Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Phương thức mưu sinh của cư dân ở xã nghi sơn, huyện tĩnh gia, tỉnh thanh hóa ...

Tài liệu Phương thức mưu sinh của cư dân ở xã nghi sơn, huyện tĩnh gia, tỉnh thanh hóa

.PDF
217
816
51

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ VĂN TUYẾN PHƯƠNG THỨC MƯU SINH CỦA CƯ DÂN Ở XÃ NGHI SƠN, HUYỆN TĨNH GIA, TỈNH THANH HÓA LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC HÀ NỘI - 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ VĂN TUYẾN PHƯƠNG THỨC MƯU SINH CỦA CƯ DÂN Ở XÃ NGHI SƠN, HUYỆN TĨNH GIA, TỈNH THANH HÓA Chuyên ngành: Nhân học Mã số : 62 31 03 02. LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Bùi Xuân Đính HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là hoàn toàn trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Những luận điểm mà Luận án kế thừa của những tác giả đi trước đều được trích dẫn nguồn chính xác, cụ thể. Tác giả luận án LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận án Tiến sĩ với đề tài: “Phương thức mưu sinh của cư dân ở xã Nghi Sơn, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa”, tôi xin chân thành cảm ơn: Lãnh đạo trường Đại học Văn hoá, Thể thao và Du lịch Thanh Hoá cùng các đồng nghiệp, bạn bè, các thành viên trong gia đình đã tạo mọi điều kiện về thời gian, lịch công tác để tôi hoàn thành luận án. Khoa Dân tộc học & Nhân học thuộc Học viện Khoa học Xã hội đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành các thủ tục của khóa đào tạo. Lãnh đạo và người dân địa phương xã Nghi Sơn, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa đã nhiệt tình giúp đỡ, cộng tác trong suốt quá trình chúng tôi điền dã, khảo sát tại địa bàn nghiên cứu. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Bùi Xuân Đính, người thầy đã tận tình hướng dẫn và cho tôi những đóng góp quý báu cùng sự khích lệ, động viên tinh thần to lớn. Chúng tôi tự đáy lòng xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 03 năm 2017 Tác giả luận án MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng, hộp MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.2. Cơ sở lý thuyết của luận án 1.3. Khái quát địa bàn nghiên cứu Tiểu kết Chương 1 CHƯƠNG 2: CÁC HÌNH THỨC ĐÁNH BẮT HẢI SẢN 2.1. Các hình thức đánh bắt gần bờ 2.2. Các hình thức đánh bắt xa bờ 2.3. Những yếu tố tác động đến hoạt động khai thác hải sản 2.4. Một số nhận xét về các hình thức đánh bắt hải sản Tiểu kết Chương 2 CHƯƠNG 3: CÁC HÌNH THỨC MƯU SINH KHÁC 3.1. Các hình thức mưu sinh gắn với đánh bắt hải sản 3.2. Nuôi trồng hải sản 3.3. Dịch vụ, buôn bán nhỏ 3.4. Làm công nhân tại khu kinh tế Nghi Sơn Tiểu kết Chương 3 CHƯƠNG 4: CÁC YẾU TỐ XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG MƯU SINH 4.1. Các yếu tố xã hội 4.2. Các yếu tố văn hóa 4.3. Những thuận lợi, khó khăn của cư dân Nghi Sơn trong giai đoạn hiện nay Tiểu kết Chương 4 KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 11 11 24 37 47 49 50 60 69 76 80 82 82 102 106 107 110 112 112 129 140 145 147 151 152 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CRD : The centre for Rural Development in Central Viet Nam (Trung tâm phát triển Nông thôn miền Trung) DFID : Department for International Development (Bộ phát triển quốc tế Anh) Ha : Héc ta IUCN : International Union for Conservation of Nature and Natural Resources (Liên minh Quốc tế bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên) Km : Ki-lô-mét KKT : Khu kinh tế LHD : Lọc hóa dầu MLXH : Mạng lưới xã hội MTTQ : Mặt trận tổ quốc Nxb : Nhà xuất bản PTBV : Phát triển bền vững Tr : Trang TT : Thứ tự UBND : Ủy ban nhân dân VH-VH : Văn hóa - xã hội VXH : Vốn xã hội DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HỘP Bảng Hộp Bảng 1.1 Bảng 1.2. Bảng 2.1 Bảng 2.2 Bảng 2.3 Bảng 2.4 Hộp 2.1 Hộp 2.2 Hộp 3.1 Hộp 3.2 Hộp 3.3 Hộp 3.4 Hộp 3.5 Hộp 3.6 Hộp 3.7 Bảng 4.1 Bảng 4.2 Hộp 4.1 Hộp 4.2 Tên bảng Trang Dân số các thôn xã Nghi Sơn năm 2015 Cơ cấu kinh tếxã Nghi Sơn những năm gần đây Số lượng tàu thuyền ở Nghi Sơn Thống kê các hình thức đánh bắt gần bờ ở xã đảo Nghi Sơn Lịch con nước được đúc rút của ngư dân xã đảo Nghi Sơn Sự phân bố của các loại hải sản ở Nghi Sơn Vấn đề thu nhập của nghề câu vàng Vấn đề thu nhập của nghề mành chụp Rủi ro của nghề phơi cá khô Chủ thu mua hải sản cho ăn ứng Lợi nhuận của nghề cung cấp dầu Về thu nhập của nghề làm thuê Lý do dùng cá tươi làm thức ăn Nguyên nhân cá lồng chết hàng loạt Vấn đề bỏ nghề biển chuyển sang làm công nhân Số tàu cá có quan hệ chung thuyền - chung lưới ở Nghi Sơn Thống kê hộ nghèo và hộ cận nghèo năm 2015 Ngư dân và tâm lý sinh con Nguyên do của việc gọi anh em, con cháu cùng đi đánh bắt 45 46 51 59 73 74 65 68 85 93 99 102 104 105 109 119 126 115 118 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Việt Nam là quốc gia ven biển, với hơn 3.200 km đường bờ biển, hàng trăm hòn đảo lớn nhỏ. Từ xa xưa, tổ tiên người Việt và một số tộc người thiểu số đã chiếm lĩnh vùng biển, đảo để mưu sinh bằng các nguồn lợi của biển và hải đảo; đồng thời để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Cũng từ rất sớm đã hình thành các cộng đồng cư dân ven biển và trên các đảo, mà các nhà dân tộc học phân thành loại hình làng ven biển và làng đảo. Có nhiều làng đảo được cả nước biết đến và giới nghiên cứu quan tâm, như làng đảo Quan Lạn (huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh), làng đảo Cát Bà (huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng), các làng trên đảo Lý Sơn (huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi)... Đề tài về biển và hải đảo hàm chứa nhiều nội dung nghiên cứu dưới nhiều chuyên ngành khác nhau. Dưới góc độ Nhân học, một trong những vấn đề cần được đi sâu nghiên cứu là thích ứng với môi trường biển, đảo, thể hiện ở phương thức mưu sinh của các cộng đồng cư dân thuộc các dạng cảnh quan có các đặc điểm khác nhau về địa hình, thổ nhưỡng ở đảo, khí hậu, thủy văn, tài nguyên của biển...; hay ngư trường biển nói chung. 1.2. Phương thức mưu sinh là một thành tố quan trọng trong đời sống tộc người, có quan hệ mật thiết và có ảnh hưởng lớn đối với các thành tố khác như chính trị, văn hóa, xã hội… Phương thức mưu sinh của cư dân không đơn thuần là kiếm sống mà còn chứa đựng nhiều các yếu tố văn hóa, xã hội, như thiết chế xã hội và các mối quan hệ xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng (gắn với các kiêng kỵ, lễ nghi), các phong tục tập quán liên quan đến hoạt động mưu sinh của cộng đồng cư dân. Nghiên cứu phương thức mưu sinh của các cộng đồng cư dân ven biển và hải đảo để thấy được nhận thức, cách ứng xử của con người đối với môi 1 trường biển, đảo. Gắn với các phương thức mưu sinh này là các thiết chế xã hội và quan hệ xã hội, các phong tục tập quán, các tín ngưỡng và kiêng kỵ... Đó là những yếu tố cấu thành văn hóa của cộng đồng cư dân. Về mặt thực tiễn, nghiên cứu các hoạt động mưu sinh để thấy được những thuận lợi và khó khăn cũng như những thách thức của các cộng đồng cư dân trong giai đoạn hiện nay; tạo cơ sở khoa học cho việc đề ra các giải pháp giúp các cộng đồng cư dân khai thác một cách hợp lý, bền vững các nguồn lợi từ biển và hải đảo, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời vươn ra làm chủ ngoài khơi, góp phần vào việc khẳng định và bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam. 1.3. Thanh Hóa là một trong những tỉnh ven biển ở nước ta, với chiều dài 102 km bờ biển, có các cửa biển Lạch Trường, Lạch Bạng..., các đảo Hòn Mê, Hòn Nẹ... và đảo Nghi Sơn là một trong những hòn đảo lớn của huyện Tĩnh Gia, có cư dân định cư rất sớm. Nghi Sơn trước đây là một làng cổ với tên gọi Biện Sơn. Cư dân ở đây chủ yếu làm nghề chài lưới và tham gia bảo vệ an ninh trên đảo. Nơi đây có địa thế hiểm yếu, từng là căn cứ quân sự của các triều đại phong kiến và đặc biệt quan trọng vào thời Tây Sơn (phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn). Biện Sơn cùng với làng Diêm Phố (huyện Hậu Lộc) là hai làng ngư nghiệp truyền thống điển hình của tỉnh Thanh Hóa. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, cư dân làng đảo Biện Sơn vẫn duy trì và bảo tồn được nghề truyền thống của cha ông. Cùng với quá trình mưu sinh, cư dân trên đảo đã tạo lập những thiết chế văn hóa, các hình thái tín ngưỡng mang những sắc thái đặc trưng riêng của vùng biển đảo... Ngày nay, Nghi Sơn không chỉ có tiềm năng kinh tế, mà còn có một vị trí chiến lược trên vùng biển cực Nam của tỉnh Thanh Hóa. Để thuận tiện cho 2 việc phát triển kinh tế - xã hội, năm 1984, cù lao Biện Sơn thuộc xã Hải Thượng được tách riêng thành xã Nghi Sơn, thuộc huyện Tĩnh Gia. Đặc biệt, ngày 14 tháng 01 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định công nhận Nghi Sơn là xã đảo. Trong chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh Thanh Hóa, xã đảo Nghi Sơn được quy hoạch nằm trong khu kinh tế Nghi Sơn - khu kinh tế trọng điểm của tỉnh Thanh Hóa và khu vực Bắc miền Trung. Vì vậy, nghiên cứu sinh kế của xã đảo Nghi Sơn để giúp cho cộng đồng cư dân ở đây phát triển bền vững, với các nội dung là khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên để phát triển kinh tế; giữ gìn nguồn tài nguyên và môi trường vùng biển đảo; giữ vững an ninh - chính trị, trật tự an toàn trên biển; bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, góp phần xây dựng khu kinh tế Nghi Sơn trở thành khu kinh tế trọng điểm của khu vực Bắc Trung Bộ. Vì lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề “Phương thức mưu sinh của cư dân ở xã Nghi Sơn, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài luận án tiến sĩ, chuyên ngành Nhân học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu - Làm rõ các phương thức mưu sinh hiện nay của cư dân ở xã đảo Nghi Sơn (cơ sở ra đời, tồn tại, cách thức tổ chức, vai trò của các hình thức mưu sinh), cùng các yếu tố xã hội và văn hóa liên quan đến hoạt động mưu sinh; - Chỉ ra những vấn đề đang đặt ra về mưu sinh của cộng đồng cư dân trên đảo, tạo cơ sở khoa học cho việc đề ra các giải pháp giúp cư dân xã đảo Nghi Sơn phát triển bền vững, đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, nhất là bảo vệ vững chắc vùng biển và hải đảo thiêng liêng của Tổ quốc. 3 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận án đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu về phương thức mưu sinh của cư dân biển và hải đảo nói chung và cư dân đảo Nghi Sơn nói riêng; - Khảo sát thực tế để thu thập các nguồn tư liệu về phương thức mưu sinh của cư dân xã đảo Nghi Sơn hiện nay trong mối quan hệ với các yếu tố truyền thống; - Trên cơ sở làm rõ các khái niệm có liên quan, lựa chọn khung lý thuyết phù hợp làm cơ sở cho việc luận giải những khía cạnh liên quan đến phương thức mưu sinh của cư dân xã đảo Nghi Sơn hiện nay; - Nghiên cứu, đánh giá thực trạng phương thức mưu sinh hiện nay của cư dân Nghi Sơn cũng như các yếu tố xã hội, văn hóa có liên quan. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án - Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là các khía cạnh của phương thức mưu sinh cùng các khía cạnh có liên quan đến mưu sinh hiện nay của cư dân xã đảo Nghi Sơn. - Phạm vi nghiên cứu của luận án, về không gian nghiên cứu là xã đảo Nghi Sơn. Về thời gian, luận án tập trung nghiên cứu phương thức mưu sinh hiện nay của cư dân Nghi Sơn trong sự so sánh với các yếu tố mưu sinh truyền thống. Từ xa xưa, cư dân Nghi Sơn sống chủ yếu bằng các hình thức đánh bắt hải sản ở ven bờ. Trước tác động của gia tăng dân số, của việc khai thác thiếu hợp lý nguồn tài nguyên trên biển, nhiều hình thức khai thác hải sản không còn được duy trì hoặc phải chuyển đổi. Trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội từ khi thực hiện công cuộc Đổi mới (năm 1986), nhất là từ khi giải thể hợp tác xã (năm 1990), cùng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, 4 nghề khai thác hải sản ở Nghi Sơn từng bước được nâng cấp, nhiều hình thức mưu sinh mới, gắn với nghề cá xuất hiện. Tất cả các hoạt động mưu sinh này sẽ được đề cập đến trong luận án. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Phương pháp luận Luận án tiếp cận vấn đề phương thức mưu sinh của cư dân xã đảo Nghi Sơn từ góc độ Dân tộc học/Nhân học kinh tế, chú trọng các hình thức mưu sinh trong mối quan hệ với văn hóa của cư dân cũng như các yếu tố môi trường sống và các yếu tố thiết chế xã hội trong mối quan hệ với phong tục, tập quán; tôn giáo, tín ngưỡng. Cách tiếp cận này hoàn toàn khác với tiếp cận Kinh tế học, chú trọng đến năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất, từ đó tìm ra những quy luật vận động và phát triển của các hoạt động sản xuất. Khi tiến hành nghiên cứu về phương thức mưu sinh, luận án xem xét các vấn đề trên cơ sở lý luận là phép biện chứng của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Sự hình thành, tồn tại và phát triển của các hình thái kinh tế luôn nằm trong mối quan hệ biện chứng với các thành tố khác trong đời sống như môi trường tự nhiên, môi trường văn hóa, xã hội, điều kiện lịch sử… 4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án Căn cứ vào chuyên ngành đào tạo, luận án sử dụng đồng thời nhiều phương pháp khác nhau của khoa học xã hội, lấy phương pháp tiếp cận Dân tộc học/Nhân học làm trọng tâm. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được áp dụng trong quá trình hoàn thành luận án: Kế thừa các tài liệu thứ cấp: để hoàn thành luận án chúng tôi đã đọc và kế thừa từ các công trình sách, tạp chí đã xuất bản; kết quả các chương trình, dự án nghiên cứu do các cơ quan, tổ chức trong nước và quốc tế thực hiện 5 liên quan đến đề tài, các tài liệu thống kê và báo cáo tổng kết của chính quyền, ngành ở các cấp. Đối với cả hai nguồn tư liệu (các tài liệu thứ cấp và các công trình nghiên cứu), chúng tôi đối chiếu và kiểm tra chéo bằng các tài liệu thu được trên thực địa. Phương pháp điền dã Dân tộc học Để hoàn thành luận án, chúng tôi đã tiền hành bảy đợt điền dã thực tế để thu thập tư liệu: - Đợt một, vào tháng 04 năm 2014, tập trung tìm hiểu về địa bàn nghiên cứu, đến tham quan các công trình tôn giáo, tín ngưỡng; điều tra hồi cố các bậc cao niên về lịch sử cư dân trên đảo, về thiết chế tổ chức làng xã, các phong tục tập quán, tín ngưỡng truyền thống, các hình thức đánh bắt hải sản truyền thống cũng như các kiêng kỵ và nghi lễ có liên quan; tìm hiểu nghề nuôi trồng hải sản trên biển mới xuất hiện ở địa phương. - Đợt hai diễn ra vào tháng 7 năm 2015 với công việc chính là thu thập số liệu về phương tiện và ngư cụ đánh bắt hải sản truyền thống và những biến đổi hiện nay. - Đợt ba, vào tháng 08 năm 2015, làm việc với bốn vị trưởng thôn để tìm hiểu thực trạng đời sống gia đình, dòng họ của bà con cư dân trong thôn; gặp gỡ để thu thập tư liệu ở các hộ làm nghề mành chụp, nghề lưới giã, nghề câu vàng, nghề câu trong lộng; trong đó có một số chủ hộ làm nghề mành chụp làm ăn thua lỗ và không tìm được bạn thuyền, phải bán thuyền để đi làm công nhân bên khu kinh tế Nghi Sơn. - Đợt bốn diễn ra vào tháng 03 năm 2016, tập trung phỏng vấn và thu thập tư liệu về nghề lưới bát quái, nghề làm nước mắm, chế biến cá khô. 6 - Đợt năm diễn ra vào tháng 5 năm 2016, tham dự lễ hội cầu ngư của dân làng; thu thập tư liệu về nghề sửa chữa tàu thuyền, nuôi cá lồng và công việc thu mua hải sản trên biển. - Đợt sáu, vào tháng 7 năm 2016, tiến hành thu thập tư liệu về nghề đá lạnh, nghề cung cấp xăng dầu, thu mua hải sản, làm nước mắm, buôn bán nhỏ, tình hình ngư dân bỏ nghề đi biển, chuyển sang làm công nhân tại khu kinh tế Nghi Sơn. - Đợt bảy, vào tháng 8 năm 2016, chúng tôi rà soát lại các nguồn tư liệu lần cuối, xác minh lại một số nghi vấn. Số ngày của mỗi đợt điền dã tùy theo tính chất công việc ở thực địa và điều kiện ở cơ quan. Tại mỗi đợt nghiên cứu ở địa bàn, sau khi trình bày mục đích, nội dung và kế hoạch nghiên cứu với đại diện chính quyền địa phương, chúng tôi xác định và tiếp xúc với các thông tín viên là các bậc cao niên am hiểu về cuộc sống xưa kia của cư dân, cán bộ tại cơ sở, những người đang làm nghề nuôi trồng thủy sản, nghề đánh cá ngoài biển, nghề thu mua hải sản, nghề đá lạnh, nghề sửa chữa tàu thuyền, nghề làm mắm, phơi cá khô… và người dân để thu thập thông tin. Sau khi có được danh sách các cộng tác viên, chúng tôi tiến hành các công việc cụ thể của hoạt động điền dã: - Quan sát, chụp ảnh, ghi chép các hiện tượng “tai nghe, mắt thấy” của các cộng đồng ngư dân. - Tham dự một số công việc lao động sản xuất của ngư dân, như một số hình thức đánh bắt, trong đó có cả câu mực; phân loại hải sản trên tàu; phơi cá khô…), một số sinh hoạt trong gia đình (chế biến món ăn), các sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, lễ hội của ngư dân, để tìm hiểu các hoạt động này. 7 - Phỏng vấn ngư dân làm nghề đánh bắt ở ngư trường xa, gần; các cư dân làm nghề phơi cá khô và làm nước mắm; các chủ thu mua hải sản, cung cấp xăng dầu và làm đá lạnh; những ngư dân bỏ nghề đi biển để đi làm công nhân tại khu kinh tế Nghi Sơn; một số vị là lãnh đạo xã, các trưởng phó thôn. Ngoài phỏng vấn và điều tra hồi cố, chúng tôi còn thiết kế những buổi thảo luận nhóm (từ 4 - 6 người) để thu thập tư liệu. Mỗi vấn đề liên quan đến từng khía cạnh của cuộc sống quá khứ và hiện tại, tôi thường chọn độ tuổi thuộc các thế hệ khác nhau. Trong phỏng vấn, điều tra hồi cố và thảo luận nhóm, ngoài ghi chép, chúng tôi sử dụng máy ghi âm nhằm đảm bảo thông tin không bị phản ánh sai lệch, giúp loại bỏ những hạn chế trong khi ghi chép. Sau mỗi ngày phỏng vấn, chúng tôi mở lại băng ghi âm để bổ sung vào sổ những điểm còn chưa rõ. Sau mỗi ngày điền dã, tôi nạp thông tin vào máy tính và suy nghĩ về vấn đề chưa rõ để tiếp tục hỏi vào ngày hôm sau. Phương pháp nghiên cứu so sánh và và phương pháp thống kê Trên cơ sở thu thập những tư liệu từ thực địa như sản phẩm đánh bắt qua các chuyến ra khơi, qua các tháng, các mùa trong năm, chúng tôi thống kê trên bảng để có thể phân tích và làm rõ công việc đánh bắt và chế biến sản phẩm của ngư dân ở từng thời điểm. Dựa vào kết quả thống kê chúng tôi còn so sánh sản phẩm của ngư dân vào các mùa trước đây và hiện nay giống và khác nhau như thế nào, có ảnh hưởng gì đến những biến đổi trong phương thức mưu sinh. Sử dụng nghiên cứu đồng đại và lịch đại để so sánh về phương thức mưu sinh của ngư dân Nghi Sơn trong thời gian trước đây và hiện nay, cụ thể là so sánh các hoạt động mưu sinh, các sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, ảnh hưởng từ các chính sách của nhà nước… của cộng đồng ngư dân trong xã. 8 Tóm lại, trên cơ sở so sánh về các phương thức mưu sinh trong quá khứ và hiện nay, luận án chỉ ra những biến đổi trong tổ chức đánh bắt, sử dụng ngư cụ, địa bàn đánh bắt, chế biến và tiêu thụ sản phẩm đánh bắt của ngư dân. Đây cũng là cơ sở để giúp đề xuất những chính sách phát triển bền vững với cộng đồng ngư dân. Tham khảo ý kiến chuyên gia Để có thể thu thập được tương đối đầy đủ nguồn tư liệu, giải mã một cách thấu đáo các hiện tượng trong phương thức mưu sinh của ngư dân, chúng tôi tranh thủ ý kiến của một số nhà nghiên cứu chuyên sâu về cộng đồng cư dân trong cả nước, như PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu (Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam), PGS. TS. Lâm Bá Nam (Hội Dân tộc học và Nhân học Việt Nam) - tham khảo nhiều lần trong quá trình điều tra tư liệu và viết luận án; hay các nhà quản lý có am hiểu về vùng ven biển Thanh Hóa như TS. Phạm Văn Tuấn (tham khảo ý kiến tháng 10/2016), TS. Nguyễn Văn Dũng (tham khảo ý kiến tháng 6/2016), Ông Lê Minh Châu - Hội nghề cá Thanh Hóa (tham khảo ý kiến tháng 7/2016). Các chuyên gia đã chỉ cho tôi hướng tiếp cận vấn đề, các kinh nghiệm điền dã (tiếp xúc và phỏng vấn ngư dân, những điểm lưu ý khi thu thập tư liệu, các kiêng kỵ của ngư dân), để tôi tiếp xúc với ngư dân được thuận lợi. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu về phương thức mưu sinh của cư dân trên một xã đảo cụ thể; chỉ ra những yếu tố tác động đến mưu sinh, đặc trưng về mưu sinh trước môi trường biển đảo; các khía cạnh xã hội và văn hóa liên quan đến mưu sinh của cư dân xã đảo Nghi Sơn. - Luận án nêu chỉ ra khó khăn và thách thức về mưu sinh của cư dân xã đảo Nghi Sơn, tạo cơ sở khoa học để cấp ủy, chính quyền địa phương tham 9 khảo trong việc đề ra các giải pháp giúp cộng đồng cư dân xã đảo khắc phục khó khăn, phát huy thuận lợi, phát triển theo hướng bền vững. - Luận án góp thêm tư liệu vào việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về phương thức mưu sinh, về ngư dân, làng xã người Việt. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận án góp phần chỉ ra cơ sở hình thành, tồn tại và biến đổi của phương thức mưu sinh; mối quan hệ của phương thức mưu sinh với các yếu tố môi trường, văn hóa, xã hội… qua thực tế địa bàn nghiên cứu. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Nêu những vấn đề đang đặt ra đối với phương thức mưu sinh của cư dân xã đảo Nghi Sơn, tạo cơ sở khoa học cho các cấp, các ngành có liên quan tham khảo trong việc đề ra các chính sách phát triển đối với xã đảo. - Là tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên nghiên cứu về cư dân vùng biển đảo. 7. Cơ cấu của luận án Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận án được chia thành 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và địa bàn nghiên cứu Chương 2: Các hình thức đánh bắt hải sản Chương 3: Các hình thức mưu sinh khác Chương 4: Các yếu tố xã hội và văn hóa liên quan đến hoạt động mưu sinh. 10 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về phương thức mưu sinh của cư dân biển và hải đảo 1.1.1.1. Những nghiên cứu của các học giả nước ngoài Vấn đề ngư dân và việc khai thác nguồn lợi biển được nhiều học giả trên thế giới quan tâm nghiên cứu trong thời gian qua. Cụ thể, trong Nhân học biển (Maritime Anthropology), có một số công trình tiêu biểu về ngư dân và nghề đánh bắt như sau: Trước tiên có thể kể đến các công trình nghiên cứu về vấn đề thích ứng với môi trường biển, khai thác nguồn lợi và các khía cạnh văn hóa, xã hội của cộng đồng ngư dân như Anthropology of fishing (Nhân học ngư nghiệp) của James M. Acheson (1981) thuộc bộ môn Nhân học, đại học Maine đã nói về quá trình làm quen và thích nghi với môi trường biển của con người. Và tác giả xem việc thích nghi với môi trường biển là thành tựu nổi bật của con người. Bức khảm văn hóa châu Á của Jonh Clammer (2001) đã nêu ra hệ thống tổ chức kinh tế và phương thức kiếm sống của nông dân, người chăn nuôi và ngư dân. Tác giả cho biết tổ chức kinh tế, xã hội của ngư dân thay đổi theo vị trí sinh thái, trình độ kỹ thuật và mối quan hệ của họ với chế độ kinh tế rộng lớn hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu của Jonh Clammer chưa đi sâu phân tích về văn hóa của ngư dân ở các quốc gia trong khu vực, những điểm tương đồng và khác biệt về phong tục, tập quán của họ. 11 Chandana Sarma thuộc bộ môn Nhân học, trường Đại học Cotton và A.N.M IrshadAli (2005) thuộc Sở Nhân chủng học, trường Đại học Gauhati đã cùng nhau nghiên cứu về kinh tế, xã hội cũng như sự biến đổi nghề nghiệp của cộng đồng ngư dân ở Assam, Ấn Độ. Bài viết “A Fishing Community of Assam, Their Society and Economy” (Cộng đồng ngư nghiệp Assam - xã hội và kinh tế) trên tạp chí Human ecology của hai tác giả đã đề cập đến nghề nghiệp, cấu trúc và tổ chức xã hội, các hoạt động đánh bắt của ngư dân ở làng Boripara thuộc ngoại ô thành phố Guwahati. Các tác giả cũng đã mô tả về công cụ đánh bắt cá của ngư dân trong các mùa, tổ chức lao động, tín ngưỡng, những điều kiêng kỵ và chỉ ra sự ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến cuộc sống của ngư dân, đặc biệt là sự thay đổi nghề nghiệp của thế hệ trẻ - một bộ phận ngư dân đã chuyển sang nghề khác. Tuy nhiên, các tác giả chưa chỉ ra nguyên nhân sâu xa của việc thay đổi nghề nghiệp của ngư dân và những định hướng có tính chiến lược phát triển bền vững nghề cá quy mô nhỏ ở đây. Edward W.Glazier (2006) thuộc Đại học Hawaii trong cuốn sách Hawaiian fishermen (case studies in cultural anthropology) (Ngư dân Hawaiian - Nghiên cứu về nhân học văn hóa), đã đề cấp đến các khía cạnh văn hóa của nghề cá ở Hawaii và mô hình đánh cá bằng thuyền nhỏ trong thời kỳ cả thế giới quan tâm đến vấn đề đại dương và tài nguyên biển. Tác giả cũng đề cập đến tương lai của nghề cá ở Hawaii, cũng như sự tồn tại của nghề biển trong giai đoạn biến đổi toàn cầu hiện nay. Có thể nói, cuốn sách là một điển hình trong nghiên cứu trường hợp về ngư dân với nghề cá quy mô nhỏ. Tuy nhiên, do tập trung vào một cộng đồng ngư dân với nghề cá quy mô nhỏ mà tác giả chưa so sánh với những cộng đồng ngư dân khác để thấy được điểm giống và khác nhau trong phương thức mưu sinh của ngư dân Hawaii với cộng đồng ngư dân khác. 12 Các công trình nghiên cứu về vấn đề quản lý nghề cá và việc phát triển bền vững nghề cá, tiêu biểu là Nhà nhân học Mỹ, James R. McGoodwin (1990) đã dành phần lớn thời gian của mình để nghiên cứu về cộng đồng ngư dân và quản lý nghề cá. Đã có nhiều các công trình nghiên cứu được xuất bản, trong đó tiêu biểu là cuốn Crisis in the wold’s fisheries: people, problems, and policies (Khủng hoảng ngư nghiệp trên thế giới: con người, các vấn đề tồn tại và chính sách). Công trình đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về các khía cạnh của nghề cá như văn hóa, kinh tế, chính trị, môi trường và những vấn đề đe dọa ngư dân trên thế giới. Đặc biệt, tác giả đã đánh giá một cách cơ bản về chính sách quản lý, khai thác nghề cá cũng như chia sẻ các quan điểm nhân học liên quan đến cộng đồng ngư dân thế giới. Tuy nhiên, nội dung cuốn sách chỉ đề cập đến nghiên cứu nghề cá ở tầm vĩ mô, chưa đề cập đến trường hợp cụ thể. Ricardo Perez (2005) trong cuốn The State and small - scale fisheries in Puerto Rico (Nhà nước và các cộng đồng ngư nghiệp quy mô nhỏ ở Puerto Rico), nghiên cứu dưới góc độ nhân học và lịch sử ở Puerto Rico từ năm 1996 đến năm 2002, đã đưa ra những lý do dẫn đến sự phát triển hạn chế của ngành công nghiệp đánh bắt cá quy mô nhỏ ở Puerto Rico. Viện dẫn cho lý do tại sao đánh bắt cá thương mại ở Puerto Rico vẫn không thể phát triển nhanh kể từ những năm 1950 đến nay, tác giả cho rằng chương trình hiện đại hoá ngành công nghiệp đánh bắt cá ở đây không phù hợp, ngư dân phụ thuộc quá nhiều vào sự hỗ trợ của nhà nước. Tác giả có một cái nhìn sơ lược về quá trình quản lý biển ở Puerto Rico. Ông cũng chỉ ra những mâu thuẫn trong việc phát triển nghề cá và bảo tồn nguồn lợi thủy sản của nhà nước. Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa đi sâu phân tích về văn hóa của cộng đồng ngư dân nơi đây. Cuốn Fisheries Management in Australia (Quản lý ngư nghiệp ở Úc) của Daryl Mc Phee (2008) đã phân tích toàn diện, đa chiều và có tính thực tế cao về vấn đề quản lý nghề cá ở Úc. Công trình cũng mang đến cho người 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan