ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG
QUAN HỆ CHÍNH TRỊ - NGOẠI GIAO GIỮA
VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC KHU VỰC
ĐÔNG BẮC Á THỜI KỲ 1986 - 2015
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam cận đại và hiện đại
Mã số: : 62.22.54.05
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2016
Công trình được hoàn thành tại: .............................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Quang Định
TS. Đỗ Thị Hạnh
Phản biện1:...........................................................................................
Phản biện2:...........................................................................................
Phản biện 3:..........................................................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp cơ sở đào
tạo họp tại
...............................................................................................................
vào hồi …… giờ……phút, ngày…….tháng……..năm ………………
Phản biện độc lập 1..............................................................................
Phản biện độc lập 2..............................................................................
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
Từ nửa sau của thập kỷ 80 thế kỷ XX, thế giới đã chứng kiến những đảo
lộn vô cùng to lớn làm thay đổi sâu sắc cục diện chính trị - an ninh, quân sự,
kinh tế, văn hóa và quan hệ quốc tế. Những biến đổi đó đã tác động mạnh mẽ
đến định hướng đường lối và chính sách đối ngoại của Việt Nam. Kết hợp với
yêu cầu bức thiết của tình hình trong nước là xóa bỏ thế bị bao vây, cấm vận
và tụt hậu về kinh tế đã dẫn đến những điều chỉnh quan trọng trong chiến lược
phát triển của Việt Nam. Trên cơ sở đó, từ năm 1986 Việt Nam đã tiến hành
đường lối đổi mới toàn diện trong đó đổi mới đường lối và chính sách đối
ngoại là một trong những nội dung quan trọng.
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương1, là địa bàn phát triển kinh tế năng động nhất của thế giới từ thập kỷ 80
thế kỷ XX. Lịch sử đã chứng minh sự vận động và phát triển của Việt Nam
phụ thuộc rất lớn vào việc xử lý thỏa đáng mối quan hệ giữa Việt Nam với các
nước trong khu vực này.
Đông Bắc Á là khu vực nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương,
song đây lại là một địa bàn quan trọng và phức tạp do sự hiện diện của nhiều
nước lớn trên thế giới. Chính vì vậy, diện mạo quan hệ quốc tế ở khu vực
Đông Bắc Á có thể được coi là hình ảnh thu nhỏ của diện mạo quan hệ quốc tế
trên thế giới.
Việt Nam là một quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á nhưng khu vực
Đông Bắc Á lại có vị trí và vai trò địa - chính trị rất quan trọng đối với Việt
Nam. Đông Bắc Á và Đông Nam Á là hai khu vực trong tổng thể khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương. Chính vì vậy, môi trường an ninh và phát triển ở
Đông Bắc Á và Đông Nam Á gắn kết chặt chẽ với nhau. Cho đến nay, hầu hết
các quốc gia lớn tại đây như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc đều là đối tác
chiến lược của Việt Nam. Mặt khác đây là một khu vực phát triển kinh tế năng
động với nhiều trung tâm kinh tế lớn, là đầu tàu của nền kinh tế thế giới. Phát
1
Trên bình diện quốc tế, khu vực là “ một vùng lãnh thổ được cấu tạo từ hai hay
nhiều quốc gia được phân định ranh giới cho một mục đích cụ thể nào đó” (chúng
tôi nhấn mạnh) (xem Phân định khu vực trong nghiên cứu quốc tế trong Hoàng Khắc
Nam (2014), Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử, Nxb CTQG
– ST, HN, Tr. 91 ). Như vậy thuật ngữ khu vực xuất phát đầu tiên từ góc độ địa lý ,
khu vực là một tập hợp các quốc gia nằm trong vùng đặc thù về địa lý ( Xem
Edward D. Mansfield & Helen V. Milner, The New Wave of Regionalism,
International Organization, Vol.53, No 3, Summer 1999, The MIT Press, tr. 590).
Đứng trên góc độ nghiên cứu quốc tế, khu vực là một khái niệm chỉ một phần
không gian của thế giới bao gồm một số quốc gia trong đó. Xuất phát từ các quan
niệm trên, trong luận án này, Châu Á – Thái Bình Dương, Đông Bắc Á và Đông Nam
Á được hiểu là những khu vực theo quan niệm đã nêu trên.
2
triển quan hệ toàn diện với khu vực này, Việt Nam sẽ tranh thủ được vốn, khoa
học - công nghệ và trình độ tổ chức quản lý, tạo điều kiện để hội nhập và phát
triển.
Để hội nhập với khu vực và quốc tế, cần phải nghiên cứu, đánh giá chính
xác tình hình các đối tác trong khu vực, làm cơ sở cho việc hoạch định đường
lối và chính sách với từng quốc gia một cách linh hoạt, tránh đẩy Việt Nam
vào tình thế phải lựa chọn quan hệ giữa các nước - đặc biệt là các nước lớn trong khu vực. Thực tế nêu trên đã đặt ra hàng loạt vấn đề như: Trong quan hệ
với các nước ở khu vực Đông Bắc Á, Việt Nam đã có những chủ trương, chính
sách như thế nào để xây dựng và phát triển các mối quan hệ? Thực tiễn quan
hệ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực Đông Bắc Á trong thời điểm
hiện tại đang vận động ra sao? Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
của nó xuất phát từ đâu? Triển vọng mối quan hệ này sẽ phát triển như thế
nào trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI? Tất cả các vấn đề nêu trên cần
phải được nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện nhằm đánh giá hiệu
quả của đường lối và chính sách đối ngoại mà Việt Nam đã thực thi với các
nước trong khu vực này để có thêm cơ sở khoa học nhằm tiếp tục hoàn thiện
đường lối, chính sách đối ngoại để Việt Nam hội nhập một cách có hiệu quả
vào khu vực và thế giới.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài:
“Quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Việt Nam với các nước khu vực Đông
Bắc Á thời kỳ 1986 - 2015” làm Luận án Tiến sĩ Sử học, chuyên ngành Lịch
sử Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chúng tôi quan niệm muốn nghiên cứu quan hệ chính trị - ngoại giao
giữa Việt Nam với các nước Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc phải xuất
phát từ đường lối và chính sách đối ngoại, coi đây là cơ sở để tiếp cận đề tài.
Tình hình nghiên cứu trong nước
Thứ nhất, các công trình liên quan trực tiếp đến đường lối và chính sách
đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới
Thứ hai, các công trình liên quan đến các quan hệ song phương giữa Việt
Nam với các nước khu vực Đông Bắc Á gồm có:
Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc
Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản
Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc
Thứ ba, Những công trình liên quan đến các lĩnh vực chính trị, chiến lược
và chính sách của các nước khu vực Đông Bắc Á
Các công trình nghiên cứu ngoài nước
3
Về công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, có thể điểm qua
một số công trình tiêu biểu như sau:
Carlyle A.Thayer, Ramses Amer (chủ biên) (1999), trong tác phẩm
“Vietnamese Foreign Policy in Transition” (Chính trị ngoại giao Việt Nam
trong sự chuyển đổi) đã giới thiệu về chủ nghĩa đa phương và sự de dọa của
diễn biến hoà bình ở Việt Nam, những vấn đề lý luận trong chính sách đối
ngoại của Việt Nam hiện nay và bình thuờng hoá quan hệ với Mỹ. Nội dung
công trình này còn đề cập đến quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong quá khứ,
hiện tại, tương lai và triển vọng trong thế kỷ XXI.
Derek Da Cunha trong cuốn Southeast Asian Perspectives on Security
(Viễn cảnh an ninh Ðông Nam Á) đã cung cấp một cái nhìn toàn cảnh về an
ninh khu vực Ðông Nam Á, xu hướng chiến lược và phát triển quân đội, phản
ứng của các quốc gia Ðông Nam Á đối với môi trường khu vực thời kỳ hậu
chiến tranh lạnh, vấn đề tranh chấp ở khu vực biển Ðông, nhận thức về Ðông
Nam Á của Nhật Bản và Trung Quốc.
Viết về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc có một số bài viết tiêu biểu như sau:
Ang Cheng Guan (1998), Vietnam - China Relations since the End of the
Cold War (Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc từ khi kết thúc chiến tranh lạnh),
Institute of Defence and Strategic Studies, Singapore đã tập trung phân tích
sự phát triển trong quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc kể từ khi hai nước
bình thường hóa vào tháng 11 năm 1991. Tác giả đề cập chủ yếu đến bốn vấn
đề tác động đến quan hệ hai nước và cho rằng tất cả các vấn đề đó đều có liên
quan đến vấn đề biên giới và lãnh thổ. Ngoài ra tác giả còn nhận định vấn đề
Hoàng Sa và Trường Sa khó có khả năng giải quyết được trong thời gian ngắn.
Carlyle A. Thayer, The Structure of Vietnam - China Relations, 1991 2008 (Cấu trúc quan hệ của Việt Nam - Trung Quốc 1991 - 2008) tập trung
vào phân tích quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc bao gồm các cấu trúc đa
phương và song phương quan trọng ảnh hưởng đến mối quan hệ này. Ngoài ra,
tác giả còn đánh giá thực chất cấu trúc của quan hệ song phương và đa phương
giữa Việt Nam - Trung Quốc nhằm giúp Việt Nam hiểu rõ và xây dựng chiến
lược quan hệ với Trung Quốc.
Viết về quan hệ Việt Nam – Nhật Bản có một số bài viết tiêu biểu như sau:
Masaya Siraishi (1990), trong công trình Japanese relation with Vietnam
1951 – 1987 ( Quan hệ Nhật Bản với Việt Nam 1951 – 1987) trình bày một
cách tổng quan về quan hệ Nhật Bản và Việt Nam sau khi kết thúc Chiến tranh
Thế giới thứ II cho đến thập niên 80. Công trình này còn phân tích sự điều
chỉnh lớn trong chiến lược của Nhật Bản với Việt Nam, qua đó quan hệ hai
nước đã đạt được nhiều thành công trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là quan hệ
chính trị và kinh tế.
4
Sueo Sudo (2002), trong tác phẩm The International Relations of Japan
and South East Asia: Forging a New Regionalism (Quan hệ quốc tế của Nhật
Bản và Ðông Nam Á: Tiến tới một chủ nghĩa khu vực mới) đã cung cấp bức
tranh tổng thể về tiến trình của mối quan hệ Nhật Bản - Ðông Nam Á thời kỳ
sau chiến tranh lạnh. Tác giả đã khái quát chính sách đối ngoại của Nhật Bản,
mối quan hệ giữa Nhật Bản với các nước Ðông Nam Á và coi đây là một
thành công của nền ngoại giao Nhật Bản.
Viết về chính sách đối ngoại của Hàn Quốc có một số công trình tiêu biểu
như Dlynn Faith Armstrong: South Korea’s Foreign Policy in the Post - Cold
War Era: A Middle Power Perspective (1997) (Chính sách đối ngoại của Hàn
Quốc trong kỷ nguyên sau Chiến tranh lạnh: triển vọng của một cường quốc
hạng trung). Đây là công trình viết về sự thay đổi chính sách đối ngoại của
Hàn Quốc sau chiến tranh lạnh với nhiều bước thăng trầm trong lịch sử ngoại
giao của Hàn Quốc.
Soong Hoom Kil và Chung In Moon (2001), Understanding Korean
Politics – An Introduction (Dẫn nhập về chính trị Hàn Quốc), New York
University đã tái hiện tương đối đầy đủ cơ sở lịch sử, chính trị, chính sách đối
ngoại và chính sách thống nhất dân tộc của Hàn Quốc từ sau chiến tranh lạnh.
Tóm lại, thông qua việc trình bày lịch sử nghiên cứu về quan hệ chính trị
- ngoại giao giữa Việt Nam với các nước khu vực Đông Bắc Á cho thấy, mặc
dù các công trình và bài viết ở trong và ngoài nước chưa bao quát toàn bộ nội
dung nghiên cứu của đề tài, chủ yếu chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề từ một
khía cạnh đơn lẻ hoặc một thời kỳ lịch sử cụ thể. Còn nhiều nội dung liên
quan đến đề tài chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ cần được tiếp tục tìm
hiểu như cơ sở hình thành, sự điều chỉnh chính sách của Việt Nam với các
nước trong khu vực, quá trình triển khai quan hệ trong thực tiễn cũng như
những thành công và hạn chế trong quá trình triển khai quan hệ chính trị ngoại giao nhưng vẫn là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng được tác giả sử
dụng, kế thừa có chọn lọc để hoàn thành luận án.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trình bày bức tranh toàn cảnh về tiến trình quan hệ chính trị - ngoại
giao giữa Việt Nam với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc thời kỳ 1986 đến
2015 từ đó đưa ra những nhận định và đánh giá
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án thực hiện một số nhiệm vụ sau đây:
- Trình bày cơ sở hình thành quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Việt
Nam với các nước khu vực Đông Bắc Á từ 1986 đến 2015.
- Trình bày quá trình triển khai và điều chỉnh đường lối, chính sách đối
ngoại của Đảng CSVN và Nhà nước Việt Nam đối với ba chủ thể lớn ở khu
5
vực Đông Bắc Á là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc qua hai thời kỳ từ
1986 – 1991 và từ 1992 - 2015
- Đưa ra một số nhận định, đánh giá về quan hệ chính trị - ngoại giao
giữa Việt Nam với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc trong giai đoạn lịch sử
30 năm qua (1986 - 2015).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tập trung trình bày quan hệ chính
trị - ngoại giao giữa Việt Nam với các nước Đông Bắc Á cụ thể là với Trung
Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc thời kỳ từ 1986 - 2015.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: không gian nghiên cứu của luận án xuất phát từ phía
Việt Nam là chủ thể trong quan hệ với các nước khu vực Đông Bắc Á cụ thể là
với các đối tác Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.
- Về thời gian, phạm vi thời gian nghiên cứu được xác định trong giai
đoạn từ 1986 đến 2015, trong đó luận án phân kỳ thời gian nghiên cứu theo
các mốc cụ thể như sau:
Từ 1986 đến 1991
Xuất phát từ góc độ Việt Nam, lấy Việt Nam là chủ thể của quan hệ
chính trị - ngoại giao nên chúng tôi đã chọn mốc khởi đầu là năm 1986, là thời
điểm Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện trên tất cả các
lĩnh vực. Trong lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam thực hiện chủ trương đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ, thể hiện sự điều chỉnh chính sách với các quốc
gia, các khu vực từ đó giành được những kết quả nhất định, từng bước đưa
Việt Nam thoát khỏi tình trạng tụt hậu về kinh tế, bị bao vây cấm vận và
khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Từ 1992 đến 2015
Năm 1992 là cột mốc lịch sử quan trọng được lựa chọn để phân kỳ việc
triển khai quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Việt Nam với các nước khu vực
Đông Bắc Á. Đây không chỉ là cột mốc lịch sử đánh dấu sự chuyển biến mạnh
mẽ trong tư duy về đường lối và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước
Việt Nam được hình thành từ Đại hội VI (12/1986) và được cụ thể hóa từ Đại
hội VII (6/1991) và trong các kỳ Đại hội tiếp theo, đồng thời còn phản ánh
thực tế lịch sử là quan hệ song phương giữa Việt Nam với Trung Quốc được
bình thường hóa vào tháng 11/1991, Nhật Bản khôi phục nguồn viện trợ phát
triển chính thức (ODA) vào tháng 11/1992 và quan hệ ngoại giao với Hàn
Quốc được thiết lập vào tháng 12/1992.
Mốc kết thúc của thời điểm nghiên cứu là năm 2015 là thời điểm kết
thúc nhiệm kỳ của Đại hội Đảng lần thứ XI, kết thúc kế hoạch phát triển kinh
6
tế xã hội 5 năm (2011 - 2015) đồng thời cũng là thời điểm tổng kết 30 năm
tiến hành công cuộc đổi mới của Việt Nam.
- Về nội dung, Luận án nghiên cứu quan hệ của Việt Nam với Trung
Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc với nội dung chính là tập trung vào quan hệ
chính trị - ngoại giao bao gồm: đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt
Nam, chính sách đối ngoại của Nhà nước CHXHCNVN, quá trình triển khai,
sự điều chỉnh chính sách đối ngoại từ 1986 đến 2015. Trên cơ sở đó đưa ra
những đánh giá và nhận định về kết quả của quá trình triển khai quan hệ chính
trị - ngoại giao giữa Việt Nam với các nước khu vực Đông Bắc Á.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Để hoàn thành luận án, chúng tôi sử dụng các nguồn tư liệu chính sau đây:
Thứ nhất: Văn kiện của các kỳ Ðại hội Ðại biểu toàn quốc ÐCSVN chủ
yếu từ Đại hội VI (1986) đến Đại hội XI (2011), Nghị quyết của Bộ Chính trị
và Ban Chấp hành Trung ương Ðảng; các tác phẩm, diễn văn, bài phát biểu,
trả lời phỏng vấn của các nhà lãnh đạo Ðảng và Nhà nước Việt Nam trong lĩnh
vực đối ngoại nói chung và các tài liệu liên quan đến các chuyến viếng thăm
cấp cao tại Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc nói riêng.
Các văn bản của Chính phủ, Bộ Ngoại giao, tài liệu phân tích, đánh giá
và tổng kết, báo cáo tổng hợp của một số bộ, ngành liên quan đặc biệt là của
Bộ Ngoại giao và Vụ Đông Bắc Á.
Ngoài ra luận án còn khai thác các Văn kiện của Đại hội Đảng Cộng sản
Trung Quốc, các văn bản của Chính phủ và Bộ Ngoại giao của các nước Trung
Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Thứ hai: Các Hiệp định, Thông cáo, Tuyên bố chung giữa Việt Nam với
Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Các tư liệu này được tiếp cận từ nguồn
thông tin của các phương tiện truyền thông đại chúng, chủ yếu từ internet.
Hai nguồn tư liệu nói trên được xem là tài liệu bậc 1 để chúng tôi tiếp cận
và khai thác trong quá trình thực hiện luận án.
Thứ ba: Các công trình nghiên cứu về quan hệ song phương giữa Việt
Nam với các nước Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, các kỷ yếu của hội
nghị, hội thảo khoa học, các luận văn, các bài nghiên cứu có liên quan do các
cơ quan nghiên cứu như Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội, Học viện Ngoại giao,
Viện Nghiên cứu Ðông Bắc Á, Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Thông Tấn Xã
Việt Nam đã công bố và tư liệu khai thác từ các công trình nghiên cứu của các
học giả và nhà nghiên cứu nước ngoài.
Thứ tư: Luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ và các nguồn tài liệu liên quan
khác hiện đang được lưu trữ tại Thư Viện Quốc gia, Thư viện Học viện Ngoại
Giao, Trung tâm Thông tin Thư viện ĐHQG Hà Nội và Thư viện trường
ĐHKHXH&NV – ĐHQG TP.Hồ Chí Minh.
7
5.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp luận
Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận sau đây:
- Phương pháp luận Mác xít nền tảng là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và đường lối, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ đối ngoại của Việt Nam.
- Phương pháp luận Sử học Mác xít
1. Phương pháp nghiên cứu
Đây là một công trình nghiên cứu về quan hệ chính trị - ngoại giao
trên góc độ của khoa học lịch sử, chúng tôi sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau đây:
Phương pháp lịch sử và phương pháp logic
Phương pháp phân tích và tổng hợp
Phương pháp thống kê
Ngoài ra, những phạm trù cơ bản của lý luận quan hệ quốc tế như vấn đề
chủ thể, quyền lực, công cụ và hệ thống trong quan hệ quốc tế, chủ quyền
quốc gia và lợi ích quốc gia – dân tộc được sử dụng như là các công cụ
phương pháp luận để phân tích các mối quan hệ quốc tế cụ thể.
Trong các phương pháp như vừa nêu trên, phương pháp lịch sử và
phương pháp logic là hai phương pháp chủ yếu được chúng tôi sử dụng để
nghiên cứu đề tài này.
6. Những đóng góp mới và ý nghĩa khoa học, thực tiễn của luận án
6.1. Đóng góp mới của luận án
- Luận án là công trình khoa học đầu tiên ở Việt Nam đặt vấn đề nghiên cứu
một cách toàn diện và hệ thống về quan hệ chính trị - đối ngoại giữa Việt
Nam với các nước khu vực Đông Bắc Á (1986 - 2015), góp phần khỏa lấp
khoảng trống trong các nghiên cứu về quan hệ chính trị - ngoại giao của Việt
Nam thời hiện đại.
6.2. Ý nghĩa khoa học
- Khẳng định sự điều chỉnh đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt
Nam đối với khu vực Đông Bắc Á cụ thể là với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn
Quốc trong giai đoạn này là đúng đắn và phù hợp với xu thế phát triển của
quan hệ quốc tế ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nói riêng và trên thế
giới nói chung.
- Phân tích những thành tựu và hạn chế trong quan hệ giữa Việt Nam với các
nước khu vực Đông Bắc Á, đưa ra những kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện
chủ trương hội nhập với khu vực và thế giới trong đường lối và chính sách đối
ngoại của Việt Nam.
8
6.3. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án (ở một mức độ nhất định) có thể được sử
dụng trong công tác tham mưu, tổng kết quá trình triển khai chính sách đối
ngoại của Việt Nam trong thời kỳ 1986 - 2015 cũng như hoạch định đường lối
và chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với các nước khu vực Đông Bắc Á
nói riêng, đường lối và chính sách đối ngoại của Việt Nam nói chung trong
thời gian tới.
- Luận án được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc giảng dạy,
học tập và nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến quan hệ đối ngoại nói
riêng cũng như chính sách đối ngoại của Việt Nam nói chung.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần dẫn luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận án được chia
thành 4 chương:
Chương 1: Cơ sở hình thành quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Việt Nam với
các nước khu vực Đông Bắc Á từ 1986 đến 2015
Chương 2: Quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Việt Nam với các nước khu vực
Đông Bắc Á từ 1986 đến 1991
Chương 3: Quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Việt Nam với các nước khu vực
Đông Bắc Á từ 1992 đến 2015
Chương 4: Đánh giá quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Việt Nam với các
nước khu vực Đông Bắc Á từ 1986 đến 2015
Chương 1
Cơ sở hình thành quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Việt Nam
và các nước khu vực Đông Bắc Á thời kỳ 1986 – 2015
1.1. Tình hình thế giới và khu vực
1.1.1. Những chuyển động lớn của tình hình thế giới
Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới trong bối cảnh quốc tế có nhiều
chuyển biến. Điều này đã chi phối lớn đến việc xây dựng đường lối đối ngoại
đổi mới của Việt Nam nói riêng và của các quốc gia trên phạm vi toàn thế
giới nói chung.
1.1.1.1. Cách mạng khoa học - công nghệ và sự tăng tốc của
toàn cầu hóa
Quá trình đổi mới của Việt Nam chịu tác động mạnh mẽ bởi sự bùng nổ
những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ bắt đầu từ giữa
thập niên 70 thế kỷ XX, đặc biệt là công nghệ thông tin đã tác động đến mọi
mặt đời sống quốc tế, thúc đẩy lực lượng sản xuất của thế giới phát triển
mạnh mẽ chưa từng thấy. Cuối những năm 80 thế kỷ XX, những tác động của
khoa học và công nghệ đã phát huy tác dụng làm thay đổi tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất, mở ra giai đoạn phát triển mới trong lịch sử nhân
9
loại dẫn đến sự ra đời của nền kinh tế tri thức khiến cho nhu cầu giao lưu, học
hỏi và chia sẻ thông tin ngày càng trở nên thiết yếu và không thể đảo ngược.
1.1.1.2. Liên Xô tan rã và sự chuyển biến từ trật tự thế giới cũ
sang trật tự thế giới mới
Quá trình khủng hoảng dẫn đến sự sụp đổ của CNXH ở Đông Âu và Liên
Xô cũng như sự tan rã của trật tự hai cực Yalta là chuyển biến quan trọng và to
lớn trong quan hệ quốc tế những năm cuối thế kỷ XX.
Đối với Việt Nam, Liên Xô sụp đổ khiến Việt Nam mất đi một chỗ dựa tin
cậy, một đồng minh chiến lược trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Thực tế đó khiến Việt Nam phải chủ động điều chỉnh đường lối, chính sách
đối ngoại của mình theo hướng vận động của tình hình thế giới và khu vực
theo xu thế đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế và hội nhập
kinh tế quốc tế.
1.1.1.3. Xu thế hòa hoãn giữa các nước lớn và hợp tác khu vực
trong quan hệ quốc tế
Xu thế hòa hoãn thể hiện rõ nhất trong mối quan hệ Liên Xô và Mỹ.
Tháng 3/1985 khi M. Gorbachev lên nắm quyền ở Liên Xô, với tư duy chính
trị mới, Liên Xô đã chủ động thực hiện chính sách hòa hoãn với Mỹ, tổ chức
các cuộc gặp gỡ cấp cao để giải quyết các vấn đề tranh chấp trong quan hệ
quốc tế. Tháng 12/1987, Liên Xô và Mỹ ký kết Hiệp ước thủ tiêu tên lửa hạt
nhân tầm trung và tầm ngắn (INF) ở Châu Âu và thỏa thuận giảm bớt chạy
đua vũ trang để tiến tới chấm dứt “Chiến tranh lạnh”.
Trong bối cảnh đó, các nước ASEAN phải thay đổi chính sách theo hướng
đẩy mạnh hợp tác nội bộ, coi hợp tác kinh tế là biện pháp để thúc đẩy hợp tác
an ninh – chính trị nhằm tạo thế cân bằng chiến lược mới giữa khu vực và các
cường quốc. Tình trạng đối đầu giữa khối ASEAN với nhóm các nước Đông
Dương cũng từng bước được cải thiện theo hướng gia tăng các cuộc đối thoại,
hội đàm song phương và đa phương nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển của
mỗi quốc gia.
1.1.2. Những chuyển biến của tình hình khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương
Xét ở góc độ khu vực Châu Á – Thái Bình Dương - với hai khu vực là
Đông Bắc Á và Đông Nam Á - những chuyển biến tình hình của các nước ở
khu vực này có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành và điều chỉnh đường
lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Nằm trong một môi trường có sự phát triển năng động về kinh tế như
vậy, Việt Nam có điều kiện để thực hiện công cuộc đổi mới vừa để để phát
triển về mọi mặt vừa có cơ hội để nâng cao vị thế của quốc gia trên trường
quốc tế.
I.1.2.1. Khu vực Đông Bắc Á
10
Về kinh tế, Đông Bắc Á là nơi tập trung nhiều cường quốc trên thế
giới, nơi hội tụ nhiều nền kinh tế lớn vào những thập kỷ cuối của thế kỷ XX.
Đến những năm đầu thế kỷ XXI, sự trỗi dậy mạnh mẽ của nền kinh tế Trung
Quốc đã thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Sự vận động và phát
triển của các nền kinh tế lớn ở khu vực này chi phối mạnh mẽ đến việc hình
thành những xu thế của quan hệ quốc tế hiện đại.
I.1.2.2. Khu vực Đông Nam Á
Trong tổng thể chính sách đối ngoại, Việt Nam luôn coi trọng và dành
ưu tiên cho quan hệ với các nước láng giềng, khu vực. Các nước ASEAN có vị
trí đặc biệt đối với Việt Nam vì có nhiều nét tương đồng về văn hóa, có quan
hệ láng giềng, truyền thống và gắn bó chặt chẽ về an ninh, chính trị kinh tế.
1.1.2.3. Việc giải quyết vấn đề Campuchia
Đây được xem là một trong những nhân tố tác động mạnh mẽ đến việc
chuyển biến trong quan hệ quốc tế tại khu vực Đông Nam Á nói riêng và khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương nói chung.
1.2.1. Nhu cầu phá thế bao vây, cấm vận và tăng cường quan hệ
đối ngoại
Từ nửa sau thập niên 70 của thế kỷ XX, Việt Nam rơi vào tình trạng bị
bao vây, cô lập trong quan hệ đối ngoại từ các thế lực bên ngoài. Sự đối đầu và
thù địch của Mỹ và các nước khác với Việt Nam sau năm 1975 và đặc biệt sau
sự kiện Việt Nam gửi quân tình nguyện sang giúp đỡ nhân dân Campuchia đã
tạo ra tình trạng căng thẳng, mất ổn định tại khu vực. Việt Nam bị rơi vào tình
thế bị bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã
hội nghiêm trọng. Thực trạng này đã dẫn đến một yêu cầu cấp bách đối với
Việt Nam là phải giải tỏa tình trạng căng thẳng, đối đầu thù địch, phá thế bao
vây, cấm vận tiến tới bình thường hóa mở rộng hợp tác với các nước tạo môi
trường quốc tế thuận lợi để tập trung phát triển kinh tế.
1.2.2. Nhu cầu chống tụt hậu về kinh tế
Sau năm 1975, khi Việt Nam chưa kịp khắc phục hậu quả nặng nề do
chiến tranh thì lại phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh biên giới phía Tây
Nam và phía Bắc cùng tình trạng bị bao vây, cô lập ngặt nghèo.
Để chống nguy cơ tụt hậu, một mặt Việt Nam phải phát huy nguồn lực
trong nước, mặt khác phải tranh thủ các nguồn lực bên ngoài. Muốn giải tỏa
được những khó khăn này, Việt Nam phải mở rộng tăng cường hợp tác kinh tế
với các nước ở khu vực và trên thế giới và tham gia vào cơ chế hợp tác đa
phương.
1.3. Đường lối và chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ
1986 - 2015
Trước những thay đổi to lớn của cục diện thế giới và khu vực, nhu cầu
cấp bách thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội gay gắt ở trong nước
11
và sự cô lập quốc tế do vấn đề Campuchia, Đại hội VI của Đảng CSVN đã
từng bước điều chỉnh chính sách đối ngoại.
Đại hội VI (12/1986) đã đề ra nhiệm vụ đối ngoại là phải giữ vững
hoà bình và tranh thủ điều kiện bên ngoài thuận lợi cho công cuộc phát triển
kinh tế, xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc.
Trước những chuyến biến của tình hình quốc tế, tháng 5/1988, Bộ Chính
trị đã ban hành Nghị quyết 13 về Nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình
hình mới.
Tiếp theo Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị, Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ VI (3/1989) còn vạch rõ cần phải chuyển mạnh hoạt động ngoại
giao từ quan hệ chính trị là chủ yếu sang quan hệ chính trị - kinh tế, mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bước sang năm 1991, trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực có
nhiều biến động, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6/1991) đã tiếp tục thể
hiện tư duy đổi mới trong lĩnh vực đối ngoại bằng tuyên bố: “Việt Nam muốn
là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình,
độc lập và phát triển”. [46; 286]
Đến Đại hội IX (4/2001) khi thế và lực đã thay đổi, Việt Nam tiếp tục
khẳng định thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng,
đa phương hóa đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đặc biệt sau sự kiện ngày
11/9/2001, đã làm cho thế giới bất an và chia rẽ sâu sắc hơn. Trong bối cảnh
phức tạp của thời kỳ sau chiến tranh lạnh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã triệu
tập Hội nghị Trung ương lần thứ VIII khóa IX và ra Nghị quyết về “Chiến
lược bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ mới”. Nghị quyết thể hiện sự sáng tạo
trong việc nắm bắt kịp thời xu thế của thời đại, đặc biệt khi đề cập đến vấn đề
đối tượng và đối tác.
Tiếp đó Đại hội Đảng lần thứ X (4/2006) chỉ rõ: Việt Nam là bạn là đối
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến
trình hợp tác quốc tế và khu vực. Đến Đại hội XI (2011), Đảng Cộng sản Việt
Nam tiếp tục khẳng định Việt Nam “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước
Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa giàu mạnh”[46; 742]. Điểm mới trong chính sách
đối ngoại của Việt Nam được thể hiện qua Đại hội Đảng lần thứ X và XI là để
cập đến việc tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và là thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Để hoàn thiện chủ trương hội nhập quốc tế ngày 10/4/2013, Bộ Chính trị
ra Nghị quyết số 22 về hội nhập quốc tế với quan điểm chỉ đạo chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
12
Chương 2
Quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Việt Nam với các nước khu vực Đông
Bắc Á từ 1986 đến 1991
2.1. Khái quát quan hệ giữa Việt Nam với các nước khu vực Đông
Bắc Á trước năm 1986
2.1.1. Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc
Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc là mối quan hệ đặc biệt do hai nước
là láng giềng có chung biên giới trên bộ và trên biển, lại có quá trình gắn bó
tương đồng về văn hóa lịch sử. Việt Nam đã từng là đối tượng xâm lược của
các thế lực phong kiến Trung Quốc. Điều này đã làm cho quan hệ Việt Nam –
Trung Quốc trong lịch sử trở nên vô cùng phức tạp và nhạy cảm.
Từ cuối thế kỷ thứ II trước Công nguyên đến nửa đầu thế kỷ thứ X sau
Công nguyên, Việt Nam chịu sự thống trị trực tiếp của Trung Quốc trong một
nghìn năm cho đến khi giành được độc lập. Chiến thắng Bạch Đằng năm 938
do Ngô Quyền lãnh đạo đã kết thúc thời kỳ Bắc thuộc, mở ra kỷ nguyên mới
cho dân tộc Việt Nam – kỷ nguyên độc lập và phát triển và cơ sở chủ yếu để
xây dựng quan hệ ngoại giao giữa hai nước là sách phong và triều cống.
Cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa ra đời ngày 1/10/1949. Ngày 18/01/1950 nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong bối cảnh đó, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam đã
nhận được sự giúp đỡ to lớn của Trung Quốc.
Đến những năm tháng cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ quan hệ
Việt – Trung lại bắt đầu có biểu hiện rạn nứt. Sau khi Việt Nam thống nhất đất
nước, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc dần chuyển biến theo chiều hướng xấu
dẫn đến chiến tranh Biên giới bùng nổ vào tháng 02/1979. Với sự kiện này,
quan hệ hai nước bước vào thời kỳ đối đầu gay gắt.
2.1.2. Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản
Việt Nam và Nhật Bản là hai nước có nhiều nét tương đồng về văn hóa
và những liên hệ lịch sử. Đây là chất keo tự nhiên gắn kết hai dân tộc. Những
mối liên hệ lịch sử giữa hai nước đã bắt đầu từ rất sớm, thể hiện qua giao lưu
văn hóa và thương mại.
Từ thế kỷ XVI đã có nhiều thương gia Nhật Bản đến kinh doanh tại Việt
Nam. Phong trào Đông Du của Phan Bội Châu và Duy Tân của Phan Chu
Trinh không chỉ là những dấu mốc quan trọng trong lịch sử phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam mà còn là minh chứng cho sự giao lưu
nhân dân, thể hiện mong muốn học hỏi của người Việt từ những thành công
của Nhật Bản thời kỳ cận đại.
Năm 1940, Nhật đưa quân vào chiếm đóng Việt Nam, sau năm 1954,
13
Việt Nam bị chia cắt thành hai miền, Nhật Bản chỉ có quan hệ với Việt Nam
Cộng hòa không thiết lập quan hệ với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau khi Hiệp Paris được ký kết tháng 01/1973, Việt Nam thiết lập quan
hệ ngoại giao chính thức với Nhật Bản vào tháng 09/1973. Sau năm 1975, hai
bên trao đổi Đại sứ và ký Thoả thuận về việc chính phủ Nhật Bản bồi thường
chiến tranh cho Việt Nam, dưới danh nghĩa viện trợ không hoàn lại của chính
phủ Nhật Bản, với tổng số tiền là 13,5 tỷ Yên tương đương khoảng 49 triệu
USD. Đầu năm 1976, Nhật Bản và Việt Nam đã thành lập Đại sứ quán ở thủ
đô mỗi nước và tiến hành đàm phán giải quyết các vấn đề tồn đọng trong quá khứ.
Có thể nói quan hệ Việt Nam – Nhật Bản từ sau năm 1975 đến năm 1986
là thời kỳ phát triển không bình thường. Một mặt, Nhật Bản cùng với Mỹ và
các nước ASEAN chống đối Việt Nam xoay quanh vấn đề Campuchia nhưng
cũng đã phản đối việc Trung Quốc tấn công Việt Nam vào tháng 02/1979.
Nhật Bản đã sớm nhìn thấy vị trí của Việt Nam trong chính sách đối ngoại của
mình ở Châu Á – Thái Bình Dương nên vẫn giữ quan hệ nhất định với Việt
Nam.
2.1.3. Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc
Việt Nam – Hàn Quốc có mối quan hệ bang giao từ rất sớm, ngay từ thời
kỳ trung đại nhân dân hai nước đã có những hiểu biết nhất định về nhau. Đến
thời cận - hiện đại, hai nước đều nằm dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực
dân, cùng trải qua những năm tháng gian khổ của sự chia cắt đất nước và sau
đó bắt tay tái thiết đất nước trên sự đổ nát hoang tan do chiến tranh để lại.
Sau năm 1954, Hàn Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam
Cộng hòa, trở thành đồng minh của Mỹ và đưa quân tham chiến trong cuộc
chiến tranh Việt Nam và không thiết lập quan hệ với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau tháng 4/1975, trong gần hai thập niên kể từ sau khi Việt Nam thống
nhất đất nước, do nhiều nguyên nhân khác nhau, Việt Nam – Hàn Quốc vẫn
chưa có quan hệ ngoại giao chính thức. Tuy nhiên, từ sau tháng 4/1975 cho
đến năm 1992, giữa hai nước vẫn có một số quan hệ kinh tế không chính thức.
Vốn là đồng minh của Mỹ, Hàn Quốc không khỏi bị chi phối bởi chính sách
thù địch này nên quan hệ giữa Việt Nam – Hàn Quốc cũng bị phủ lên bầu
không khí băng giá.
2.2. Nhân tố tác động đến quan hệ quan hệ chính trị - ngoại giao
giữa Việt Nam với các nước khu vực Đông Bắc Á
Đường lối và chính sách đổi mới của Việt Nam trong 30 năm qua là
một quá trình vận động với nhiều những điều chỉnh. Lịch sử quan hệ chính trị
- ngoại giao của Việt Nam với các nước Đông Bắc Á là một mảng của lịch sử
vận động và điều chỉnh này. Các nhân tố sau đây có ý nghĩa quyết định và chi
phối đến sự hình thành và vận động của quan hệ giữa Việt Nam với Trung
Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.
14
2.2.1. Bình thường hóa và thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Liên Xô
với các nước khu vực Đông Bắc Á
2.2.2. Xu thế hình thành sự hợp tác kinh tế khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương
2.2.3. Đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam từ
nửa sau thập kỷ 80
2.2.4. Những chuyển động trong việc giải quyết vấn đề Campuchia
Tóm lại, phân tích một số yếu tố quốc tế và trong nước cho thấy đây là
những nhân tố tác động mạnh tới quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Việt Nam
với các nước khu vực khu vực Đông Bắc Á trong giai đoạn này, mở đường
cho việc điều chỉnh đường lối và chính sách cũng như triển khai quan hệ giữa
Việt Nam với các nước khu vực Đông Bắc Á trong giai đoạn tiếp theo.
2.3. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với các
nước ở khu vực Đông Bắc Á
2.3.1. Đối với Trung Quốc
Trung Quốc vừa là một nước lớn vừa là láng giềng của Việt Nam. Trong
cả bốn ưu tiên của Việt Nam khi xây dựng chính sách đối ngoại thời kỳ đổi
mới, Trung Quốc hội tụ đầy đủ các yếu tố ưu tiên đó. Xuất phát từ lợi ích quốc
gia - dân tộc, trong chính sách đối ngoại của mình, Việt Nam luôn mong muốn
phát triển tốt quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện với Trung Quốc.
Trong Đại hội lần thứ VI (12/1986), Việt Nam chủ trương phấn đấu bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam kêu gọi và khẳng định sẵn
sàng đàm phán với Trung Quốc bất cứ cấp nào, bất cứ ở đâu nhằm lợi ích của
hai nước. Tiếp theo, Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (5/1988) chỉ rõ cần có
chính chính sách lâu dài và toàn diện để khắc phục tình trạng đối đầu trong
quan hệ với Trung Quốc.
Trong báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội Đảng
lần thứ VII (6/1991) chỉ rõ: “Thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc, từng bước mở rộng sự hợp tác Việt – Trung, giải quyết những
vấn đề tồn tại giữa hai nước thông qua thương lượng” [46; 215].
2.3.2. Đối với Nhật Bản
Nhật Bản là quốc gia có tiềm lực kinh tế to lớn, có vai trò quan trọng
trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, phát triển tốt quan hệ với Nhật Bản
sẽ là cầu nối để Việt Nam nâng cao uy tín và có được tiếng nói ủng hộ trong
quan hệ quốc tế ở khu vực.
Đại hội VI (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới chính sách đối ngoại
rộng mở, khẳng định “Nhà nước ta chủ trương tăng cường và mở rộng quan
hệ hữu nghị với…(…) Nhật Bản trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi” [46; 84].
Tiếp đó Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (5/1988) lần đầu tiên Việt Nam nêu
rõ: “ta cần có chính sách tích cực thúc đẩy quan hệ kinh tế, khoa học kỹ thuật
15
với Nhật Bản” [46; 13]. Đây là định hướng rất quan trọng trong việc điều
chỉnh chính sách của Việt Nam đối với Nhật Bản.
2.3.4. Đối với Hàn Quốc
Thực hiện chủ trương của Nghị quyết 13 về việc “từng bước mở rộng
quan hệ với các nước công nghiệp mới, giải quyết đúng đắn mâu thuẫn giữa
mặt chính trị và kinh tế với những trường hợp đặc biệt như Nam Triều Tiên…”
[39; 14] Việt Nam đã tiến hành các bước thúc đẩy quan hệ với Hàn Quốc.
2.4. Quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Việt Nam với các nước
khu vực Đông Bắc Á
2.4.1. Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc
Khoảng thời gian từ 1986 đến 1991 là giai đoạn bản lề trong quan hệ
chính trị - ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Từ năm 1989, Trung Quốc đã bắt đầu có những tín hiệu cho việc bình
thường hóa song vẫn dùng vấn đề Campuchia làm điều kiện cho quá trình bình
thường hóa quan hệ Việt Nam – Trung Quốc. Ngày 08/5/1989 trong cuộc đàm
phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao tại Bắc Kinh, Trung Quốc cho rằng: bình
thường hóa quan hệ chỉ được thực hiện sau khi vấn đề Campuchia đã được
giải quyết, không phải trước đó.
Ngày 12/01/1990, Đại sứ Trung Quốc gặp Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch
chuyển thông điệp miệng của Trung Quốc tới Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh
về mong muốn bình thường hóa quan hệ hai nước.
2.4.2 Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản
Sau một thời gian bị gián đoạn, kể từ sau năm 1989, quan hệ giữa Việt
Nam và Nhật bắt đầu ấm lên và thực sự có những chuyển động tích cực. Sự
chuyển biến đó được đánh dấu bằng các cuộc viếng thăm giữa quan chức hai nước.
Mở đầu là chuyến viếng thăm Nhật Bản ngày 22 đến 27 /10/1990 của
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Đây là lần đầu tiên một quan chức
cấp Bộ trưởng của Việt Nam tới Nhật Bản kể từ sau năm 1978. Tiếp đó, từ
ngày 10 – 14/6/1991, Ngoại trưởng Nhật Bản Taro Nakayama thăm chính thức
Việt Nam. Đây cũng là lần đầu tiên một quan chức cấp Bộ trưởng của Nhật
Bản viếng thăm Việt Nam kể từ khi Nhật Bản thiết lập Đại sứ quán tại Việt
Nam năm 1976.
2.4.3. Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc
Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc vẫn chưa thiết lập quan
hệ chính trị - ngoại giao. Tuy không có quan hệ chính thức nhưng trong thực
tế giữa hai nước vẫn duy trì một số quan hệ không chính thức trên lĩnh vực
kinh tế, cụ thể trong quan hệ buôn bán tư nhân qua trung gian Hồng Kông và
Nhật Bản.
Năm 1991, Việt Nam và Hàn Quốc bắt đầu bàn đến vấn đề bình
thường hóa quan hệ hai nước thông qua Đại sứ Hàn Quốc tại Thái Lan. Ngày
16
23 - 12 – 1991, phái đoàn đàm phán thiết lập quan hệ Hàn Quốc – Việt Nam
do Đại sứ Hàn Quốc tại Thái Lan là Jeong Ju Nyon dẫn đầu đã đến Việt Nam.
Phái đoàn đã thực hiện cuộc hội đàm lần thứ nhất với Thứ trưởng Ngoại giao
Việt Nam Lê Đức Cang. Tháng 01/1992, chính phủ Hàn Quốc lần đầu tiên cho
phép doanh nghiệp của nước mình trực tiếp đầu tư vào Việt Nam. Từ ngày
30/3 đến ngày 2/4/1992, hai bên tiếp tục có cuộc hội đàm lần thứ hai tại Việt
Nam. Kết quả của cuộc hội đàm là Việt Nam và Hàn Quốc đã ký thỏa thuận
trao đổi Văn phòng liên lạc vào ngày 20/4 /1992. Ngày 22/12/1992 Bộ trưởng
Ngoại giao Hàn Quốc thay mặt cho chính phủ Hàn Quốc chính thức ký kết các
hiệp ước hợp tác và đặt quan hệ ngoại giao cấp đại sứ với Việt Nam.
Chương 3
Quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Việt Nam với các nước
khu vực Đông Bắc Á từ 1992 đến 2015
3.1. Nhân tố tác động đến quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Việt
Nam với các nước khu vực Đông Bắc Á
3.1.1. Sự điều chỉnh chiến lược đối ngoại của các nước lớn ở khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương thời kỳ sau chiến tranh lạnh
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc vào cuối thập kỷ 80 đầu 90 thế kỷ
XX và Liên Xô giải thể vào tháng 12/1991, trật tự hai cực Yalta sụp đổ, thế
giới dần vận động theo hướng hình thành trật tự mang tính đa cực. Chiến lược
đối ngoại của các nước nói chung như Mỹ, Liên bang Nga, Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc và các nước ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã có
những điều chỉnh quan trọng.
Như vậy, sự điều chỉnh chiến lược đối ngoại của các cường quốc đối
với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nói chung và Đông Bắc Á nói riêng
sau chiến tranh lạnh đã tác động mạnh mẽ đến cục diện khu vực, làm xuất hiện
những phương thức tập hợp lực lượng mới, cơ động, linh hoạt nhưng cũng rất
phức tạp. Trong bối cảnh đó, các nước vừa và nhỏ thường thực hiện chính
sách duy trì quan hệ cân bằng với các nước lớn đồng thời tìm cách tận dụng
những cơ hội nảy sinh từ chính những mâu thuẫn trong quan hệ giữa các nước
lớn với nhau để bảo vệ một cách có hiệu quả lợi ích của mình. Quan hệ giữa
Việt Nam với các nước trong khu vực Đông Bắc Á cũng không nằm ngoài tác
động của sự điều chỉnh này.
3.1.2. Chủ trương hội nhập của Việt Nam vào khu vực Đông Nam Á
và Châu Á – Thái Bình Dương
Bước sang năm 1991 trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động phức
tạp, các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã sụp đổ và Liên Xô đang khủng
hoảng cực kỳ nghiêm trọng, trên quan điểm Việt Nam muốn là bạn với tất cả
17
các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Bước sang năm 1996, Việt Nam đã thể hiện sự điều chỉnh mạnh mẽ
trong đường lối và chính sách với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Trong
định hướng phát triển về chính sách đối ngoại, Văn kiện Đại hội VIII chỉ rõ
“coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị
trên thế giới” [46; 363]
Bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam đã thể hiện chủ trương hội nhập khu
vực trong Báo cáo của BCHTW Đảng tại Đại hội Đảng lần thứ IX (4/2001) về
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 chỉ rõ: Châu Á – Thái Bình
Dương vẫn là khu vực phát triển năng động. Đại hội Đảng lần thứ X (4/2006),
vẫn khẳng định xu thế hòa bình hợp tác và phát triển ở khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng tiếp tục gia tăng, hợp tác
trong khu vực ngày càng mở rộng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển của mỗi quốc gia.
Trong Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng tại Đại hội Đảng lần thứ
XI (4/2011) tiếp tục khẳng định nhận thức về vai trò của khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương trong đó có khu vực Đông Nam Á vẫn là khu vực phát triển
năng động.
Như vậy chủ trương hội nhập khu vực Châu Á – Thái Bình Dương với
hai đầu tầu kinh tế là Đông Bắc Á và Đông Nam Á - được thể hiện trong quá
trình đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng bắt đầu từ Đại hội VII (6/1991) - là
yếu tố quan trọng tác động mạnh mẽ đến quan hệ đối ngoại của Việt Nam nói
chung đồng thời cũng là tiền đề dẫn đến việc điều chỉnh và triển khai quan hệ
chính trị - ngoại giao giữa Việt Nam với các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc từ năm 1992 đến nay.
3.2. Sự phát triển chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với các
nước khu vực Đông Bắc Á
3.2.1. Với Trung Quốc
Sau khi bình thường hóa quan hệ Việt – Trung vào năm 1991, quan hệ hai
nước bước vào thời kỳ phát triển mới, tuy nhiên, Việt Nam vẫn luôn nhìn nhận
mối quan hệ này ở tính hai mặt vừa hợp tác vừa đấu tranh trong quan hệ đối
ngoại song phương. Mặc dù Việt Nam đã rất linh hoạt trong việc điều chỉnh
chính sách với Trung Quốc nhằm duy trì quan hệ hữu nghị giữa hai nước, song
vấn đề nổi cộm diễn ra trong nhiều năm là tranh chấp biên giới lãnh thổ trên
Biển Đông vẫn là một trở ngại không nhỏ trong việc duy trì quan hệ hai nước.
3.2.2. Với Nhật Bản
Sau Chiến tranh lạnh, Việt Nam điều chỉnh chính sách đối ngoại theo
hướng tăng cường phát triển quan hệ song phương với Nhật. Bước sang thế kỷ
XXI, thực hiện mục tiêu chiến lược là điều chỉnh chính sách đối ngoại ở khu
vực Đông Nam Á và Châu Á – Thái Bình Dương, Việt Nam chủ trương tăng
18
cường quan hệ Việt Nam – Nhật Bản trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam chủ
trương không coi sự khác nhau về chính trị giữa hai nước là một cản trở cho
việc cải thiện và tăng cường quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản và đề nghị
Nhật Bản tăng cường đối thoại chính trị nhằm đạt được sự hiểu biết và tin cậy
lẫn nhau.
3.2.3. Với Hàn Quốc
Sau hơn 20 năm thiết lập quan hệ chính trị - ngoại giao kể từ năm 1992,
về phía Việt Nam đã có nhiều chuyến viếng thăm của các nhà lãnh đạo Việt
Nam sang Hàn Quốc.
Khi Việt Nam nâng cấp và khẳng định quan hệ đối tác chiến lược với
Hàn Quốc thì Hàn Quốc là quốc gia thứ năm, sau Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và
Nhật Bản trở thành quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam. Quyết định này
được đưa ra vào thời điểm quan trọng đối với cả hai nước. Hàn Quốc đang
thực hiện chính sách “Ngoại giao châu Á mới” và trở thành Chủ tịch G20,
còn Việt Nam là Chủ tịch ASEAN vào năm 2010. Việc hai nước quyết định
nâng tầm quan hệ trong thời điểm này cho thấy đây vừa là một nhu cầu tất yếu
vừa là thời điểm thích hợp đối với quan hệ giữa hai nước.
3.3. Quan hệ chính trị - ngoại giao của Việt Nam với các nước khu
vực Đông Bắc Á
3.3.1. Quan hệ song phương
3.3.1. 1. Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc
3.3.1.1.1. Đối ngoại Đảng
Quan hệ giữa hai Đảng cầm quyền là kênh quan trọng hàng đầu trong
việc thúc đẩy, xây dựng quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, là cơ sở
để định hướng cho các quan hệ khác phát triển.
3.3.1.1.2. Quan hệ Nhà nước
Từ sau khi bình thường hóa quan hệ cho tới năm 2015, quan hệ về
mặt Nhà nước giữa Việt Nam và Trung Quốc diễn ra thường xuyên và liên tục.
Các cuộc viếng thăm cấp cao có ý nghĩa quan trọng, tác động mạnh mẽ đến sự
hợp tác và phát triển của hai bên. Điều đó hoàn toàn phù hợp với nhu cầu phát
triển của cả hai nước đồng thời vừa phù hợp với xu thế phát triển của quan hệ
quốc tế, khu vực và thế giới. Đây là tiền đề nâng cấp quan hệ Việt Nam –
Trung Quốc từ quan hệ hợp tác toàn diện lên quan hệ đối tác chiến lược.
3.3.1.1.3. Quan hệ về vấn đề biên giới và lãnh thổ
Có thể nói, vấn đề gai góc nhất do lịch sử để lại trong quan hệ chính
trị - ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc chính là vấn đề biên giới lãnh
thổ trong đó bao gồm vấn đề biên giới trên đất liền và biên giới trên biển.
Trong vấn đề biên giới trên biển còn tồn tại hai vấn đề còn tranh chấp là biên
giới trên Vịnh Bắc bộ và vấn đề chủ quyền trên Biển Đông. Vì vậy, sau khi
bình thường hóa quan hệ vào tháng 11/1991, lãnh đạo cấp cao hai nước đã
19
- Xem thêm -