Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan hệ ngoại giao việt nam - canada từ năm 1973 đến 2008...

Tài liệu Quan hệ ngoại giao việt nam - canada từ năm 1973 đến 2008

.PDF
103
494
137

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THÚY QUỲNH QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM - CANADA TỪ NĂM 1973 ĐẾN 2008 LUẬN VĂN THẠC SĨ (Chuyên ngành: Châu Á học) Hà Nội – 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THÚY QUỲNH QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM - CANADA TỪ NĂM 1973 ĐẾN 2008 Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Châu Á học Mã số: 60.31.50 Người hướng dẫn khoa học: PGS. Nguyễn Quốc Hùng Hà Nội – 2012 2 MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 2 LỜI MỞ ĐẦU 3 CÁC NHÂN TỐ CHỦ YẾU CHI PHỐI MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM – CANADA 8 1.1. Nh×n l¹i quan hÖ ViÖt Nam - Canada tr-íc 1973 8 1.2. Bối cảnh quốc tế và các nhân tố của quan hệ Việt Nam Canada từ 1973 – 2008 12 QUAN HỆ VIỆT NAM – CANADA 1973 - 2008 26 Chính sách đối ngoại của Việt Nam và chính sách đối ngoại của Canada trong quan hệ hai nƣớc 26 Chƣơng 1 Chƣơng 2 2.1 2.1.1. Chính sách đối ngoại của Việt Nam với Canada 26 2.1.2. Chính sách đối ngoại của Canada với Việt Nam 29 Thực trạng quan hệ Việt Nam – Canada 1973 - 2008 2.2. 33 2.2.1. Về chính trị ngoại giao 33 2.2.2. Về kinh tế thương mại 40 2.2.3. Về đầu tư 52 2.2.4. Về viện trợ phát triển 57 2.2.3. Hợp tác văn hóa giáo dục 62 Chƣơng 3 ®¸nh gi¸ chung vµ TriÓn väng cña quan hÖ ngo¹i giao ViÖt nam – Canada 69 3.1. Thuận lợi 69 3.2 Khó khăn 72 KẾT LUẬN 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO 77 3 PHỤ LỤC 80 4 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT APEC Asian Pacific Economic Cooperation Tổ chức Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương ARF ASEAN region Forum Diễn đàn khu vực ASEAN ASEAN Association of South East Asian Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á CIDA Cơ quan phát triển quốc tế Canada FIPA Hiệp định Bảo hộ đầu tư nước ngoài IMF International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ quốc tế NAFTA North American Free Trade Area Khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mỹ NATO North Atlantic Treaty Organization Hiệp ước Quân sự Bắc Đại Tây Dương NGO Non Government Organization Tổ chức phi chính phủ OECD: Oganization for Economic Co-operation and Development Tổ chức Hợp tác & Phát triển kinh tế WB: World Bank Ngân hàng Thế giới WTO: World trade Organization Tổ chức thương mại thế giới 5 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Canada là một quốc gia có chính sách đối ngoại rộng mở và cũng là một trong số rất ít các quốc gia không có lịch sử xâm chiếm thuộc địa, mà lại có truyền thống lịch sử hoạt động tích cực, mang tính xây dựng trong các diễn đàn đa phương quốc tế cũng như vai trò trung gian hòa giải các tranh chấp quốc tế, thúc đẩy hòa bình và thịnh vượng trên toàn thế giới. Các mối quan tâm đặc biệt, các mục tiêu cụ thể trong chính sách đối ngoại của Canada cũng như các cách thức để theo đuổi mục tiêu phù hợp với nhiều quốc gia trên thế giới. Trong nhiều thập kỷ qua, Canada đã phát huy và sử dụng hợp lý những yếu tố nội lực và ngoại lực để phục vụ các mục tiêu phát triển đất nước và hợp tác quốc tế. Đối với Việt Nam, Canada đã sớm có mặt tại Việt Nam trong vai trò là thành viên của Ủy ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế (ICCS) sau hiệp định Geneva về Đông Dương năm 1954. Tuy nhiên tại thời điểm đó quan hệ giữa hai nước còn mờ nhạt, chủ yếu là quan hệ giữa Canada và chính quyền miền Nam Việt Nam. Đến năm 1973, quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ cộng hòa với Canada mới chính thức được thiết lập. Kể từ đó đến nay, quan hệ giữa hai nước đã không ngừng phát triển, Canada đã ủng hộ quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Canada và Việt Nam là đối tác quan trọng của nhau trên các diễn đàn đa phương như Cộng đồng các nước nói tiếng Pháp, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (APEC)…Với mục tiêu hướng về Châu Á của Canada, Việt Nam hiện 6 được coi như đối tác quan trọng, là cầu nối giúp Canada gắn kết với khu vực Châu Á Trên thực tế quan hệ ngoại giao Việt Nam – Canada đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, có những giai đoạn đã phát triển như sau khi Việt Nam mở cửa, đổi mới đất nước nhưng cũng có những giai đoạn quan hệ chỉ mang tính chất duy trì. Nhưng nhìn chung quan hệ ngoại giao Việt Nam – Canada đang ngày càng được củng cố và phát triển hơn. Để có thể hiểu rõ hơn chính sách đối ngoại của Canada nói chung cũng như chính sách đối ngoại của Canada với Việt Nam cũng như với khu ASEAN nói riêng, cần phải hiểu rõ hơn một số vấn đề cơ bản đặt ra khi nghiên cứu quan hệ ngoại giao Việt Nam – Canada như là nhân tố tác động đến chính sách đối ngoại của Việt Nam với Canada và ngược lại, đặc điểm cơ bản của chính sách đối ngoại của Việt Nam và Canada. Do vậy việc nghiên cứu về mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam – Canada từ 1973 đến 2008 sẽ góp phần đưa ra những đánh giá đúng đắn về bản chất, cũng như xu hướng của mối quan hệ này để từ đó có những đóng góp cho việc hoạch định và thực thi chính sách đối ngoại của Việt Nam với Canada cũng như của Việt Nam với các nước trên thế giới có hiệu quả. Trong điều kiện quan hệ quốc tế ngày càng phát triển, việc nghiên cứu quan hệ giữa Việt Nam và Canada là cần thiết, đáp ứng nhu cầu mở rộng quan hệ quốc tế, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước ta hiện nay. Theo cách xem xét đó, đề tài “Quan hệ ngoại giao Việt Nam – Canada từ 1973 đến 2008” được tôi lựa chọn cho luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Cho đến nay, chưa có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài này ở Việt Nam, nhất là những công trình nghiên cứu qui mô quan hệ Việt Nam và Canada. Phần lớn các nghiên cứu là những bài báo được đăng tải trên 7 một số tạp chí như Châu Mỹ ngày nay, tạp chí Nghiên cứu Quốc tế... Như: “Vài nét về quan hệ kinh tế Việt Nam – Canada” cuả tác giả Vũ Đăng Hinh trên tạp chí Châu Mỹ ngày nay số 5/1998, “Quan hệ Việt Nam – Canada phát triển vững chắc trong thế kỷ mới”, của tác giả Nguyễn Thiết Sơn đăng trên tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 6/2008 phân tích chính sách của Canada với Việt Nam trên khía cạnh chính trị, kinh tế, thương mại, hay “Hợp tác kinh tế và viện trợ phát triển của Canada đối với Việt Nam” có trong Kỷ yếu hội thảo “Việt Nam – Canada hướng tới hợp tác và phát triển” do Viện Nghiên cứu Châu Mỹ- Viện Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức, trong đó đáng chú ý là bài viết “Quan hệ Việt Nam – Canada 1954-2008 lịch sử và triển vọng” của PGS,TS Trần Thị Vinh. Một số nghiên cứu của một số cơ quan nghiên cứu có liên quan đến đề tài nhưng cũng chỉ điểm qua chính sách của Canada với Việt Nam như: nghiên cứu “Quan hệ Canada – Mỹ, những bài học kinh nghiêm” của Đại sứ Việt Nam tại Canada Nguyễn Đức Hùng do Vụ Châu Mỹ, Bộ Ngoại giao chủ biên năm 2006, hay “Canada thanh bình và thịnh vượng” của tác giả Phạm Hoàng Hải do Nhà xuất bản Thế giới chủ biên. Ngoài những công trình của tác giả Việt Nam còn có một số công trình khác của tác giả nước ngoài được dịch sang tiếng Việt như: “Giá trị Canada trong chính sách đối ngoại” của Steve Lee đăng trên tạp chí Châu Mỹ ngày nay số 5/2003. Như vậy có thế thấy nghiên cứu về quan hệ ngoại giao giữa Việt nam – Canada ở Việt Nam còn rất hạn chế. Tuy nhiên, các bài viết trên đã giúp người viết có thể hoàn thành bài luận văn của mình. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích của đề tài là nghiên cứu, làm sáng tỏ chính sách ngoại giao của Việt Nam với Canada và ngược lại đã làm rõ và phân tích quan hệ Việt Nam – Canada. 8 * Giới hạn nghiên cứu: Về nội dung: Chủ yếu trên lĩnh vực ngoại giao giữa Việt Nam – Canada Về thời gian: Từ năm 2003 đến 2008 * Nội dung nghiên cứu: Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, trên cơ sở giới hạn về phạm vi nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu những vẫn đề sau: - Những nhân tố cơ bản tác động đến quan hệ giữa Việt Nam – Canada - Chính sách đối ngoại của Việt Nam và Canada - Chính sách đối ngoại của Canada và Việt Nam - Thực trạng quan hệ Việt Nam – Canada và đánh giá triển vọng quan hệ giữa hai nước. 4. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Quan hệ ngoại giao Việt Nam Canada từ năm 1973 đến 2008”, trên các bình diện chính trị, kinh tế thương mại và văn hóa giáo dục. Từ đó, luận văn nêu lên những đánh giá chung và triển vọng quan hệ hai nước trong những năm tới. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin làm phương pháp nghiên cứu chủ đạo. Các phương pháp khoa học xã hội liên ngành, như phương pháp lịch sử, logich, so sánh đã được sử dụng làm sáng tỏ thêm các vấn đề nghiên cứu. 9 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài có 3 chương: Chương 1: Các nhân tố của mối quan hệ Việt Nam - Canada Chương 2: Quan hệ Việt Nam – Canada từ 1973 - 2008 Chương 3: Đánh giá chung và triển vọng của quan hệ Việt Nam Canada 10 Chƣơng 1 CÁC NHÂN TỐ CHỦ YẾU CHI PHỐI MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM – CANADA 1.1 Nhìn lại quan hệ Việt Nam - Canada trƣớc 1973 Việt Nam và Canada chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1973, nhưng trên thực tế hai nước đã có những mối quan hệ bước đầu từ giữa thập niên 50 của thế kỷ trước. Canada đã tham gia vào các hoạt động quốc tế có liên quan đến việc giải quyết các vấn đề về chính trị và hòa bình ở Việt Nam. Năm 1954, Canada cùng với Ấn Độ, Ba Lan tham gia Uỷ ban quốc tế kiểm soát và giám sát đối với việc thực hiện Hiệp định Geneva về lập lại hòa bình ở Đông Dương. Gần 20 năm sau, Canada lại một lần nữa tham gia vào Uỷ ban quốc tế kiểm soát và giám sát cho việc thực hiện hiệp định Paris năm 1973 về chấm dứt chiến tranh và lập lại hoà bình ở Việt Nam. Quan hệ Việt Nam – Canada thời kỳ đầu vẫn chưa có nhiều dấu ấn quan trọng nhưng Canada đã bắt đầu có những tín hiệu quan tâm đến Việt Nam. Trong chiến tranh lạnh mặc dù Canada là đồng minh của Mỹ nhưng trên thực tế, Canada không trực tiếp gửi quân tham chiến và thực hiện chính sách không can dự vào chiến tranh Việt Nam. Các chính phủ cầm quyền ở Canada trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, ở những mức độ khác nhau đã phản đối việc Mỹ leo thang và kéo dài cuộc chiến. Các nhà ngoại giao Canada đã có những cố gắng trong vai trò làm trung gian trong đàm phán giữa Washington và Hà Nội, nhằm tìm kiếm giải pháp kết thúc chiến tranh và sự rút lui trong danh dự của Mỹ. Để thực hiện điều này, nhà ngoại giao Canada Jaimes B.Seaborn, nguyên thành viên Uỷ ban Giám sát quốc tế lúc bây giờ đã đến Việt Nam 5 lần để thực hiện sứ mệnh này[6]. Vào những năm 60 thế kỷ trước , phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam đã diễn ra rộng khắp trên cả nước Mỹ. Hàng ngàn thanh niên Mỹ lúc đó 11 trốn quân dịch đã di cư sang Canada và coi đây là nơi trú ẩn an toàn nhất. Theo số liệu thông kê của Bộ Di trú Canada, có khoảng 20 ngàn đến 30 ngàn thanh niên Mỹ trốn quân dịch và 12 ngàn lính Mỹ đào ngũ xin nhập cư vào Canada[28] . Bên cạnh đó, Canada cũng đưa ra chính sách nhập cư hết sức thuận lợi, tạo điều kiện cho những người nhập cư được vào Canada một cách dễ dàng. Phần lớn họ được định cư tại các thành phố lớn như Montreal, Toronto, Vancouver, đồng thời tham gia vào Liên hiệp Sinh viên vì hoà bình, một tổ chức chống chiến tranh ở Canada và tổ chức này có liên hệ với Tổ chức Sinh viên dân chủ Mỹ. Bên cạnh đó, số lượng công dân Mỹ, những người chống chiến tranh Việt Nam nhập cư vào Canada cũng ngày càng tăng, khoảng từ 50 ngàn đến 120 ngàn người. Vào năm 1971 -1972, lượng người Mỹ nhập cư vào Canada nhiều hơn so với lượng người nhập cư từ các nước khác. Điều này đã tạo nên làn sóng di cư vì lí do chính trị lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ kể từ sau cách mạng Mỹ[13]. Lượng người Mỹ di cư sang Canada nhiều đã khiến cho phong trào chống chiến tranh ở Canada ngày càng lan rộng, đặc biệt trong các trường đại học và cao đẳng với sự tham gia của các nhóm sinh viên phản chiến. Tuy nhiên, đấy là mới chỉ nhìn ở mặt tích cực và nó mới chỉ phản ánh được một phần sự thật. Trên thực tế Canada đã can dự sâu vào chiến tranh Việt nam. Theo hãng truyền hình quốc gia Canada CBC cho thấy, đã có “cuộc chiến tranh bí mật của Canada”[9] . Canada là một trong những nhà cung cấp chính về vũ khí, thiết bị quân sự chính cho Mỹ. Theo Hiệp định về trao đổi sản phẩm quốc phòng ký với Mỹ năm 1958, Canada đã bán cho Mỹ tổng giá trị vũ khí, đạn dược, bom napalm và hoá chất có trị giá lên đến 2,5 tỷ USD trong những năm 1965 – 1973. Bên cạnh đó, cũng trong thời gian này, Canada xuất khẩu sang Mỹ khoảng 10 tỷ USD các sản phẩm đồ uống, quân trang quân dụng, vật liệu chiến tranh. Bộ Quốc phòng Canada đã hợp tác với 12 Mỹ trong các dự án thử nghiệm chất diệt cỏ để sử dụng trong chiến tranh Việt Nam. Đồng thời, với tư cách là thành viên của NATO, Canada đã cho phép NATO tiến hành các hoạt động thử vũ khí, tập trận trên lãnh thổ nước mình. Vì vậy, một số tỉnh của Canada sau này đã phải gánh chịu những hậu quả của việc thử nghiệm chất độc màu da cam. Ngoài ra, có khoảng 10 ngàn người Canada tham gia quân đội Mỹ với tư cách là lính đánh thuê cho quân đội Mỹ trong thời gian chiến tranh tại Việt Nam[28]. Điều này đã gây ảnh hưởng đến mối quan hệ trước đây giữa Việt Nam và Canada. Vào những năm giữa của thập niên 60, kinh tế Canada giảm sút đến mức thấp nhất kể từ sau Thế chiến thứ hai. Trong khi đó kinh tế Mỹ lại tăng nhanh, đó là thời điểm thuận lợi cho các công ty Mỹ mở rộng dự án đầu tư vào Canada, đặc biệt là trong ngành công nghiệp và khai thác kim loại. Một trong những nguyên nhân của sự tăng trưởng này là do những đơn đặt hàng có nguồn gốc từ cuộc chiến tranh của Mỹ. Bộ truởng Bộ Lao động Canada , Jean Marchand, khi trả lời phỏng vấn phóng viên ở Montreal về vấn đề này đã lý giải rằng, khoảng 150 ngàn công nhân Canada sẽ mất việc nếu chúng ta ngừng sản xuất các thiết bị và vật liệu chiến tranh theo đơn đặt hàng của Mỹ[26]. Trong suốt thời gian diễn ra chiến tranh Việt Nam, Canada một mặt muốn giữ quan hệ với Mỹ do đang có nhiều phụ thuộc vào kinh tế Mỹ, mặt khác lại viện trợ giúp đỡ để duy trì quan hệ với Việt Nam. Trong khoảng thời gian từ năm 1950 - 1975, Canada đã viện trợ nhân đạo cho các nạn nhân chiến tranh Việt Nam thông qua Hội Chữ Thập Đỏ Canada và tổ chức Colombo lên tới 29 triệu USD. Tuy nhiên, số tiền này lại được chuyển cho chính quyền Nam Việt Nam, còn Bắc Việt nam thì hoàn toàn không nhận được chút nào. Để giải thích cho vấn đề này, Gordon Lonmier, một thành viên của Uỷ ban Giám sát quốc tế Canada vào tháng 3/1968 đã nói rằng “Chương trình viện trợ 13 của chúng ta chỉ mang ý nghiã nhân đạo một nửa, còn một nửa mang tính chính trị”[27]. Sau Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết, từ ngày 28/1 đến ngày 31/7/1973, Canada đã gửi 240 người thuộc Lực lượng gìn giữ hoà bình tham gia vào Uỷ ban Giám sát quốc tế (ICCS) cùng với Hungary, Indonesia và Ba lan. Tháng 4/1975, sau khi miền Nam Việt Nam hoàn toàn giải phóng, chính phủ Canada tiếp nhận hàng chục ngàn người Việt Nam tị nạn sang Canada và đây là dòng người nhập cư lớn nhất trong lịch sử Canada và chủ yếu sống tập trung ở thành phố Vancouver, Toronto và Montreal. Như vậy, chiến tranh Việt Nam đã tác động không nhỏ đến Canada trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị – xã hội và văn hoá. Nhiều người Canada có thể cho rằng Canada là nước trung lập, trợ giúp cho cả Việt Nam và Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên trên thực tế thì cả Mỹ và Canada đều là nước tư bản nên Canada đã đứng về phía Mỹ trong chiến lược ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản và tạo lợi ích chiến lược trong cuộc đối đầu Đông Tây. Do vậy chính sách của Canada vào thời điểm đó là “Chính sách của một nước phương Tây đối với một nước cộng sản”[6, tr5]. Đó là lí do lý giải vì sao Canada không thể hoàn toàn đóng vai trò trung lập mà vẫn gián tiếp can dự vào chiến tranh Việt Nam. Hơn nữa, vào thập niên 50 của thế kỷ trước, trong bối cảnh của trật tự thế giới hai cực và sự mở rộng ảnh hưởng sức mạnh của nước Mỹ, Canada thực hiện chiến lược liên minh toàn diện với Mỹ và là một trong số những nước phương Tây công nhận chính quyền Việt Nam Cộng hoà từ cuối năm 1955. Đến cuối thập niên 50, Canada đã có sự điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng giảm dần sự lệ thuộc vào Mỹ bằng chính sách đa phương hoá quan hệ quốc tế, bắt đầu từ chính phủ của Thủ tướng Diefenbaker (195714 1963), tiếp theo là chính phủ của Thủ tướng Pearson (1963-1968) và được đẩy mạnh dưới thời của Thủ tướng Trudeau (1968- 1979) (1980 -1984). Sự điều chỉnh chính sách này đã tác động lớn đến quan điểm của Canada đối với cuộc chiến ở Việt Nam. Ngày 2/4/1965, trước việc Mỹ ném bom đánh phá miền Bắc Việt Nam, Thủ tướng Pearson, trong chuyến thăm Mỹ đã công khai phê phán chính sách chiến tranh của Mỹ. Dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, Chính phủ Canada đã kêu gọi Chính phủ Mỹ chấm dứt ném bom ở Bắc Việt Nam. Tháng 1-1973, chính phủ của Thủ tướng Trudeau đã trình lên Quốc hội Canada một nghị quyết lên án cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.[6,tr 8]. Năm 1973, sau khi Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, Canada đã tham gia vào Uỷ ban Giám sát và Kiểm soát quốc tế việc thi hành Hiệp định này. Cũng trong năm 1973, Canada đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 9-1976, Việt Nam mở Đại sứ quán ở Ottawa, thủ đô Canada. Thời điểm này Mỹ bắt đầu tiến hành bao vây cấm vận với Việt Nam do đó mối quan hệ giữa Canada với Việt Nam từ năm 1973 đến 1976 không có nhiều biến chuyển. Sau đó, Canada cũng đi trước Mỹ trong việc mở Phái đoàn ngoại giao của Canada ở Hà Nội tháng 7-1991 và chính thức khai trương Đại sứ quán của Canada ở Hà Nội tháng 8-1994. Kể từ thời điểm này, quan hệ Việt Nam - Canada không ngừng phát triển và đạt được nhiều kết quả hợp tác trên các lĩnh vực khác nhau. 1.2 Bối cảnh quốc tế và các nhân tố của quan hệ Việt Nam - Canada từ 1973 – 2008 Canada là một đất nước rộng lớn, diện tích lớn thứ hai trên thế giới (sau Liên bang Nga), nằm ở lục địa Bắc Mỹ, phía Nam giáp Hoa Kỳ, phía Bắc giáp Alaska (Hoa Kỳ) và Bắc Cực, phía Đông giáp Đại Tây Dương, phía Tây giáp Thái Bình Dương và là đất nước đa dạng về thiên nhiên, sắc tộc và văn 15 hóa. Thêm nữa, Canada cũng là một đất nước yêu chuộng hoà bình, phấn đấu vì hoà bình và trong lịch sử Canada chưa bao giờ tham gia chiến tranh hay gây chiến tranh để giành thuộc địa. Điều này càng làm tăng vị thế của Canada trên trường quốc tế. Canada là một trong những nền kinh tế lớn trên thế giới, một quốc gia phát triển hàng đầu thế giới về kinh tế và xã hội có thu nhập tính theo đầu người lên tới 40.000 USD với nhiều tài nguyên, khoáng sản như: quặng sắt, niken, kẽm, đồng, vàng, chì, potat, bạc, dầu mỏ, than, thuỷ lực, thuỷ sản… Có nền khoa học công nghệ phát triển. Các ngành công nghiệp chính của Canada gồm: khai mỏ, chế biến gỗ, giấy, thực phẩm, thiết bị vận tải, hoá chất, dầu khí, điện năng, công nghệ viễn thông, sinh học và dược phẩm… Sản phẩm nông nghiệp gồm: lúa mỳ, hạt có dầu, hoa quả, thịt gia súc, đồ uống, rượu… Bạn hàng chính: Mỹ, Nhật, Anh, Liên minh Châu Âu. Canada là một thành viên trong nhóm các nước công nghiệp phát triển G7, và G20 cũng là thành viên tích cực trong hầu hết các tổ chức quốc tế quan trọng trên thế giới như: Liên hợp quốc, Khối Liên hiệp Anh, Francophonie, WTO, IMF, WB, OECD, NATO, NAFTA, APEC. Canada cũng là nước đối thoại tích cực với hầu hết các tổ chức khu vực và diễn đàn trên thế giới trong đó có ASEAN và diễn đàn ARF. Về điều kiện xã hội, là một quốc gia có diện tích lãnh thổ rộng lớn nhưng dân số của Canada khá ít, do đó, nguồn nhân lực của Canada khá hạn chế. Thành phần cư dân của Canada khá đa dạng với hơn 200 nhóm sắc tộc khác nhau, đa số là dân nhập cư từ khắp nơi trên thế giới. Do đó, xã hội Canada là một xã hội đa sắc tộc, đa văn hóa. Với thành phần dân cư phức tạp như vậy nhưng về cơ bản Canada không có những cuộc xung đột sắc tộc. Mọi công dân đều được hưởng quyền bình đẳng trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội . Các cộng đồng cư dân nhập cư mặc dù vẫn giữ bản sắc văn hóa và 16 phong tục tập quán riêng của họ nhưng đã hòa nhập vào đời sống xã hội Canada, cùng chung sức tạo ra những thành tựu phát triển kinh tế – xã hội ở trình độ cao. Trong lĩnh vực kinh tế, Canada có mức thu nhập tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên 1.000 tỷ USD/năm, bình quân thu nhập tính theo đầu người trên 40.000 USD/năm. Do đó, chính phủ Canada có điều kiện dành ngân sách lớn cho các lĩnh vực giáo dục và phúc lợi xã hội. Canada là nước có nền giáo dục rất phát triển với chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, trong khi đó chi phí sinh hoạt và học phí thường thấp hơn so với một số nước khác như Mỹ và Anh. Theo đánh giá của Liên hợp quốc, Canada là “một trong những nơi tốt nhất trên thế giới để sinh sống”[21]. Canada cũng là nước có trình độ khoa học công nghệ phát triển cao. Đất nước này có tới 18 công dân được nhận giải thưởng Nobel cao quí trong các lĩnh vực vật lý, hóa học và y học. Canada còn là một trong những cường quốc hàng đầu thế giới về công nghệ thông tin và máy tính, đứng thứ 12 trên thế giới về số người sử dụng internet, với 84,3% tổng dân số cả nước. Canada cũng là một cường quốc trong nhiều lĩnh vực khác như viễn thông, vận tải và cơ khí, hàng không vũ trụ, giao thông đô thị, vi điện tử, công nghệ sinh học, laser và quang điện tử, v.v. Có thể tóm tắt những thành tựu chính về kinh tế – xã hội của Canada là: 1) có trình độ phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật thuộc nhóm nước phát triển hàng đầu thế giới; 2) có đời sống văn hóa xã hội cao trong môi trường hòa bình và thịnh vượng và một nền dân chủ nghị viện ổn định. Những thành tựu về phát triển kinh tế – xã hội của Canada sẽ có nhiều ý nghĩa hơn khi so sánh với một số nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới khác. Mặc dù với số dân khiêm tốn nhưng trên một số lĩnh vực Canada thậm chí vượt qua một số nước trong nhóm này, được thể hiện qua bảng số liệu so sánh dưới đây. 17 Nƣớc Canada Mỹ Pháp Đức Italia Anh Nhật 32.927 301.29 0 61.938 82.257 58.880 60.975 127.771 GDP (năm 2008, đơn vị tính: tỷ USD) 1.502,2 14.196, 5 2.856,5 3.649,5 2.303,1 2.653,6 4.910,4 Mức tăng trưởng trung bình hàng năm (%, 1998-2008) 2,9 2,6 2,0 1,5 1,2 2,6 1,3 Bình quân thu nhập tính theo đầu người (năm 2008, USD) 39.400 46.500 33.400 35.600 30.300 36.300 34.100 Sản xuất năng lượng (tương đương với triệu tấn dầu, năm 2006) 413,19 1.665,1 8 135,45 137,03 26,38 176,23 90,47 Chi phí cho giáo dục năm 2006 (% của GDP) 6,5 7,4 5,9 4,8 4,9 5,9 5,0 Chi phí cho y tế năm 2007 (% của GDP) 10,1 16,0 11,0 10,4 8,7 8,4 8,1 Tuổi thọ trung bình của nam (số năm) 78,4 75,4 77,5 77,2 78,4 77,1 79,2 Tuổi thọ trung bình của nữ (số năm) 83,0 80,7 84,4 82,4 84,0 81,1 86,0 Lĩnh vực Dân số (năm 2007) (đơn vị tính: triệu) Nguồn: International comparisons, www.statcan.gc.ca/pub/12-581-x/2010000/ic-ci-eng.htm Trước hết, những số liệu trong bảng trên khẳng định Canada là một trong những nước phát triển hàng đầu thế giới. Bảng số liệu trên cũng cho thấy Canada là nước có dân số thấp nhất trong bảy nước phát triển (Nhóm G7), xấp xỉ 1/10 dân số của Mỹ, bằng khoảng 1/2 dân số của Pháp, Anh, Italia, và gần bằng 1/4 dân số Nhật Bản. Mặc dù vậy, Canada có nhiều chỉ số 18 cao hơn các nước này. Mức tăng trưởng GDP trung bình hàng năm của Canada từ năm 1998 đến năm 2008 cao hơn mức của tất cả các nước trong nhóm G7. Bình quân tính theo đầu người năm 2008 của Canada cao hơn Pháp, Đức, Anh, Italia và Nhật Bản. Với mức thu nhập tính theo đầu người cao như vậy, đời sống của người dân Canada được đảm bảo với mức sống cao. Do đó, tỷ lệ phần trăm GDP năm 2006 đầu tư cho giáo dục của Canada cao hơn mức của Pháp, Đức, Anh, Italia và Nhật Bản; và tỷ lệ phần trăm GDP năm 2007 dành cho y tế của Canada cao hơn Anh, Italia và Nhật Bản. Cũng theo số liệu của bảng trên, tuổi thọ trung bình của người Canada cao hơn tuổi thọ trung bình của người Mỹ mặc dù Mỹ là nước có mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn mức của Canada. Đặc biệt, về sản xuất năng lượng, bao gồm thủy điện, nhiệt điện và điện hạt nhân, Canada chỉ đứng sau Mỹ và cao hơn hẳn mức sản xuất năng lượng của các nước Pháp, Đức, Anh, Italia và Nhật Bản. Mặc dù những số liệu trên đây chưa thật đầy đủ về bức tranh kinh tế – xã hội của Canada nhưng nó đã cho thấy Canada là một đất nước có trình độ phát triển cao trên nhiều lĩnh vực. Sự phát triển này phần lớn phụ thuộc vào những chính sách đúng đắn trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội của Canada. Canada đã đưa ra được những chính sách nhằm phát huy được mọi nguồn lực trong nước, tạo ra những thành tựu đáng khâm phục cho Canada. Ngoài chính sách đối ngoại, những nguồn lực mạnh mẽ trong nước chính là cơ sở quan trọng cho chính phủ hoạch định và thực thi chính sách đối ngoại của mình một cách có hiệu quả. Điều này cũng hoàn toàn đúng với trường hợp của Canada. Tương ứng với vị thế về kinh tế, văn hóa, chính trị, Canada đã tham gia và là thành viên của rất nhiều các tổ chức quốc tế như: Liên hợp quốc, Khối 19 Liên hiệp Anh, Francophonie, WTO, IMF, WB, OECD, NATO, NAFTA, APEC, bên đối thoại ARF… Còn Việt Nam là một nước ở Đông Nam Á với 85 triệu dân. Dân số Việt Nam là một dân số trẻ, một thế mạnh đáng kể. Phát biểu nhân dịp 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Canada, Đại sứ Richard Lecoq đánh giá cao năng lực và sức sống đa dạng của Việt Nam, thể hiện rõ nhất ở giới trẻ Việt Nam. Theo ông, sức trẻ Việt Nam là một thế mạnh sẽ tạo nên những thay đổi lớn[16]. Hiện nay, Việt Nam là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất trên thế giới. Trong những năm gần đây, Việt Nam đang trở thành điểm đến hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Các công ty nước ngoài đang đến Việt Nam đầu tư và lượng vốn FDI đổ vào đây được dự báo là sẽ tăng lên 13 tỷ USD trong năm 2007, so với mức 10 tỷ USD trong 2006. Tập đoàn Intel đã xây dựng một nhà máy 1 tỷ USD tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời với sự phát triển mạnh về kinh tế, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế cũng ngày càng được nâng cao. Việt Nam đã tích tham gia cực ngày càng nhiều vào các vấn đề khu vực và toàn cầu và có vai trò ngày càng quan trọng trong ASEAN, là thành viên mới của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Hơn nữa, Cộng đồng người Việt Nam ở Canada có khoảng hơn 250.000 người. Người Việt ở Canada có tiềm năng tri thức khá lớn, nhiều người có trình độ khoa học cao đang làm việc, giảng dạy tại một số trường đại học lớn như: Laval, Quebec, Montreal, Waterloo, Toronto, British Colombia… Nhiều trí thức làm việc trong các lĩnh vực mũi nhọn như: viễn thông, tin học, điện tử, môi trường, sinh học… Do vậy, cộng đồng người Việt Nam tại Canada có ảnh hưởng quan trọng trong xã hội và đóng góp đáng kể vào sự phát triển của đất nước Canada. Họ sẽ trở thành nhịp cầu nối giữa hai nước. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan