Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phong tục dựng nhà của các tộc người thuộc nhóm nam đào ở tây nguyên việt nam...

Tài liệu Phong tục dựng nhà của các tộc người thuộc nhóm nam đào ở tây nguyên việt nam

.PDF
79
677
112

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- MARIA ZELENKOVA PHONG TỤC DỰNG NHÀ CỦA CÁC TỘC NGƯỜI THUỘC NHÓM NAM ĐẢO Ở TÂY NGUYÊN VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÂU Á HỌC MÃ SỐ: 60 31 50 HÀ NỘI 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- MARIA ZELENKOVA PHONG TỤC DỰNG NHÀ CỦA CÁC TỘC NGƯỜI THUỘC NHÓM NAM ĐẢO Ở TÂY NGUYÊN VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÂU Á HỌC MÃ SỐ: 60 31 50 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS MAI NGỌC CHỪ HÀ NỘI 2012 MỤC LỤC TRANG Mở đầu 3 1. Lý do chọn đề tài 3 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 4 4. Mục đích nghiên cứu 5 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 6 6. Phương pháp nghiên cứu 6 7. Bố cục của luận văn 6 Chƣơng 1: Sơ lƣợc về các tộc ngƣời nhóm Nam Đảo ở Tây Nguyên 8 1.1. Đôi nét về nhóm Nam Đảo ở Đông Nam Á 8 1.2. Nhóm Nam Đảo ở Tây Nguyên 17 1.2.1. Lịch sử hình thành 18 1.2.2. Địa bàn phân bố, dân số 23 1.2.3. Đời sống vật chất 25 1.2.4. Một số nét văn hoá tiêu biểu 29 1.2.5. Nhà trong quan niệm của các tộc người nhóm Nam Đảo 33 Chƣơng 2: Một số thủ tục liên quan đến việc làm nhà 37 2.1. Chọn đất 37 2.2. Chọn hướng nhà 39 2.3. Chọn ngày, giờ 42 2.4. Chọn gỗ 45 2.5. Một số nghi lễ liên quan đến việc làm nhà 51 2.5.1. Lễ tìm được đất dựng nhà 51 2.5.2. Lễ tẩy uế gỗ 52 2.5.3. Lễ động thổ (đóng cọc nhà) 52 2.5.4. Lễ cúng tổ phụ gia đình và Lễ cúng tổ sư nghề 55 1 2.5.5. Lễ dựng nhà 55 2.5.6. Lễ khánh thành nhà mới 56 2.5.7. Lễ dựng táo quân (đặt bếp) 57 2.5.8. Lễ dựng cửa ngõ 57 Chƣơng 3: Cấu trúc nhà 59 3.1. Cấu trúc nhà cộng đồng 59 3.1.1. Nhà rông 59 3.1.2. Các nhà cộng đồng khác 61 3.2. Cấu trúc nhà ở 64 Kết luận 72 Tài liệu tham khảo 77 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nằm giữa bán đảo Đông Dương, Tây Nguyên là một cao nguyên rộng lớn ở Tây - Nam Trung Bộ; là vùng chiến lược cực kỳ quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng; là cầu nối giữa hai miền Nam - Bắc. Thêm nữa, Tây Nguyên cũng có thể coi là một trong những trung tâm văn hóa lớn của Đông Nam Á. Cho đến nay, xã hội của các tộc người Tây Nguyên vẫn còn mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của tổ tiên. Điều đó được thể hiện ở nhiều bình diện như cách thức sản xuất, nhà cửa, trang phục, đồ ăn, thức uống, phương thức vận chuyển và đi lại, quan hệ trong gia đình, nghệ thuật... Nghiên cứu các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên, người ta không thể không nhắc đến nhóm Nam Đảo (hay còn gọi là nhóm Chàm), bao gồm các tộc người Ê-đê, Chăm, Gia-rai, Ra-glai và Chu-ru. Từ lâu các tộc người này đã có sự giao thoa văn hóa lẫn nhau mà một trong những biểu hiện của sự giao thoa ấy chính là những tương đồng về các phong tục xây dựng nhà, kiến trúc nhà cộng đồng và nhà ở. Bị lôi cuốn bởi những nét độc đáo trong phong tục dựng nhà và cấu trúc nhà của các tộc người thuộc nhóm Nam Đảo ở Tây Nguyên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu “Phong tục dựng nhà của các tộc người thuộc nhóm Nam Đảo ở Tây Nguyên Việt Nam”. 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là các phong tục liên quan đến việc dựng nhà của các tộc người nhóm Nam Đảo. Phạm vi nghiên cứu là 5 tộc người Nam Đảo ở Việt Nam. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3 Nhóm Nam Đảo nói chung và các tộc người Nam Đảo ở Việt Nam nói riêng có vai trò cực kì quan trọng, là một trong những mảng đề tài hàng đầu được các nghiên cứu dân tộc học, ngôn ngữ học, văn hoá học, khu vực học, …đặc biệt quan tâm. Vấn đề phong tục tập quán của nhóm Nam Đảo đã được một số tác giả và tập thể tác giả trong giới sử học, dân tộc học, văn hoá học nghiên cứu ở những góc độ, khía cạnh khác nhau. Việc nghiên cứu các tộc người Tây Nguyên (trong đó có cả các tộc người nhóm Nam Đảo) đã trải qua quá trình lâu dài hàng thế kỷ trước đây, trước nhất là từ các học giả hay các viên quan cai trị người Pháp, với các tên tuổi nổi tiếng, như J.Dournes, Henry Maitre, G.Condominas… Cuốn “Người Ê-đê: một xã hội mẫu quyền” của Anne de Hautecloque - Howe đánh dấu sự mở đầu quan tâm cụ thể đến nhóm tộc người Nam Đảo ở Việt Nam. Bà Anne de Hautecloque - Howe đại diện cho nhóm học giả thế hệ thứ hai nghiên cứu về Tây Nguyên. Đặc trưng nổi bật trong việc nghiên cứu của bà là việc nghiên cứu thực tế: bà đã sống và làm việc ở Đắc Lắc, thu tập tài liệu có giá trị thực tế. Từ đó nhiều học giả thế hệ sau rút ra cách thức nghiên cứu và tiếp tục sự nghiệp to lớn của bà. Đánh dấu nghiên cứu phong tục dựng nhà của người nhóm Nam Đảo ở Tây Nguyên Việt Nam là cuốn sách của học giả Nguyễn Văn Luận có tên “Nhà người Chăm”. Đây là cuốn sách thu thập những thông tin cơ bản nhất về kiến trúc, phong tục xây dựng và các thủ tục liên quan đến việc dựng nhà của người Chăm. Cuốn “Nghề thủ công truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên” của Linh Nga Niê Kdam là tài liệu rất có giá trị đối với người nghiên cứu về phong tục dựng nhà của các tộc người ở Tây Nguyên Việt Nam. Cuốn sách này thu thập và giới thiệu về những nghề truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên, trong đó việc dựng nhà được xem xét như nghề hàng đầu trong nền văn hóa tộc người thiểu số. Trong tác phẩm“Nhà ở của người Chăm Ninh Thuận” tác giả Lê Duy Đại xem xét cụ thể phong tục dựng nhà của người Chăm Ninh Thuận. Tác phẩm này rất có giá trị vì trong đó tác giả thu tập và miêu tả rất rõ phần lớn các nghi lễ và thủ tục liên quan 4 đến việc dựng nhà của người Chăm cũng như đưa ra những hình ảnh rõ ràng về kiến trúc nhà truyền thống Chăm. Cuốn “Kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam” của Chu Quang Trứ đã trở thành cơ sở trong việc nghiên cứu đề tài phong tục dựng nhà của người nhóm Nam Đảo ở Tây Nguyên Việt Nam. Cuốn sách phản ánh sự đa dạng và bản sắc riêng biệt của kiến trúc các kiểu nhà ở và nhà cộng đồng của nhiều tộc người Việt Nam, trong đó, tác giả chú ý đặc biệt đến nhà Rông Gia-rai, nhà dài Ê-đê, nhà sàn Chăm. Phong tục dựng nhà của các dân tộc Nam Đảo đã ít nhiều trở thành chủ thể nghiên cứu trong những cuốn như “Văn hóa Việt Nam: nhìn từ Mỹ thuật”của Chu Quang Trứ , “Hỏi đáp về 54 dân tộc Vịet Nam” của Đặng Việt Thủy, “Tây Nguyên: vùng đất và con người” của Đinh Văn Thiên, “Văn hóa xã hội và con người Tây Nguyên” của Nguyễn Tấn Đắc và nhiều tác phẩm khác. Những tài liệu được công bố nói trên luôn là những tài liệu quan trọng giúp chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu và hoàn thành luận văn “Phong tục dựng nhà của các tộc người thuộc nhóm Nam Đảo ở Tây Nguyên Việt Nam”. 4. Mục đích nghiên cứu Với đề tài Phong tục dựng nhà của các tộc người thuộc nhóm Nam Đảo ở Tây Nguyên Việt Nam, chúng tôi muốn nêu bật những đặc trưng văn hoá của các tộc người Nam Đảo Tây Nguyên trong việc xây dựng nhà cửa, từ đó góp phần làm sáng tỏ giá trị và bản sắc văn hoá của các tộc người Nam Đảo ở Tây Nguyên trong cộng đồng văn hoá Việt Nam. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài hướng vào 3 nhiệm vụ trọng yếu như sau: - Tìm hiểu những thủ tục liên quan đến việc làm nhà (chọn ngày giờ, hướng nhà, chọn gỗ, …); - Miêu tả cấu trúc của hai loại nhà chủ yếu: nhà cộng đồng và nhà ở; - Chỉ ra những tương đồng và khác biệt trong việc dựng nhà của các tộc người thuộc nhóm Nam Đảo Tây nguyên. 5 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện được các nhiệm vụ nêu trên và đạt được mục tiêu đề ra ở đề tài này, em chủ yếu sử dụng phương pháp miêu tả và phương pháp so sánh - đối chiếu. Trong quá trình thu thập tài liệu, ngoài việc đọc sách, em đã đi đến một số nơi cư trú của người Ê-đê ở Buôn Ma Thuột và người Chăm ở Ninh Thuận. Em cũng đã đi thăm các tháp Chàm nổi tiếng như khu tháp Mỹ Sơn, tháp Cảnh Tiên, tháp Thủ Thiện, và từ đó em đã có thể kiểm chứng được những tài liệu mà em đã đọc và nghiên cứu để viết luận văn này. Còn chuyến đi Khánh Hòa và TP Hồ Chí Minh đã giúp em tìm hiểu thêm về nhà ở của người Chăm. Ở đồng bằng sông Cửu Long em đã được mời vào nhà của người Chăm để tham quan, và em đã tận mắt nhìn thấy khuôn viên nhà của người Chăm cũng như cách bố trí nơi ăn chốn ở của họ. 7. Bố cục của luận văn Luận văn này gồm có 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong phần mở đầu chúng tôi nói về lý do chọn đề tài, lịch sử, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, nêu ra những phương pháp nghiên cứu và bố cục của luận văn. Phần nội dung được chia làm ba chương: Chương 1: Sơ lược về các tộc người nhóm Nam Đảo ở Tây Nguyên Chương 2: Một số thủ tục liên quan đến việc làm nhà Chương 3: Cấu trúc nhà Phần kết luận khái quát một số đặc điểm tiêu biểu về thủ tục và cấu trúc nhà của các tộc người nhóm Nam Đảo Tây Nguyên và nêu ra những tương đồng và khác biệt về thủ tục và cấu trúc nhà của các tộc người nhóm Nam Đảo ở Tây Nguyên. Như vậy, công trình này hướng vào việc nghiên cứu những đặc trưng nổi bật trong phong tục dựng nhà của các tộc người thuộc nhóm Nam Đảo ở Việt Nam. 6 Chƣơng 1: SƠ LƢỢC VỀ CÁC TỘC NGƢỜI NHÓM NAM ĐẢO Ở TÂY NGUYÊN 1.1 . Đôi nét về nhóm Nam Đảo ở Đông Nam Á Đông Nam Á là một vùng văn hóa giàu có, phong phú và riêng biệt. Nếu xét theo bản đồ chính trị hiện đại, Đông Nam Á có 11 nước: Myanmar, Thái Lan, Việt Nam, Lào, Campuchia, Malaysia, Singapore, Indonesia, Philippin, Brunei, Đông Timor. Nhưng nếu xét theo bản đồ văn hóa – tộc người, thì khu vực Đông Nam Á rộng hơn. Nó bao gồm vùng Nam Trung Quốc, vùng Đông Bắc Ấn Độ, thậm chí các quần đảo ở Thái Bình Dương, và cả Madagascar, v.v… Đông Nam Á là khu vực có chữ viết muộn, chủ yếu là mượn từ nguồn chữ Hán và các văn tự Ấn Độ. Việc nghiên cứu các ngôn ngữ ở Đông Nam Á chỉ thực sự được bắt đầu từ khi có sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Các học giả phương Tây khi nghiên cứu các ngôn ngữ ở Đông Nam Á thường tập trung vào hai nội dung chính là miêu tả các ngôn ngữ cụ thể và biên soạn các sách công cụ. Họ cũng đã sử dụng phương pháp so sánh ngôn ngữ học lịch sử để tìm ra các mối quan hệ thân thuộc giữa các ngôn ngữ. Nhìn chung, sự phân loại các ngôn ngữ ở Đông Nam Á là công việc khó khăn. Hiện nay theo các học giả ở Đông Nam Á có 4 ngữ hệ chủ yếu [19, tr. 100]: 1. Ngữ hệ Nam Á 2. Ngữ hệ Thái 3. Ngữ hệ Nam Đảo (có người gọi là Malayô – Pôlinêdia) 4. Ngữ hệ Hán – Tạng Bắt nguồn từ sự phân chia theo ngữ hệ, các nhà khoa học cũng dùng cách phân chia này để phân loại các tộc người theo các nền văn hóa cơ bản. Như vậy, nhóm Nam Đảo không chỉ là nhóm của các tộc người nói những ngôn ngữ cùng một ngữ hệ, mà còn là một vùng văn hóa chung. Các tộc người thuộc nhóm Nam Đảo (Austronesian) hay Mã Lai - Đa Đảo (Malayo - Polynesian) tập trung đông nhất ở các nước Philippin, Indonesia, Malaysia, 7 một số ở Campuchia, Việt Nam và Singapore. Nhóm Nam Đảo ở Việt Nam bao gồm 5 tộc người (và 5 ngôn ngữ của các tộc người này): Gia-rai, Ê-đê, Chăm, Ra-glai, Churu. Đại diện cho nhóm Nam Đảo chủ yếu là người Mã Lai. Những nhóm cư dân ở phía Nam Đông Nam Á do lai tạp với nhiều thành phần cư dân khác nên không điển hình bằng, và do đó, người ta có xu hướng tách riêng họ thành nhóm Nam Đảo (Austronesian). Theo Từ điển Larousse du 20e siècle (Larousse của thế kỷ XX), Nam Đảo chỉ tổng thể những vùng đất của châu Đại Dương, tức là các đảo lớn nằm trên Thái Bình Dương đến phía Nam của Đông Nam Á [16, tr. 47]. Đây là khu vực rộng lớn, có rất nhiều đảo, nên có nhiều nét văn hoá rất khác nhau. Về đặc điểm nhân chủng nhóm Nam Đảo (số với các nhóm tộc người khác) có những nét tiêu biểu: - Nước da sẫm hơn; - Pha trộn giống mạnh hơn. Các tộc người thuộc nhóm Nam Đảo nói một thứ tiếng phân bố rộng rãi từ Madagascar, qua bán đảo Mã Lai, Indonesia cho đến Hawaii. Nhóm ngôn ngữ châu Đại Dương của người Nam Đảo (Austronesian) thường gọi là tiếng Mã Lai – Đa Đảo (Malayo - Polynesian). Tiêu biểu là tiếng Mã Lai, Chăm, Ê-đê, Gia-rai, Đài Loan, Indonesia, Philippines, Micronesia, Melanesia, Polynesia [16, tr. 51]. Hai tên gọi Malayo – Polynesian và Austronesian (Nam Đảo) xem như đồng nghĩa. Ngữ hệ này bao gồm khoảng 200 tiếng nói cụ thể, chủ yếu ở các đảo, trải dài từ Đông Nam Á đến các quần đảo ở châu Đại Dương (thuộc Thái Bình Dương) về phía Đông, và hòn đảo Madagascar ở Đông Nam châu Phi về phía Tây. Những nơi và số người nói tiếng Malayo – Polynesian gồm có: Vùng Số tiếng nói Số người 1. Đài Loan 10 200 000 2. Philippin 70 40 000 000 3. Việt Nam + Campuchia 7 700 000 8 4. Madagascar 1 8 000 000 5. Indonesia, Malaysia, Brunei 300 130 000 000 6. Melanesia 350 1 200 000 7. Micronesia 12 200 000 8. Polynesia 20 700 000 770 181 000 000 Tổng cộng Nguồn: theo số liệu của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Ngoài những nước kể trên, còn có những nhóm cư dân khác cũng nói tiếng Malayo – Polynesian như: - Một nhóm nhỏ người nói tiếng Chăm ỏ đảo Hải Nam Trung Quốc; - Những cộng đồng nhỏ ở các vùng tiếp giáp với Thái Lan và Myanma; - Một số vùng trong quần đảo Melanesia: Papua New Guinea, các đảo Solomon, Vanuatu, New Caledonia, Fiji; - Một số vùng trong quần đảo Micronesia: Belau, Guam, Bắc Marianas, Federal State of Micronesia, các đảo Marshall, Kiribati, Nauru; - Một số vùng trong quần đảo Polinesia: Tuvalu, Tongo, Wallis và Futuna, Samoa, Tokelau, Nieu, Hawaii, French Polinesia, Cook Islands, New Zealand, Easter Island; - Và còn những người ngoại lai, cư dân ở ba quần đảo trên hoàn toàn nói tiếng Malayo – Polynesian. Tiếng Indonesia/Malaysia chủ yếu là ngôn ngữ Malayo – Polynesian, nhưng nó có hai vùng nói tiếng khác. Đó là tiếng Aslian thuộc Austro Asiatic (Nam Á) ở nội địa bán đảo Malaysia, và tiếng Papuan trên đảo New Guinea và một số đảo nhỏ ở phía Đông và Tây của nó [16, tr. 59]. Ở Việt Nam và Campuchia, những người nói tiếng Malayo – Polynesian là những nhóm thiểu số nhỏ như người Chăm, Ê-đê, Gia-rai, Ra-glai, Chu-ru nằm giữa những nhóm lớn nói tiếng Việt và tiếng Khmer. 9 Ở Đài Loan, người thổ dân nói tiếng Malayo – Polynesian. Còn cư dân hiện nay chủ yếu là người từ lục địa ra đảo từ 300 năm nay, nhất là từ năm 1949. Nghiên cứu so sánh các nhóm ngôn ngữ Malayo – Polynesian thì thấy: - Tiếng thổ dân Đài Loan còn giữ nhiều âm cổ thấy ở hầu hết các nhóm tiếng Malayo – Polynesian, nên có thể xem là nhóm cổ nhất, có thể gọi là tiếng Austronesian (Nam Đảo) đích thực. - Ngoài tiếng Đài Loan, các nhóm còn lại có thể gọi chung là Malayo – Polynesian (Mã Lai – Đa Đảo). - Nhóm các ngôn ngữ ở Melanesia, Micronesia và Polynesia trên các quần đảo ở Thái Bình Dương, được Dempwolff nêu ra đầu tiên, nay được gọi chung là tiếng Oceanic (tiếng châu Đại Dương) [16, tr. 59]. Những quốc gia mà tiếng nói chính thức là tiếng Malayo – Polynesian là Indonesia, Malaysia, Philippin, Singapore. Ở Malaysia có ba cộng đồng cư dân chính là Mã Lai, Hoa và Ấn (Tamil). Vì người Mã Lai là tộc người chủ thể lại có nguồn gốc bản địa, nên tiếng Mã Lai được xem là tiếng chính thức của quốc gia. Theo định nghĩa của Malaysia, người Mã Lai là người theo Islam (Hồi giáo) và nói tiếng Mã Lai. Singapore cũng xem tiếng Mã Lai là tiếng nói chính thức của quốc gia, nhưng trên thực tế thì tiếng Anh được sử dụng rộng rãi trong xã hội. Indonesia gồm nhiều cộng đồng cư dân có tiếng nói riêng nhưng đều thuộc về ngữ hệ Malayo – Polynesian. Các cộng đồng này có lịch sử lâu đời và nền văn hóa riêng như Jawa, Sunda, Batak, Minangkabau, Madura, Bali, v.v… Tiếng Mã Lai ở Indonesia và tiếng Mã Lai ở Malaysia về cơ bản là giống nhau. Sự khác nhau của chúng chủ yếu nằm ở lớp từ vay mượn. Về chữ viết, xưa kia các nước này chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ nên đã vay mượn chữ viết Ấn Độ. Từ thế kỷ XIII – XV, Islam (Hồi giáo) xâm nhập vào các nước ấy nên đã chuyển sang dùng chữ cái Ả rập. Sang thế kỷ XX, trước ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, họ đã sử dụng chữ cái Latinh. 10 Có những từ Malayo – Polynesian được nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới (nhất là ở châu Âu) sử dụng như: Tabou: cấm kỵ, Tatouage: xăm mình, Tamouré: nhảy múa, Monoi tiare: dầu hoa, nước hoa. Nếu căn cứ vào lịch sử thì nhóm ngôn ngữ Nam Đảo được hình thành vào khoảng Thiên niên kỷ II trước Công Nguyên, tại vùng Đông Nam ven biển Quảng Đông, Trung Quốc hiện nay. Do sản xuất phát triển và dân số tăng, họ đã di cư xuống Đông Nam Á nhiều đợt theo hai hướng chính. Hướng thứ nhất dọc theo bờ biển Trung Quốc và Việt Nam. Người Chăm dừng lại ở đây rồi đến miền Tây Indonexia, từ đó đi về Đông và Đông Bắc đến Philippin và Đà Loan. Hướng thứ hai qua Đài Loan sang Philippin rồi từ đó sang Indonexia qua Đông Dương. Vấn đề địa bàn tụ sinh và con đường thiên đi của các tộc người Nam Đảo là mối lưu tâm của nhiều nhà khoa học lịch sử phương Đông. Một số nhà ngôn ngữ, bắt đầu là P.K. Bennedict, nêu lên mối quan hệ ngôn ngữ giữa Tày – Thái và Indonexia thông qua nhóm Kađai, sau đó đưa ra khái niệm Nam Thái (Austro – Thái) đã góp phần giúp các nhà khoa học lịch sử, dân tộc học tìm kiếm nơi tụ sinh của các cư dân Nam Đảo ở miền Đông Nam Trung Hoa, thuộc khu vực phía Nam sông Dương Tử, vùng nước Việt thời Xuân Thu (VII – V trước CN) và Ngô, Việt thời Chiến Quốc (V – II trước CN). Heine Gelbern là người đầu tiên đưa ra giả thuyết này vào năm 1923 [37, tr. 307]. Ông dựa vào sự phân bố của chiếc rìu đá mài tứ diện vốn xuất hiện từ lục địa ven biển Đông – Nam Trung Hoa, sau lan xuống phương Nam bằng hai con đường: đường thủy và đường bộ xuống Đông Nam Á. Đến năm 1951, theo M.C. Levin và N.N. Tchebocxarov, Mongoloid từ phương Bắc xuống hỗn thuyết cùng người Australoid cư trú từ trước, đã tạo nên tổ tiên người Mã Lai – Đa Đảo được đa số giới khoa học chấp nhận, một phần cũng nhờ những cư liện ngôn ngữ học, lịch sử cổ đại Trung Hoa [41, tr. 41]. Gần đây, nhà khoa học W.G. Solheim II đưa ra một quan điểm khác, đó là coi các tộc người Nam Đảo xuất phát từ khu vực quần đảo Đông Nam Á rồi tỏa ra khu 11 vực Đông Nam Á – Thái Bình Dương, tới tận châu Đại Dương và miền Nam Trung Hoa [40, tr. 34]. Ý kiến đó cần xem xét, vì thực tế khó bác bỏ ý kiến được đa số các nhà bác học đồng tình đã nêu ra ở trên. Có lẽ, W.G. Solheim lầm lẫn vì các cư dân Nam Đảo ở hai đảo lập quốc muộn hơn nhiều so với các cư dân thuộc các dòng ngôn ngữ khác ở lục địa. Vậy sao họ lại mang được văn minh của họ lên các vùng lục địa. Việc phát hiện di chỉ Noc Non Tha chính do nhóm nghiên cứu của ông phát hiện ra với vết tích của lúa cũng đã thấy ở vùng Bắc Thái Lan cư dân đã có trình độ văn minh hơn cư dân hải đảo cùng thời [37, tr. 308]. Do sự phát triển sản xuất và gia tăng dân số, do sự tranh chấp của những thế lực chính trị địa phương, và nhất là do sự bành trướng thế lực của tổ tiên người Hán xuống phương Nam, tổ tiên người Nam Đảo, vốn dĩ giỏi đi thuyền đã không ngừng vượt biển xuống phương Nam bằng đường biển qua Đài Loan, đảo Hải Nam, xuống Indonesia, mạnh nhất cách đây khoảng 2000 năm, hoặc theo dọc bờ biển Nam Trung Hoa và Việt Nam. Cũng có một bộ phận nhỏ có thể xuống phương Nam theo đường bộ, cùng với tổ tiên người Kađai và Tày – Thái. Điều này trùng khớp với hai thời kỳ đầy biến động vì chiến tranh ở vùng Đông Nam sông Trường Giang, liên quan đến hai nước Việt, Ngô chắc chắn là miền đất khác Hán; đồng thời không liên quan đến cư dân Nam - Việt được coi là tổ tiên Kăm - Thái (hay Tày - Thái). Miền đất Đông Việt, hay sau gọi là Ngô Việt này, lại nằm phía trên đất Mân Việt là đất Di Việt, Di Bộc hay Liêu là đất của tổ tiên người Kađai, đặc biệt của tộc người Cơ Lao [37, tr. 309]. Nhóm Sơn Việt trong Di Việt, xuất hiện từ thời Đông Hán đến thời Tùy Đường không thấy sử sách nhắc đến, là tổ tiên của người Nam Đảo. Tất cả các cư dân nói trên, Nam Đảo hay Kađai, có thể bao gồm bộ phận Kăm – Thái, đều được giả định là chủ nhân ông các nền văn hóa khảo cổ cùng thời, bên trong nội địa Nam Trung Quốc và Đông Dương [37, tr. 309]. Những tộc người thuộc nhóm Nam Đảo hiện nay tập trung chủ yếu ở các quần đảo: - Malaysia: Mã Lai - Melanesia: (Mela: đen; nesia: đảo) Đảo Đen 12 - Polynesia: (Poly: nhiều; nesia: đảo) Đa Đảo - Micronesia: (Micro: nhỏ, nesia: đảo) Đảo Nhỏ Nhìn chung họ thuộc giống người Mã Lai là chính, có pha trộn với người Indonesian (nhóm dân tộc Indonesian chứ không phải là người Inđonêxia) là cư dân gốc Đông Nam Á có lẽ đã ở từ trước. Những người Polynesian và người Micronesian chủ yếu là do sự pha trộn hai giống người trên mà thành. Mỗi vùng quần đảo có những đặc điểm như sau: - Polynesia (Đa Đảo) nằm ở phía Đông Thái Bình Dương, phía Đông là châu Mỹ, phía Nam là nước Úc, phía Tây là Micronesia và Melanesia. Vùng này có rất nhiều đảo nên gọi là Đa Đảo. Cư dân Đa Đảo có nguồn gốc ở các đảo gần Malaysia như Dayak, Alfuru. Họ chủ yếu làm nông nghiệp, đôi khi đánh cá, đi săn. Họ sinh sống bằng rễ củ, trái cây, rau hơn là cá [16, tr. 17]. - Melanesia (Đảo Đen) nằm ở phía Bắc nước Úc và phía Đông Malaysia. Cư dân là những người da ít đen, cao lớn, đầu hẹp, mặt rộng, mũi thẳng và rộng, má dô, tóc quăn hoặc thẳng [16, tr. 17]. - Malaysia nằm ở Tây Nam Thái Bình Dương, có những đảo nay thuộc Đông Nam Á như Timor (Maluku), Suiawesl (Celebes), Kalimantan (Borneo), Philippin [16, tr. 18]. - Micronesia (Đảo Nhỏ) gồm một số đảo nhỏ nằm giữa Malaysia ở phía Tây, Melanesia ở phía Nam và Polynesia ở phía Đông. Các đảo chính là Marianne, Palaos, Carolines, Marshall, Gthbert. Cư dân có nước da sáng, chủ yếu đánh cá, đi biển [16, tr. 18] . Nghiên cứu về các vùng cư trú đầu tiên của các tộc người nhóm Nam Đảo cần phải chú ý đặc biệt tới Đài Loan. Đài Loan là một hòn đảo ở biển phía Đông Nam Trung Quốc, lãnh thổ của 7 bộ lạc cư dân bản địa nói tiếng Malayo – Polynesian. Trong số các tộc người đầu tiên có mặt ở Đài Loan là người Ami. Bộ lạc người Ami hiện có 90 000 người, có tiếng nói riêng. Họ vốn làm nương rẫy, nuôi chó để đi săn, heo và gà để cúng, mặc quần áo bằng vỏ cây. 13 Người Ami theo mẫu hệ, gồm 50 thị tộc, cư trú về phía mẹ, kết cấu chính trị là nhị nguyên, một là quyền uy thế tục của những nhóm đàn ông theo lứa tuổi, hai là quyền uy nghi lễ thuộc về họ mẹ gọi là Kakitaan, tức là những gia đình thầy cúng mẹ truyền con nối, nhưng trong đó đàn ông, chứ không phải đàn bà, làm vai trò thầy cúng. Sự kiểm soát xã hội không dựa vào luật mà dựa vào việc trả thù nợ máu của những người thân với người chết. Chiến tranh với các nhóm khác đưa đến việc săn đầu người. Việc lấy đầu người xảy ra trong lễ irisin tiến hành tiếp theo khi thu hoạch kê, nhằm cầu mong sự sinh sôi và đổi mới. Làng người Ami xưa được bảo vệ chống kẻ thù bằng cọc tre và hầm hào. Hay như bộ lạc người Puyuma, hiện có khoảng 6 000 người, vốn là cư dân làm nông, săn bắt và đánh cá. Đất là sở hữu của các gia đình quý tộc. Làng trung bình có khoảng 600 người. Mỗi làng là một đơn vị độc lập về chính trị, và hầu như theo chế độ nội hôn. Quyền lãnh đạo kế thừa trong các gia đình tù trưởng. Họ theo chế độ mẫu hệ và nơi cư trú phụ thuộc mẹ. Tổ chức xã hội theo chế độ phân đôi (moiety), nửa này tấn công nửa kia. Có các nhóm chia theo lứa tuổi, hoạt động như là những trường huấn luyện quân sự. Từ 18 đến 22 tuổi, con trai sống tách rời phụ nữ trong những ngôi nhà dành riêng cho đàn ông, và luyện tập đánh nhau. Đến 22 tuổi thì được cưới vợ, rời khỏi ngôi nhà dành cho đàn ông và về ở với gia đình vợ. Người Puyuma cho rằng con người có 3 hồn: 1 ở đầu, và 2 ở hai vai. Người ốm là do hồn ở vai bỏ đi. Thầy cúng chữa bằng cách gọi hồn ở vai về. Người chết là vì hồn ở đầu bỏ đi. Đây là hai trong bảy bộ lạc cư dân gốc Đài Loan. Và cả hai đều đại diện cho tổ tiên cổ của người Nam Đảo, và cũng có những đặc điểm ngôn ngữ văn hóa giống các tộc người khác trong nhóm Nam Đảo. Nói đến các vùng cư trú của các tộc người nhóm Nam Đảo, cần phải nói đến Madagascar. Madagascar là một hòn đảo nằm phía Đông Nam châu Phi, rất xa về phía 14 Tây khu vực Đông Nam Á. Về vị trí địa lý nó thuộc về châu Phi, nhưng về văn hóa nó thuộc về Đông Nam Á. Theo truyền thuyết, cư dân đầu tiên là những người Nains, người Kimos. Sau đó, có lẽ từ trước Công Nguyên, người Mã Lai từ Đông Nam Á đã đến đây làm thay đổi tính chất cư dân của đảo. Người Mã Lai từ quê hương xa xôi đã kéo nhau đông đúc và thường xuyên, hoạt động nhộn nhịp trong việc chuyên chở trên biển, làm cho các nhà địa lý và thủy thủ thời đó thường nghĩ rằng Madagascar là một phần của Đông Nam Á. Cư dân ở đây phát triển một nền văn minh trồng lúa và chăn nuôi bò. Vì vậy, đến nay đối với người Madagascar hai thứ quý nhất là gạo và bò Zebu [16, tr. 22]. Về mặt tổ chức xã hội - kinh tế, các tộc người Nam Đảo chủ yếu là cư dân hải đảo và các vùng gần biển (trừ các tộc người do điều kiện lịch sử - tự nhiên phải đi lên núi). Vì vậy, các tộc người Nam Đảo có hoạt động trên biển khá mạnh. Chẳng hạn, người Mã Lai không những lan tỏa về phía Đông thuộc Châu Đại Dương, mà còn lan tỏa sang phía Tây đến tận Madagascar ở Đông Nam châu Phi. Họ là những cư dân thành thạo nghề đi biển. Các tộc người Nam Đảo đã lợi dụng đường giao thông trên biển để mở rộng buôn bán với bên ngoài, nên thương mại trên biển phát triển. Người Mã Lai ở vào vị trí thuận lợi trên biển nên đã có vai trò quan trọng trong giao dịch qua lại. Xét về mặt địa lý, các tộc người Nam Đảo sống rải rác trên những quần đảo, nên mặc dù văn hóa các tộc người phát triển, nhưng một quốc gia thống nhất lại ra đời khá muộn. Về văn hóa và tôn giáo, trước kia các tộc người Nam Đảo chịu ảnh hưởng của văn hóa và chữ viết Ấn Độ, cũng theo Ấn độ giáo và Phật giáo. Từ thế kỷ XV trở đi, Islam giáo và văn hóa Ả rập đã lan truyền vào vùng Malayo – Polynesia. Ngày nay, đa số tộc người thuộc nhóm Nam Đảo (nhất là ở Malaysia và Indonesia) theo Islam giáo và văn hóa Ả rập. Trong con số kỷ lục hơn 181 000 000 người dân Nam Đảo đang cư trú ở Đông Nam Á chỉ có khoảng 830 000 người sống trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay. Như đã nói, họ là người của 5 tộc người: Gia-rai, Ê-đê, Ra-glai, Chăm và Chu-ru. Năm tộc 15 người này vừa có những đặc điểm chung với các tộc người cùng nhóm sống ở các vùng khác vừa có nét riêng. Trong phần tiếp theo chúng tôi sẽ cố gắng xem xét lịch sử hình thành của họ và phân tích một số nét văn hóa tiêu biểu. 1.2. Nhóm Nam Đảo ở Tây Nguyên Ở Việt Nam có 5 tộc người đại diện cho ngữ hệ Nam Đảo, đó là tộc người Chăm, tộc người Ê-đê, tộc người Gia-Rai và các tộc người Ra-Glai, Chu-Ru. Các tộc người nay do nhiều nguyên nhân lịch sử - tự nhiên có nhiều đặc điểm chung, nhưng cũng có nét riêng. 1.2.1. Lịch sử hình thành Như chúng tôi đã nhận xét ở trên, nhóm ngôn ngữ Nam Đảo được hình thành vào khoảng Thiên niên kỷ II trước Công Nguyên, tại vùng Đông Nam ven biển Quảng Đông, Trung Quốc hiện nay. Do sản xuất phát triển và dân số tăng, họ đã di cư xuống Đông Nam Á nhiều đợt theo hai hướng chính. Hướng thứ nhất dọc theo bờ biển Trung Quốc và Việt Nam. Người Chăm dừng lại ở đây rồi đến miền Tây Indonexia, từ đó đi về Đông và Đông Bắc đến Philippin và Đà Loan. Hướng thứ hai qua Đài Loan sang Philippin rồi từ đó sang Indonexia qua Đông Dương. Một bộ phận tổ tiên dân Nam Đảo mà đã vào bờ biển Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, trở thành yếu tố cấu thành tộc người Việt, có thể ngay từ khi còn là phức thể Tiền Việt hay Việt - Mường, trước khi bộ phận này chịu ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa [37, tr. 309]. Câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh phản ánh thắng lợi của yếu tố núi với yếu tố biển, phải chăng đã phản ánh cuộc đấu tranh giữa hai cư dân nói trên. Bộ phận đổ bộ vào ven biển Miền Trung và Nam Trung Bộ sống hỗn cư với tổ tiên dân cư Môn - Khơme ở đó từ trước, là tổ tiên người Chăm hiện nay. Lịch sử Chăm ghi nhận sự có mặt của các dân Môn - Khơme như người Ma Đa (tổ tiên người Ba-na). Truyền thuyết của các cư dân Môn - Khơme ở Tây Nguyên cũng thừa nhận xưa tổ tiên họ ở 16 dưới đồng bằng ven biển. Điều đó được phản ánh vào các bản trường ca trong nội dung nói đến những tri thức của người dân Tây Nguyên về biển cả. Cũng vì vậy, sự phân ngành ngôn ngữ Nam Đảo của các cư dân lục địa Đông Nam Á, đặc biệt của nhành Chăm (các ngôn ngữ Chăm, Ê-đê, Gia-rai, Ra-glai, Churu), có nhiều yếu tố của ngôn ngữ Môn - Khơme, từ đấy nảy sinh hai ý kiến: 1) cư dân Môn - Khơme chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ Nam Đảo (P.W. Schmidt); 2) cư dân Nam Đảo chịu ảnh hưởng nhiều của ngôn ngữ Môn - Khơme (G. Coedès, S.A. Aruchiunov), và với số lượng yếu tố Môn - Khơme đậm đà, họ tự tách thành một phân ngành Nam Đảo lục địa nằm trong ngành Nam Đảo phía tây (phân ngành Nam Đảo hải đảo bao gồm ngôn ngữ của cư dân Gia Va, Ba Li, Sumatra). Việc sắp đặt các ngôn ngữ nhánh Chăm vào hệ ngôn ngữ nào là chủ yếu vẫn đang còn tranh cãi. Nhưng một điều chắc chắn là các cư dân Nam Đảo lục địa Đông Nam Á này đã cư trú xen kẽ, kề cạnh với các cư dân Môn – Khơme bản địa ở đây từ rất lâu, đã hỗn thuyết và vay mượn ngôn ngữ lẫn nhau, chí ít cũng trên dưới 2000 năm nay [37, tr. 310]. Cũng cần lưu ý một ý kiến khác về sự chuyển cư của các cư dân phân ngành ngôn ngữ lục địa Đông Nam Á, tổ tiên người Chăm, Ra-glai, Chu-ru, nhất là Ê-đê và Gia-rai. Ch.Archaimbaut, khi nghiên cứu vương quốc Champassak (Hạ Lào), cho rằng rất có thể ở vương quốc này, trước khi có mặt người Lào, đã có một nhóm cư dân thân thuộc với người Chămpa, do sức ép của các nhà nước Môn, nhất là của chế độ Angkor, đã chuyển cư theo hướng đông tới vùng biển và là tổ tiên của cư dân Nam Đảo, chí ít trên cao nguyên Việt Nam [37, tr. 311]. Ý kiến nguồn gốc nội địa của cư dân Nam Đảo lục địa Đông Nam Á sau lại được nhà dân tộc học Y.V. Tchesnov đặt ra [42, tr. 129]. Khi nghiên cứu về tình hình văn hóa khảo cổ thời kì đồ đồng và đồ sắt Đông Nam Á, kết hợp với những tư liệu dân tộc học, ông thống nhất với Ch. Archaimbaut có thể cư dân Nam Đảo từ phương Bắc xuống phương Nam không chỉ bằng đường biển mà cả đường bộ, nhất là người Ê-đê và Gia-rai. Sau này, khi phát hiện tộc người La-ha thuộc ngôn ngữ Kađai là dân cư trú ở Tây Bắc trước người Thái, cùng các tộc người Môn - Khơme như Kháng, Xinh-mun, 17 v.v…, nối liền con đường thiên di của các nhóm Kađai từ Quý Châu xuống Quảng Tây, qua Hà Giang sang Tây Bắc Việt Nam, càng khích lệ ý kiến cho rằng có thể có một nhóm người Nam Đảo cũng đã xuống miền Tây Đông Dương theo dọc sông Mê Công, hỗn huyết với cư dân Môn - Khơme, tạo thành ngành ngôn ngữ Nam Đảo lục địa Đông Nam Á [37, tr. 312]. Ngay trong lòng văn hóa người Việt hiện nay có rất nhiều dấu tích của văn hóa Malayo – Polynexia. Tài liệu dân tộc học cho thấy có nhiều vùng dọc theo hai bờ ven sông Đáy, các cộng đồng cư dân ở đây đã dùng khoai mài và cây mía hoặc mật mía để tế thần hoàng. Dùng khoai nước và mía để tế thần là cách làm ở Melanesia. Ở Bắc Ninh (Việt Nam) người dân vẫn thờ mía, dùng hai cây mía để nguyên dựng hai bên bàn thờ. Nhưng văn hóa Melanesia không phải chỉ ảnh hưởng, mà là một bộ phận tham gia cấu thành văn hóa Việt (Kinh). Ngày nay có nhiều nhóm người như người Đản ở Vịnh Hạ Long, người Bồ Lô (từ Thanh Hóa đến Quảng Bình), một số nhóm khác ở Thừa Thiên và dọc theo ven biển miền Trung và Nam Bộ, mặc dù đã bị Việt hóa, vẫn còn lại các dấu tích cả về cấu trúc thể chất và ngôn ngữ, về sinh hoạt văn hóa, không thể chối cãi được về nguồn gốc Melanesia [30, tr. 289]. Dù có nhiều dấu hiệu lịch sử - khảo cổ, nhưng các nhà khoa học vẫn chưa đủ chứng cớ về nguồn gốc bản địa của các cư dân nói ngôn ngữ Nam Đảo ở Việt Nam: họ từ đâu đến đây và đến từ bao giờ là những câu hỏi chưa được giải đáp. Có thể là người Chăm chính là những người đầu tiên đến ở dọc theo ven biển Việt Nam. Sau đó có một nhóm người chia ra đi lên núi…dần dần hình thành 4 tộc người khác (Gia-rai, Ê-đe, Ra-glai, Chu-ru). Ngày nay ở Việt Nam có trên 800 000 người nói ngôn ngữ Malayo – Polynesia được xếp thành 5 tộc người: Gia-rai, Chăm, Ê-đê, Chu-ru, Ra-glai. Trừ người Chăm tập trung dọc theo bờ biển Miền Trung tại Ninh Thuận, Bình Thuận, ở Phú Yên, Khanh Hòa, một bộ phận ở thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh An Giang, còn lại các tộc người khác đều cư trú ở Tây Nguyên. Người Chăm hiện đang sống rải rác trên lãnh thổ Việt Nam là hậu duệ trực tiếp của tổ tiên đã cư trú hàng ngàn năm ở các vùng ven biển (chủ yếu là hai tỉnh Ninh 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan