra các khái niệm như: nguồn nhân lực xã hội, nguồn nhân lực doanh nghiệp, phát triển nguồn nhân lực; đồng thời tác giả cũng phân tích vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Về khái niệm phát triển nguồn nhân lực, tác giả cho rằng: “Phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng cho nguồn nhân lực (trí tuệ, thể chất và phẩm chất tâm lý xã hội) nhằm đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển” [68, tr.98]. Có thể nói, đây là cuốn sách có giá trị tham khảo trong việc nghiên cứu về nguồn nhân lực cũng như trong việc chỉ đạo thực tiễn phát triển và quản lý nguồn nhân lực. Sách Nguồn nhân lực và nhân tài cho phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam trong tiến trình đổi mới - những vấn đề lý luận, do GS.TS. Nguyễn Ngọc Phú chủ biên, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2010. Đây là cuốn sách tập hợp các bài viết nghiên cứu của các tác giả tham gia đề tài khoa học cấp Nhà nước, mã số KX.02.24/06-10, thuộc chương trình Khoa học và Công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước KX.02/06-10 mang tên “Quản lý phát triển xã hội trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam”. Trong cuốn sách này có ba bài viết của ba tác giả đề cập đến khái niệm nguồn nhân lực, vai trò của nguồn nhân lực đối với sự nghiệp CNH, HĐH và phát triển của đất nước: Tác giả Nguyễn Ngọc Phú, trong bài Những nội dung chủ yếu trong nghiên cứu nguồn nhân lực, nhân tài cho phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội của đất nước hiện nay đưa ra quan niệm về nguồn nhân lực, theo tác giả: “nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lực con người (không phải là nguồn vốn đất, tư liệu sản 9 xuất...), nguồn lao động, là tổng thể các tiềm năng lao động của một đất nước hay một địa phương, một tổ chức, là con người đáp ứng đòi hỏi của xây dựng xã hội trong một giai đoạn nào đó sẵn sàng tham gia một công việc nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói chung), bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng được xác định” [70, tr.9]. Cũng trong cuốn sách này, PGS. TSKH Trịnh Thị Kim Ngọc có bài Vấn đề nguồn nhân lực ở nước ta: một số quan điểm lý luận và những thách thức trong công cuộc đổi mới. Tác giả cũng cho rằng: “Nguồn nhân lực trước hết được hiểu là tổng thể những tiềm năng lao động của xã hội, là tài nguyên quan trọng nhất, cơ bản nhất của mỗi quốc gia, là yếu tố năng động nhất và quyết định nhất của lực lượng sản xuất” [70, tr.187]. Về vai trò của nguồn nhân lực đối với sự phát triển, tác giả cho rằng, vốn, nguyên liệu, công nghệ, nguồn nhân lực và thể chế pháp lý là năm yếu tố cơ bản đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của các quốc gia, nhưng trong đó, nguồn lực con người hay nguồn nhân lực luôn được coi là yếu tố quan trọng nhất. “Điều đó nhận ra không khó khăn bởi chỉ có con người - nhân tố duy nhất có khả năng điều phối và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn còn lại để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Chính vì vậy, nguồn nhân lực luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi thể chế nhà nước trong mọi thời đại” [70, tr.186]. Cũng bàn về vai trò của nguồn nhân lực, nhân tài đối với phát triển xã hội, tác giả Trần Hữu Luyến, cũng trong cuốn sách này, có bài Phát hiện, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực, nhân tài cho phát triển xã hội. Tác giả cho rằng, “Xã hội phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố; các yếu tố này quan hệ qua lại phức tạp, chằng chịt, nhưng bao giờ yếu tố con người cũng nổi lên là yếu tố hàng đầu, quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định thành công hay thất bại. Nói chính xác hơn, sự phát triển xã hội trước hết và trên hết, giữ vị trí hàng đầu và có ý nghĩa quyết định chính là đội ngũ những người có năng lực, những người tài năng” [70, tr.236]. Sách Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam của TS. Đoàn Văn Khái, Nxb Lý luận chính trị, 2005. Đây là công trình nghiên cứu nhiều năm của tác giả về nguồn lực con người cả về mặt lý luận và thực tiễn. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã trình bày nội dung, đặc điểm và 10 tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay; phân tích vai trò của nguồn lực con người - yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; nêu lên thực trạng nguồn lực con người ở nước ta hiện nay, từ đó tác giả đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm khai thác và phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở Việt Nam. Về khái niệm nguồn lực con người, tác giả cho rằng: “nguồn lực con người là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người với tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển của xã hội” [60, tr.62]. Đặc biệt khi phân tích vai trò của nguồn lực con người đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tác giả đã dành một mục của chương hai để phân tích, lý giải nguồn lực con người là yếu tố quyết định sự nghiệp CNH, HĐH. Tác giả khẳng định: “Mặc dù có được nguồn lực tự nhiên như tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, hay cơ sở vật chất - kỹ thuật được tạo ra trong các giai đoạn trước đó, hoặc nguồn lực nước ngoài dưới dạng vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thị trường... thì xưa nay nguồn lực lâu bền nhất và quan trọng nhất trong sự phát triển của mọi quốc gia chỉ có thể là con người. Bởi lẽ, cho dù có đủ các nguồn lực khác mà không có những con người tương xứng, đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó và nếu không có một môi trường chính trị, kinh tế, xã hội, tâm lý và dư luận xã hội thuận lợi cho con người hành động thì vị tất đã có thể đạt được sự phát triển mong muốn. Nói cách khác, các nguồn lực cho quá trình CNH, HĐH đều quan trọng, nhưng xét đến cùng, nếu thiếu sự hiện diện của trí tuệ và lao động của con người thì mọi nguồn lực đều trở nên vô nghĩa, thậm chí ngay cả khái niệm “nguồn lực” cũng không còn lý do để tồn tại. Sự khẳng định này không chỉ nói lên vai trò quyết định của nguồn lực con người trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác, mà còn phản ánh một đặc điểm quan trọng hàng đầu của nó, đó là: nguồn lực con người là nguồn lực duy nhất mà nhờ nó, các nguồn lực khác mới phát huy được tác dụng và có ý nghĩa tích cực đối với quá trình CNH, HĐH. Với ý nghĩa đó, nguồn lực con người là yếu tố tất yếu, không thể thay thế được” [60, tr.80,81]. Tuy nhiên, khi nhấn mạnh vai trò quyết định của nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH, tác giả cũng cho rằng, không bao giờ được tuyệt đối hóa nó, không được tách nguồn lực con người 11 ra khỏi mối liên hệ hữu cơ với nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác, không đặt nó ở bên ngoài những điều kiện lịch sử - hiện thực. Có như vậy mới xem xét đúng đắn vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp CNH, HĐH nói riêng, trong sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước nói chung. Trong công trình này, tác giả cũng đã đề xuất và luận giải khá cặn kẽ các giải pháp phát huy nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Tác giả đề xuất ba nhóm giải pháp: Một là, nhóm giải pháp về khai thác hợp lý, có hiệu quả nguồn lực con người, trong đó, phải tạo nhiều việc làm cho người lao động; tổ chức lao động xã hội hợp lý, khai thác tốt năng lực người lao động. Hai là, nhóm giải pháp về phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, trong đó, tác giả cũng cho rằng giáo dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu để phát triển nguồn lực con người. Ba là, nhóm giải pháp về xây dựng môi trường xã hội thuận lợi, phục vụ cho việc khai thác, sử dụng và phát triển có hiệu quả nguồn lực con người, trong đó cần phải giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích. Sách Nâng cao hiệu quả quản lý nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước do GS. Phạm Thành Nghị chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 2007. Cuốn sách đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về nguồn nhân lực và quản lý nguồn nhân lực; phân tích hiệu quả quản lý nguồn nhân lực và những yếu tố tác động đến quản lý nguồn nhân lực nước ta trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đáng chú ý trong cuốn sách này, tác giả Phạm Thành Nghị đã đưa ra định nghĩa về nguồn lực con người, theo đó: “Nguồn lực con người là tổng thể các tiềm năng của một tổ chức, một địa phương, một quốc gia trong thể thống nhất hữu cơ năng lực xã hội (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động xã hội của con người, nhóm người, tổ chức, địa phương, vùng, quốc gia. Tính thống nhất đó được thể hiện ở quá trình biến đổi nguồn lực con người thành vốn người đáp ứng yêu cầu phát triển” [66, tr.16]. Theo quan niệm này của tác giả, nguồn lực con người khác đáng kể và không bao hàm vốn con người. Sách Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế do PGS.TS. Vũ Văn Phúc và TS. Nguyễn Duy Hùng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, 2012. Cuốn sách được hình thành trên cơ sở biên soạn 12 các tham luận tham gia Hội thảo ngày 24/8/2012, do Tạp chí Cộng sản và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia đồng tổ chức. Cuốn sách được chia làm ba phần, có giá trị tham khảo lớn trong việc nghiên cứu và phát triển nguồn nhân lực. Trong phần một của cuốn sách: Những vấn đề chung về phát triển nguồn nhân lực, có hai tác giả đã trình bày một số khái niệm cơ bản về nhân lực, nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực, vai trò của nguồn nhân lực đối với sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế: Tác giả Vũ Văn Phúc, trong bài viết Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, đã cho rằng, phát triển nguồn nhân lực là sự biến đổi về số lượng và chất lượng trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nhân lực. Nội dung phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam, theo tác giả, cần tập trung bốn vấn đề: Thứ nhất, gia tăng về số lượng nhân lực có trình độ chuyên môn, nghề nghiệp; thứ hai, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; thứ ba, chuyển dịch cơ cấu nhân lực theo hướng tiến bộ; thứ tư, phát huy một số tố chất tích cực tiêu biểu của nhân lực Việt Nam [71, tr.11,12]. Khi bàn về vai trò của nguồn nhân lực, tác giả cho rằng, chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của xã hội nói chung, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng, thể hiện trên các phương diện: một là, trong tất cả các nguồn lực phát triển kinh tế, thì nguồn lao động luôn luôn đóng vai trò quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế; hai là, nguồn nhân lực có chất lượng là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ba là, nguồn nhân lực có chất lượng là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh sự nghiệp nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm phát triển bền vững [71, tr.12,13]. Cũng trong phần một của cuốn sách này, khi bàn về chất lượng nguồn nhân lực, tác giả Trần Đăng Thịnh có bài Bàn về chất lượng nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao. Tác giả cho rằng: Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện thông qua một hoặc hai yếu tố chủ yếu là: trí lực (trình độ chuyên môn, óc sáng tạo, tinh thần, thái độ làm việc, phẩm chất đạo đức, tác phong nghề nghiệp...) 13 và thể lực (sức khỏe, tầm vóc, độ dẻo dai...) [71,tr.99]. Thể lực, theo tác giả, là “năng lực thể chất của nguồn nhân lực, đây là tiêu chí rất quan trọng về chất lượng nguồn nhân lực, thường bao gồm tiêu chí về tình trạng sức khỏe của con người như: chiều cao, cân nặng, bệnh tật, tuổi thọ, trạng thái thoải mái về thể chất lẫn tinh thần và xã hội của con người” [71, tr.99,100]. Trí lực biểu hiện ở trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động, tinh thần, thái độ, tác phong làm việc... Đây là tiêu chí có vai trò rất quan trọng trong đánh giá chất lượng nguồn nhân lực [71, tr.101]. Sách Viện nghiên cứu con người: một số kết quả nghiên cứu do PGS.TSKH Lương Đình Hải, PGS.TS Mai Quỳnh Nam đồng chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 2014. Đây là cuốn sách tập hợp nhiều công trình nghiên cứu trong nhiều năm của các cán bộ thuộc Viện nghiên cứu con người. Trong cuốn sách này, tác giả Lương Đình Hải có bài viết Xây dựng nguồn nhân lực lao động chất lượng cao, đã luận giải về tính tất yếu của việc xây dựng nguồn lực lao động chất lượng cao; nội dung của việc xây dựng nguồn lực lao động chất lượng cao hiện nay. Khi luận giải tính tất yếu của việc xây dựng nguồn lực lao động chất lượng cao, tác giả đã làm rõ vai trò của nguồn nhân lực trong mối quan hệ với nguồn lực thể chế, nguồn lực tự nhiên, nguồn lực tài chính. “Muốn phát triển quốc gia cần có các yếu tố như thể chế, quan hệ sản xuất tiên tiến, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự, kinh tế thị trường... Đương nhiên, các yếu tố ấy đều đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của các quốc gia đương đại. Nếu nhìn từ góc độ các yếu tố bên trong, nội bộ quốc gia, thì đó là những yếu tố có tính quyết định. Nếu xét từ góc độ nguồn lực thì đó là những nguồn lực của phát triển, có thể gọi là nguồn lực thể chế, bên cạnh các nguồn lực tự nhiên, nguồn lực con người, nguồn lực tài chính. Nhưng chúng không thể thể hiện vai trò của mình, thậm chí không thể hiện hữu sức mạnh của mình, nếu thiếu yếu tố con người, hay nói cách khác, là thiếu nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao” [53, tr.170]. Đặc biệt, khi luận giải về ba “điểm nghẽn”, ba nút “thắt cổ chai” là kết cấu hạ tầng yếu kém, thể chế kinh tế thị trường còn nhiều bất cập và chất lượng nguồn nhân lực quá thấp gây trở ngại cho sự tăng trưởng và làm ảnh hưởng tới sự phát triển chung của Việt Nam trong những năm 14 đổi mới, tác giả cho rằng: “Xét đến cùng thì điểm nút của cả ba “điểm nghẽn, thắt cổ chai” đó chính là nguồn nhân lực. Thể chế là do con người xác lập, kết cấu hạ tầng là do con người quy hoạch và tạo dựng. Nguồn nhân lực như thế nào thì trực tiếp hoặc gián tiếp thể chế và kết cấu hạ tầng như thế. “Tầm nhìn” và hướng phát triển của nguồn nhân lực sẽ quy định cả thể chế lẫn kết cấu hạ tầng trong tương lai. Không có nguồn nhân lực đảm bảo chất lượng thì không thể giải quyết được vấn đề thể chế và kết cấu hạ tầng” [53, tr.171]. Cách luận giải của tác giả cũng cho thấy rằng, vai trò của nguồn lực con người là quan trọng nhất, quyết định sự phát triển của đất nước. Sách Những chuyên đề triết học của PGS.TS Nguyễn Thế Nghĩa, Nxb Khoa học xã hội, 2007. Đây là kết quả của công trình nghiên cứu nhiều năm của tác giả. Cuốn sách gồm 14 chuyên đề, được sắp xếp theo lôgíc bên trong của bản thân tri thức triết học. Trong chuyên đề thứ 13 Học thuyết về con người và phát triển nguồn nhân lực, tác giả đã đề cập đến các quan niệm trong lịch sử về con người, đặc biệt là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người; đề cập những nội dung cơ bản về phát triển nguồn nhân lực, như khái niệm nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực, thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay, những giải pháp phát triển nguồn nhân lực. Theo tác giả, “nguồn nhân lực là khái niệm chỉ những thế hệ tiếp nối nhau của những “con người - chủ thể” với những phẩm chất nhất định (thể lực, trí lực, nhân cách) đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [67, tr.630]. Còn phát triển nguồn nhân lực, theo tác giả, “là quá trình tạo ra sự tăng trưởng về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực; đồng thời, nâng cao hiệu quả sử dụng chúng để đáp ứng ngày càng tốt hơn sự phát triển bền vững của đất nước” [67, tr.632]. Như vậy, theo tác giả, nội dung phát triển nguồn nhân lực bao gồm: phát triển nguồn nhân lực về số lượng, phát triển nguồn nhân lực về mặt chất lượng và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực. Về giải pháp phát triển nguồn nhân lực, tác giả đề xuất sáu giải pháp: Một là, tổ chức, bố trí lại lực lượng lao động trên phạm vi cả nước; hai là, đổi mới triệt để hệ thống giáo dục, đào tạo; ba là, đẩy mạnh phát triển khoa học - công nghệ; bốn là, thực hiện chế độ lương hợp lý; năm là, đẩy mạnh giải quyết việc làm, và sáu là, đấu tranh chống tham nhũng. Đây là 15 cuốn sách thực sự hữu ích trong việc nghiên cứu triết học nói chung, và nghiên cứu nguồn nhân lực nói riêng. Sách Giáo trình nguồn nhân lực của PGS.TS Nguyễn Tiệp, Nxb Lao động xã hội, 2011. Trong cuốn sách này, tác giả đi sâu vào phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn của nguồn nhân lực trên bình diện vĩ mô theo hệ thống các yếu tố cấu thành; đặc điểm và các nhân tố tác động đến số lượng, chất lượng, cơ cấu nguồn nhân lực; đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy sự hoàn thiện và phát triển nguồn nhân lực. Về khái niệm nguồn nhân lực, tác giả cho rằng, trước hết với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, ở nghĩa rộng nhất thì nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có khả năng lao động, không phân biệt người đó đang được phân bổ vào ngành nghề, lĩnh vực, khu vực nào và có thể coi đây là nguồn nhân lực xã hội. Với tư cách là khả năng đảm đương lao động chính của xã hội thì nguồn nhân lực được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động (do pháp luật lao động quy định) [86, tr.7,8]. Như vậy, theo tác giả, dù có các biểu hiện khác nhau nhưng nguồn nhân lực của quốc gia phản ánh các đặc điểm sau: nguồn nhân lực là nguồn lực con người; nguồn nhân lực là bộ phận của dân số, gắn với cung lao động; nguồn nhân lực phản ánh khả năng lao động của một xã hội. Về chất lượng nguồn nhân lực, tác giả quan niệm rằng, chất lượng nguồn nhân lực là khái niệm tổng hợp về những người thuộc nguồn nhân lực được thể hiện ở các mặt sau: Sức khỏe; trình độ văn hóa; trình độ chuyên môn kỹ thuật; năng lực thực tế về tri thức, kỹ năng nghề nghiệp; tính năng động xã hội; phẩm chất đạo đức, tác phong, thái độ đối với công việc và môi trường làm việc; hiệu quả hoạt động lao động của nguồn nhân lực; thu nhập, mức sống và mức độ thỏa mãn nhu cầu cá nhân của người lao động [86, tr.9,10]. Để phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực trình độ cao, tác giả đề xuất bốn giải pháp, một là, xây dựng thống nhất tiêu chuẩn đánh giá nhân lực trình độ cao; hai là, hoàn thiện chính sách khuyến khích đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, kỹ thuật đối với nhân lực trình độ cao; ba là, thực hiện cơ chế phát hiện nhân tài 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan