Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn của học viên ở đại học ...

Tài liệu Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn của học viên ở đại học quân sự

.DOC
197
556
132

Mô tả:

5 MỞ ĐẦU 1. Giới thiệu khái quát về luận án Hoạt động NCKH và hoạt động đào tạo ở ĐHQS luôn có quan hệ mật thiết và thâm nhập vào nhau trong quá trình thực hiện sứ mệnh của trường đại học. Trong quá trình đào tạo, hoạt động NCKH của sinh viên, học viên là con đường trọng yếu để nâng cao nhận thức, phát triển tư duy và năng lực sáng tạo của người học, vì vậy nó được coi là kết quả, đồng thời là điều kiện của dạy học tích cực trong nhà trường. Các học viện, trường sĩ quan quân đội có nhiệm vụ đào tạo cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị có phẩm chất chính trị, có trình độ chuyên môn sâu, học vấn cao; có năng lực lãnh đạo, chỉ huy và khả năng vận động, thuyết phục cấp dưới thuộc quyền. Vì vậy ở ĐHQS thường xuyên coi trọng nâng cao chất lượng dạy học và tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên. Tác giả công trình nghiên cứu “Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở đại học quân sự” mong muốn sẽ luận giải được cơ sở khoa học để tổ chức, chỉ đạo, điều hành có kết quả hoạt động đó, nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ quân đội. Để đạt được mong muốn nêu trên, luận án tập trung làm rõ các khái niệm: NCKH, nghiên cứu khoa học XH&NV, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS; tổ chức nghiên cứu thực tiễn nhằm đi sâu phân tích tình hình, thực trạng hoạt động nghiên cứu và quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên. Trên cơ sở đó để đề xuất phương hướng, biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS. 2. Lý do lựa chọn đề tài Luật Giáo dục đại học số 08/2012/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII thông qua ngày 18 tháng 6 năm 6 2012 xác định mục tiêu đào tạo trình độ đại học là: “để sinh viên có kiến thức chuyên môn toàn diện, nắm vững nguyên lý, quy luật tự nhiên - xã hội, có kỹ năng thực hành cơ bản, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và giải quyết những vấn đề thuộc ngành được đào tạo” [64]. Chính vì vậy, dạy học ở đại học phải được đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học. Theo đó, NCKH trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng mà sinh viên, học viên phải thực hiện trong quá trình đào tạo. “Quy định về hoạt động NCKH của sinh viên trong các cơ sở giáo dục đại học” ban hành kèm theo Thông tư số 19/2012/TTBGDĐT ngày 01 tháng 6 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã chỉ rõ: “Trách nhiệm của sinh viên, học viên ở các trường đại học phải thực hiện nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào thực tiễn theo kế hoạch hoạt động khoa học và công nghệ của trường đại học” [13, tr.15]. Để quy định này được thực hiện nghiêm túc đòi hỏi các chủ thể quản lý giáo dục ở trường đại học phải coi trọng quản lý hoạt động NCKH của sinh viên. Các học viện, trường sĩ quan quân đội là những cơ sở đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ đại học, sau đại học và chức danh lãnh đạo, chỉ huy, có tri thức chuyên sâu theo ngành đào tạo trong lĩnh vực quân sự, đồng thời có khả năng tham gia đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, góp phần bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng. Vì vậy, học viên ở ĐHQS không chỉ được trang bị kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp và năng lực chuyên môn quân sự, mà còn được giáo dục có hệ thống về khoa học XH&NV, nhất là về lý luận chính trị và khoa học xây dựng Đảng. Điều đó đòi hỏi học viên ở ĐHQS phải tham gia nghiên cứu khoa học XH&NV. Chiến lược phát triển GD&ĐT trong quân đội giai đoạn 2011- 2020 xác định: “Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, kết hợp chặt chẽ giữa 7 GD&ĐT với nghiên cứu khoa học… Quan tâm và đầu tư thích đáng cho hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên ở tất cả các cấp, nhất là học viên đào tạo cấp phân đội trình độ đại học. Tổ chức và duy trì có hiệu quả Phong trào Tuổi trẻ sáng tạo ở các học viện, trường” [16, tr.48 - 49]. Thực hiện chiến lược đó, các nhà trường ĐHQS đã đẩy mạnh việc kết hợp giữa dạy học và định hướng, bồi dưỡng cho học viên nghiên cứu khoa học. Nhiều học viên ở ĐHQS đã có những công trình, đề tài khoa học, sáng kiến kinh nghiệm tham gia giải thưởng “Tuổi trẻ sáng tạo” trong quân đội và giải thưởng khoa học trẻ Vifotex... Tuy nhiên, hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS thời gian vừa qua còn có những hạn chế cần khắc phục đó là: số lượng đề tài, chuyên đề tuy tăng lên nhưng chất lượng chưa cao, cá biệt còn có biểu hiện trùng lặp, sao chép và ít được ứng dụng triển khai trong thực tiễn. Một trong những nguyên nhân của những hạn chế trên là do công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS còn bất cập. Trong thời gian qua đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về hoạt động nghiên cứu khoa học và quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, trong đó có một số công trình bàn về quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV trong quân đội, nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS. Xuất phát từ những lý do trên đây, NCS lựa chọn vấn đề: “Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở đại học quân sự” làm đề tài luận án của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất phương hướng, biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở ĐHQS hiện nay. 8 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ cơ sở lý luận về quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS. - Khảo sát, phân tích đặc điểm, thực trạng, nguyên nhân của quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS. - Xác định phương hướng và đề xuất biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS. - Tổ chức khảo nghiệm và thử nghiệm kiểm chứng biện pháp đã đề xuất. 4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu và giả thuyết khoa học 4.1. Khách thể và đối tượng nghiên cứu * Khách thể nghiên cứu Quá trình quản lý giáo dục, đào tạo ở đại học quân sự. * Đối tượng nghiên cứu: Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS. 4.2. Phạm vi, giới hạn nghiên cứu Phạm vi về nội dung: Luận án tập trung làm rõ những vấn đề quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên các ngành đào tạo đại học ở ĐHQS dưới góc độ của khoa học quản lý giáo dục. Phạm vi về khách thể khảo sát: Địa bàn khảo sát tập trung ở Học viện Chính trị, Học viện Hậu cần, Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan Lục quân 1. Phạm vi về thời gian: Các số liệu, tài liệu được sử dụng trong quá trình nghiên cứu từ năm 2011 đến nay. 4.3. Giả thuyết khoa học Nghiên cứu khoa học là một trong những nhiệm vụ của học viên ở ĐHQS, được tiến hành trong quá trình dạy học nhằm nâng cao nhận thức, phát triển trí tuệ, rèn luyện kỹ năng, hình thành thái độ lao động khoa học nghiêm túc cho người học. Nếu hiệu trưởng (giám đốc) trường ĐHQS chỉ đạo bộ máy quản lý của nhà trường tiến hành tốt việc giáo dục nhận thức, 9 trách nhiệm của các lực lượng sư phạm; kế hoạch hóa hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên; hoàn thiện và thực hiện nghiêm quy trình triển khai nghiên cứu; phát triển các nguồn lực về thông tin, tư liệu, cơ sở vật chất - kỹ thuật và tài chính; ban hành các quy định khuyến khích học viên nghiên cứu khoa học; tăng cường kiểm tra, đánh giá, phổ biến và ứng dụng kết quả nghiên cứu thì sẽ quản lý chặt chẽ được hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở tiếp cận từ thực tiễn hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ, đồng thời vận dụng các quan điểm hệ thống - cấu trúc, lịch sử - lôgic và thực tiễn trong xem xét, giải quyết vấn đề quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên. Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của khoa học quản lý giáo dục, giáo dục học, tâm lý học về quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên, sinh viên. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành, bao gồm các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: * Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Phân tích, tổng hợp, khái quát hoá các văn bản quản lý giáo dục, quản lý khoa học và các công trình khoa học về quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên, sinh viên. Để đạt được mục đích nghiên cứu và thực hiện các nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi tập trung nghiên cứu các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết,... của Đảng, 10 Nhà nước; của Bộ GD&ĐT, Bộ Khoa học, Công nghệ về các nội dung có liên quan đến quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học. * Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: + Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi Sử dụng các mẫu phiếu điều tra, khảo sát 460 cán bộ, giảng viên, học viên tại Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan Lục quân 1, Học viện Hậu cần, Học viện Quân y về thực trạng, nguyên nhân và biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. + Phương pháp tọa đàm, trao đổi Tọa đàm, trao đổi với lãnh đạo, chỉ huy nhà trường và cán bộ quản lý các phòng Khoa học quân sự của Học viện Chính trị, Học viện Hậu cần, Học viện Quân y, Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan Lục quân 1 để tìm hiểu về kế hoạch, quy trình triển khai, hoạt động kiểm tra, đánh giá tiến trình, kết quả, chất lượng nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên. + Phương pháp nghiên cứu sản phẩm Nghiên cứu các công trình khoa học XH&NV của học viên ĐHQS tham gia giải thưởng “Tuổi trẻ sáng tạo” trong quân đội và giải thưởng khoa học trẻ Vifotex; xem xét nội dung của 130 đề tài, 99 chuyên đề khoa học mà học viên đã thực hiện, gần 100 bài tiểu luận, thu hoạch, các bài hội thảo khoa học của học viên từ năm 2010 đến nay; cũng như các báo cáo của Cục Khoa học và Công nghệ Bộ Quốc phòng, của Ban Thanh niên quân đội về tổng hợp kết quả hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên; các bản tổng kết công tác khoa học, các kế hoạch triển khai nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của nhà trường, các khoa, các đơn vị học viên; các biên bản thẩm định, nghiệm thu các đề tài, chuyên đề và các sản phẩm nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên tại Học viện Chính trị, Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan Lục quân 1. 11 + Phương pháp quan sát sư phạm Tiến hành quan sát tại Học viện Chính trị, Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan Lục quân 1 về các hoạt động chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, đánh giá, xếp loại các công trình khoa học XH&NV của học viên, cũng như các hình thức sinh hoạt khoa học của học viên về các chủ đề khoa học XH&NV. + Phương pháp phân tích nhận định độc lập Phân tích, tổng hợp các nhận định từ nhiều nguồn tài liệu, chủ yếu là nhận định của Cục Khoa học quân sự Bộ Quốc phòng và của Ban Thanh niên quân đội, Học viện Chính trị, Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan Lục quân 1 về các vấn đề có liên quan đến công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ĐHQS. + Phương pháp xin ý kiến chuyên gia - Xin ý kiến của các cán bộ quản lý, nhà khoa học và và giảng viên Học viện Chính trị, Trường Sĩ quan Chính trị nhằm xác định tính khả thi của các biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS. + Phương pháp thử nghiệm Tổ chức thử nghiệm có đối chứng về một số biện pháp cơ bản mà luận án đã đề xuất tại Trường Sĩ quan Chính trị với sự tham gia của 92 học viên (45 học viên thử nghiệm, 47 học viên đối chứng). * Phương pháp thống kê toán học Trong quá trình nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu làm minh chứng cho những nhận định, đánh giá của đề tài và thử nghiệm các giải pháp được đề xuất. 6. Đóng góp mới của luận án - Luận án góp phần làm rõ khái niệm quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS. - Luận án đã khái quát được đặc điểm hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên, làm rõ thực trạng và nguyên nhân quản lý hoạt động này ở ĐHQS. 12 - Luận án đã góp phần đề xuất hệ thống biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS hiện nay có tính khả thi cao. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Luận án được nghiên cứu thành công sẽ góp phần bổ sung, phát triển lý luận về quản lý hoạt động khoa học nói chung, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS nói riêng. Trên cơ sở đó góp phần tạo sự chuyển biến về mặt nhận thức và tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV ở ĐHQS hiện nay. Luận án sẽ là tài liệu tham khảo trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học của các học viện, NTQĐ, đồng thời còn là tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên, sinh viên trong các trường đại học. Kết quả nghiên cứu đề tài có thể vận dụng vào lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học XH&NV của học viên ở ĐHQS trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay. 8. Kết cấu của luận án Luận án gồm: Mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu, 4 chương với 10 tiết, kết luận và kiến nghị, danh mục công trình khoa học đã công bố, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. 13 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Quản lý hoạt động NCKH nói chung, hoạt động NCKH của sinh viên các trường đại học nói riêng là vấn đề được các nhà giáo, nhà khoa học, chuyên gia quản lý giáo dục quan tâm nghiên cứu với những phương pháp tiếp cận khác nhau. Điều đó có thể nhận thấy qua tổng quan về vấn đề nghiên cứu được nêu dưới đây. 1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài * Hướng nghiên cứu về quan hệ giữa hoạt động dạy học và hoạt động nghiên cứu khoa học trong quá trình đào tạo Trong buổi sơ khai của xã hội loài người, những khái niệm về khoa học, NCKH còn khá xa lạ. Cùng với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, nhu cầu tìm hiểu, khám phá thế giới của con người xuất hiện và không ngừng tăng lên. Nếu như khởi thuỷ, khoa học chỉ là mối quan tâm mang tính cá nhân của những thiên tài, NCKH chỉ là công việc của số ít những nhà thông thái, có tài năng thiên bẩm thì ngày nay khoa học đã trở thành một lĩnh vực hoạt động được xã hội hoá cao, với sự tham gia của rất nhiều người, trên nhiều lĩnh vực, trong đó có cả những NCKH trong các nhà trường. Ngay từ thế kỷ thứ XVII, nhà giáo dục người Tiệp Khắc J. A. Kômenxki (1592 - 1670) đã nêu ra vấn đề “Ban giám hiệu và thanh tra nhà trường có thể kích thích lòng ham học của học sinh bằng cách trực tiếp tham gia vào các hoạt động chung của lớp, chẳng hạn các buổi thảo luận chuyên đề... một hình thức nữa là tăng cường khen thưởng” [22, tr.89]. Các nhà giáo dục khác thế kỷ XVIII - XIX như: Pétxtalôdi (Thuỵ sĩ 1746 1827), Đixtécvéc (Đức, 1790 - 1866), Usinxki (Nga, 1824 - 1870 cũng đã nhấn mạnh sự cần thiết phải khuyến khích và tạo điều kiện để người học chiếm lĩnh tri thức bằng con đường tự khám phá, tự tìm tòi nghiên cứu. Như vậy, các nhà giáo dục nêu trên rất coi trọng dạy học tích cực, dạy học mang tính chất NCKH. 14 Bàn về mối quan hệ giữa giáo viên và sinh viên trong dạy học tích cực và NCKH, Rojia Roi Sinh - nhà giáo dục học người Ấn Độ cho rằng: “Giáo viên là người cán bộ tri thức, người học suốt đời trong việc hoàn thiện quá trình dạy học, người dạy và người học là những người bạn cùng làm việc, cùng nhau tìm hiểu và khám phá” [76, tr.115, 116], vì thế, nhà giáo đồng thời phải là nhà khoa học, nhà quản lý, có kỹ năng NCKH và biết hướng dẫn sinh viên NCKH. Có nhiều nhà khoa học ở Mỹ và Châu Âu, tiêu biểu là các nhà giáo dục học như: Các Rôgơ (Mỹ), Uôntơ (Cộng hoà Dân chủ Đức), Zinôviép (Liên xô cũ)... đã đề cập đến vấn đề NCKH của người học ở bậc học đại học. Uôntơ cho rằng: “Chúng ta có thể nâng cao khả năng NCKH nếu chúng ta được đào tạo một cuộc sống khoa học rất phong phú thông qua những cuộc trao đổi kinh nghiệm rất rộng rãi và những cuộc tranh luận trao đổi ý kiến, tổ chức các hội nghị khoa học ngay cả trong các khoa của các trường đại học. Để nâng cao hiệu suất NCKH, tăng cường cộng tác tập thể và giải quyết các vấn đề một cách toàn bộ, mỗi vấn đề là một phạm vi nghiên cứu quan trọng, liên quan đến việc thu hút sinh viên vào trong công tác nghiên cứu và nhiệm vụ gắn liền với công tác đó nhằm phát triển khả năng sáng tạo của sinh viên” [14, tr.58]. Công trình nghiên cứu “Foundations of American higher education” của nhiều tác giả Hoa Kỳ, bàn về nền giáo dục đại học và việc tổ chức nghiên cứu khoa học trong các trường đại học đã cho rằng: Trong các trường đại học ở Hoa Kỳ, nghiên cứu khoa học là một hình thức học tập tích cực, góp phần hình thành nên tư duy phê phán và kỹ năng giải quyết vấn đề; có tác dụng rèn luyện cho sinh viên kỹ năng làm việc theo nhóm. Hơn thế nữa, nghiên cứu khoa học còn làm phong phú và tạo ra bối cảnh cho việc phát triển nội dung dạy học. Một môn học được dạy học dựa trên sự tìm tòi, nghiên cứu sẽ giúp cho sinh viên lĩnh hội một cách có kết quả hơn các tri thức và kỹ năng cần thiết. 15 Trong công trình vừa nêu, các tác giả cho rằng, ở các trường đại học Hoa Kỳ giảng dạy và NCKH được tiến hành đồng thời. Để thiết lập và tăng cường mối liên hệ NCKH và đào tạo, phần lớn các đề tài nghiên cứu của trường đại học được tài trợ về kinh phí nhằm tạo điều kiện thuận lợi giúp cho giảng viên hướng dẫn sinh viên giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, hỗ trợ sinh viên, nghiên cứu sinh tiến hành các thí nghiệm. Tổ chức hệ thống NCKH ở Hoa Kỳ rất rộng, từ các tổ chức của chính phủ, của liên bang, các bang, của các ngành công nghiệp đến các tổ chức phi lợi nhuận và các trường đại học. Trong số đó, các trường đại học luôn được ưu tiên đầu tư kinh phí cho các nghiên cứu cơ bản chất lượng cao (High - Quality basic researchs). Ở Việt Nam cũng có khá nhiều tác giả đề cập tới vấn đề quan hệ giữa hoạt động dạy học và hoạt động NCKH, trong đó có thể kể đến các nhà khoa học như Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ, Vũ Văn Tảo, Bùi Tường... Trong cuốn sách "Quá trình dạy tự học” các tác giả đã bàn về mối quan hệ giữa truyền thụ kiến thức và bồi dưỡng cho người học phương pháp, kỹ năng nghiên cứu trong quá trình lĩnh hội [87]. Tác giả Lê Khánh Bằng khẳng định: “Để tạo ra sự chuyển biến từ lối học tập thụ động sang tự học chủ động, cần làm cho sinh viên có ý thức chủ động học tập; cần phải bồi dưỡng cho họ năng lực chủ động học tập bằng cách rèn luyện 4 kỹ năng cơ bản: Kỹ năng định hướng trong học tập; kỹ năng thiết kế kế hoạch học tập; kỹ năng thực hiện kế hoạch đã vạch ra; kỹ năng tự kiểm tra quá trình học tập của bản thân…” [87, tr.115]. Các giáo trình “Phương pháp luận về nghiên cứu khoa học” của các tác giả Thái Duy Tuyên (1997), Lưu Xuân Mới (2000), Phạm Viết Vượng (2012)..., trên cơ sở cung cấp những tri thức về phương pháp luận nghiên cứu khoa học đã chỉ ra cho người học yêu cầu và cách thức tự tổ chức, rèn luyện, thực hành tập dượt nghiên cứu khoa học có hiệu quả. Trong bài viết “Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên” tác giả Nguyễn Thạc cho rằng: công tác NCKH của sinh viên là phương pháp có hiệu quả 16 nhất trong việc đào tạo những người chuyên gia có chất lượng ở đại học. Tác giả Phan Huy Lê, trong bài “Việc bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu khoa học cho sinh viên đại học” đã đề xuất cách bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu cho sinh viên bằng kết hợp giảng kiến thức với chỉ dẫn phương pháp tìm tòi, phát hiện các vấn đề lý luận, thực tiễn, thông qua đó rèn luyện tư duy, bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu khoa học cho sinh viên. Cùng với những nghiên cứu trên còn có một số công trình và bài viết bàn về nâng cao chất lượng đào tạo bằng đẩy mạnh NCKH của sinh viên, trong đó có thể kể đến các công trình như: Bài viết “Tăng cường sự kết hợp giữa NCKH và hoạt động học tập của sinh viên Trường Đại học Đồng Tháp” của tác giả Trương Tấn Đạt [35], bài viết “NCKH góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy ở các học viện trường đại học công an nhân dân” của tác giả Vương Thị Ngọc Huệ [54], bài viết “Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên nhân tố góp phần nâng cao chất lượng đào tạo người học ở trường đại học” của tác giả Ngô Thị Bích Thảo [84], bài viết “Các biện pháp phát huy tính sáng tạo trong nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội” của tác giả Đặng Thị Vân [99]... Tác giả Ngô Thị Bích Thảo trong bài viết “Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên nhân tố góp phần nâng cao chất lượng đào tạo người học ở trường đại học” đã cho rằng, hoạt động NCKH của sinh viên là nhân tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực. Tác giả đã chỉ ra các đặc trưng của NCKH là: tính mới mẻ và sự kế thừa; tính khách quan, tin cậy về nguồn gốc, được thu thập, xử lí bằng phương pháp phù hợp; tính mạnh dạn, mạo hiểm; sứ mệnh nhận thức và cải tạo thế giới; tính độc đáo cá nhân và sự trung thực của người nghiên cứu... Tác giả cũng xác định một số biện pháp tăng cường hoạt động NCKH của sinh viên các trường đại học bao gồm: Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Giám hiệu nhà trường; đội ngũ 17 giảng viên tâm huyết; sự phối hợp giữa các phòng, khoa; làm tốt công tác bảo đảm; trang bị phương pháp NCKH cho sinh viên [84, tr.34-35]. Theo lý luận giáo dục hiện đại, nghiên cứu khoa học của người học là cách học sáng tạo ở bậc đại học, là con đường rèn luyện tư duy, tính độc lập suy nghĩ của người học, góp phần chuyển hóa quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Nghiên cứu khoa học của người học là bước đầu vận dụng một cách tổng hợp những tri thức đã lĩnh hội để tiến hành hoạt động nhận thức có tính chất nghiên cứu, góp phần giải quyết những vấn đề khoa học do đời sống thực tiễn đặt ra. * Hướng nghiên cứu về vấn đề nghiên cứu khoa học và quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên - Về vấn đề nghiên cứu khoa học của sinh viên đại học Đề cập tới các hình thức NCKH của sinh viên, tác giả Zinôviev trong tác phẩm: Quá trình dạy học ở trường đại học Xôviết, đã viết: “Khoá luận tốt nghiệp là một công trình nghiên cứu khoa học độc lập, độc đáo của sinh viên”. Cũng theo tác giả khi thực hiện niên luận, khoá luận thì mức độ độc lập và tập dượt NCKH của sinh viên được nâng dần lên qua đó giúp họ có những quan điểm, thái độ đối với những tác phẩm khoa học và những phẩm chất, năng lực của người NCKH cũng được hình thành. Mặt khác để sinh viên thành công trong NCKH, tác giả cũng quan tâm đến các vấn đề giúp họ giải quyết khó khăn khi chọn đề tài, xây dựng cấu trúc của công trình nghiên cứu. Ngoài ra tác giả còn đề cập tới phương pháp quản lý, hướng dẫn sinh viên trong việc NCKH có hiệu quả, đó là, phải tổ chức, tạo mọi điều kiện cần thiết để sinh viên thể hiện tính tích cực, độc lập ở mức độ cao nhất. Giảng viên chỉ giữ vai trò định hướng, tổ chức, theo dõi và giám sát sinh viên NCKH, qua đó giúp họ đạt tới mục đích, yêu cầu đã đặt ra [102, tr. 86]. Trong công trình nghiên cứu “The managetment of astudent research profect - Singapo” các tác giả Rieth Howard và John A. Sharp đã nghiên cứu 18 về hoạt động và NCKH của sinh viên đại học ở Singapo. Trong nghiên cứu của mình các ông đã khái quát việc dạy học và NCKH của sinh viên các trường đại học ở Singapo và cho rằng: Việc dạy học ở Singapo được tổ chức dựa trên cơ sở chủ động học tập - tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Giảng viên giảng dạy có tính chất gợi ý, hướng dẫn tài liệu để sinh viên tự đọc, tự nghiên cứu, tổ chức xêmina và viết thu hoạch theo từng chuyên đề. Điều kiện đảm bảo cho học tập - nghiên cứu được cung cấp đầy đủ và phong phú. Thư viện có đầy đủ sách giáo khoa, sách tra cứu, thư viện điện tử, máy photocopy, mở cửa phục vụ giảng viên và sinh viên từ sáng đến 10 giờ đêm. Giảng đường, phòng học có đầy đủ trang thiết bị dạy học hiện đại. Trong công trình này các tác giả cũng cho rằng: giảng viên phải có trình độ và học vị cao, thành công trong nghiên cứu khoa học thì mới có thể giảng dạy tốt. Nói một cách khác, chất lượng NCKH và chất lượng giảng dạy của giảng viên có liên quan mật thiết với nhau. Trong công trình nghiên cứu của mình các ông cũng biên soạn hệ thống tài liệu nhằm giúp các sinh viên đại học biết cách quản lý kế hoạch nghiên cứu, trên cơ sở đó làm chủ được tiến độ nghiên cứu của mình. Các tác giả cũng đã trình bày những vấn đề về việc lựa chọn đề tài, xây dựng kế hoạch nghiên cứu, tập hợp phân tích, xứ lí và đánh giá kết quả hoạt động NCKH của sinh viên. Ở Việt Nam hoạt động NCKH của sinh viên đại học đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà giáo, các nhà quản lý giáo dục. Đã có nhiều công trình nghiên cứu được biên soạn thành giáo trình, sách chuyên khảo, sách tham khảo phục vụ cho quá trình GD&ĐT trong các trường đại học. Tiêu biểu là các tác phẩm: “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học” của tác giả Thái Duy Tuyên; “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học” của tác giả Vũ Cao Đàm [25]; “Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục dành cho học viên cao học” của hai tác giả Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức [51]; “khoa học luận 19 và phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục” của tác giả Trần Khánh Đức [38]; “Đại cương về khoa học quản lý và quản lý giáo dục” của hai tác giả Trần Kiểm và Nguyễn Xuân Thức [57]... Trong cuốn “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học” của Vũ Cao Đàm được NXB Giáo dục ấn hành năm 2010, tác giả đã mang đến cho người đọc những hiểu biết về những vấn đề cơ bản như: “Khoa học là gì”, trình tự lôgíc trong NCKH, các phương pháp thu thập và xử lí thông tin, những cơ sở của đạo đức khoa học. Theo tác giả, trong NCKH bất kể là nghiên cứu khoa học tự nhiên hay KH XH&NV, khoa học công nghệ thì đều phải tuân thủ theo một trật tự lôgíc xác định, bao gồm các bước đó là: 1. Lựa chọn chủ đề (topic) nghiên cứu và đặt tên của đề tài 2. Xác định mục tiêu (Obijective) nghiên cứu 3. Đặt câu hỏi (Question) nghiên cứu 4. Đưa luận điểm, giả thuyết (Hypothesis) 5. Nêu các luận cứ (evedence) để chứng minh giả thuyết 6. Lựa chọn các phương pháp (methods) chứng minh giả thuyết [25, tr.47]. Cùng với việc giúp người học, người nghiên cứu xây dựng trình tự lôgíc của NCKH tác giả đã hướng dẫn cách xử lí thông tin; cách trình bày các luận điểm khoa học, phương pháp tổ chức thực hiện đề tài. Đặc biệt tác giả đã quan tâm tới vấn đề đạo đức khoa học, ông cho rằng, dù bất cứ lĩnh vực hoạt động nào trong xã hội cũng cần có những chuẩn mực đạo đức, người làm khoa học càng phải đề cao những chuẩn mực đạo đức, đó là: tính cộng đồng, tính phổ biến, tính không vi lợi, tính độc đáo, tính hoài nghi. Các chuẩn mực này được viết tắt là CUDOS, đã trở thành tên gọi chung cho chuẩn mực đạo đức khoa học của cộng đồng khoa học trên thế giới [25, tr.135]. Tác giả Lê Thạc Cán cùng các cộng sự ở Viện Nghiên cứu Đại học và giáo dục chuyên nghiệp đã nghiên cứu đề tài khoa học cấp Nhà nước, mã số 60A 20 “Tổ chức và quản lý nghiên cứu triển khai trong các trường đại học phục vụ sản xuất, đời sống và quốc phòng”. Trong công trình này, tác giả đã đánh giá hiện trạng về tổ chức, quản lý, khai thác năng lực nghiên cứu - triển khai của các trường đại học Việt Nam; hệ thống hoá những kinh nghiệm tổ chức khai thác tiềm lực nghiên cứu của các trường đại học nước ngoài. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất tăng cường mối quan hệ giữa các viện nghiên cứu, các trường đại học, cơ sở sản xuất nhằm hợp tác giải quyết những chương trình nghiên cứu và cùng nhau khai thác các kết quả nghiên cứu đạt được [17, tr.86]. Đề tài trọng điểm cấp Bộ với mã số B2001-52-TĐ-19 “Đánh giá hiệu quả hoạt động NCKH trong các trường đại học giai đoạn 1996 - 2000”, do tác giả Vũ Cao Đàm làm chủ nhiệm, đã làm rõ cơ sở lí luận của việc đánh giá kết quả và hiệu quả nghiên cứu khoa học và nguyên tắc nghiên cứu các yếu tố đầu vào, đầu ra của NCKH. Theo tác giả, đánh giá các yếu tố đầu vào cần dựa vào tiêu chí về các nguồn lực và năng lực thực hiện các hoạt động khoa học công nghệ. Đánh giá kết quả đầu ra cần dựa trên các yếu tố như: thông tin kết quả nghiên cứu, số lượng và chất lượng ấn phẩm khoa học, số lượng và chất lượng vật mẫu, cũng như giá trị mà công trình đạt được. Những giá trị này bao gồm: Giá trị bên trong (thông tin chung, về nhận thức, về hành động); giá trị bên ngoài được đánh giá sau khi áp dụng kết quả nghiên cứu (giá trị kinh tế, giá trị môi trường, giá trị văn hoá, giá trị xã hội, giá trị tri thức... ) [26, tr.67] Tác giả Vương Thị Ngọc Huệ với bài viết “NCKH góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy ở các học viện trường đại học công an nhân dân” đã đánh giá cao vai trò của NCKH trên các phương diện như: nâng cao chất lượng giảng dạy; làm phong phú nội dung giảng dạy; góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy; nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên. Tác giả đã đề xuất một số biện pháp tăng cường NCKH của giảng viên, bao gồm: Nâng cao nhận thức cho đội ngũ giảng viên về NCKH; Các hoạt động nghiên cứu 21 khoa học phải bám sát nhiệm vụ giáo dục đào tạo và NCKH của các học viện, trường đại học công an nhân dân; Xây dựng đội ngũ giảng viên có trình độ chuyên môn giỏi, có kiến thức về NCKH và say mê nghiên cứu khoa học; Tăng cường công tác lưu trữ, thông tin khoa học và áp dụng kết quả NCKH vào trong giảng dạy [54, tr.49-50]. Đề tài “Phát triển năng lực NCKH cho sinh viên Học viện quản lý giáo dục” của tác giả Ngô Viết Sơn đã khẳng định: NCKH là một hình thức tổ chức dạy học bắt buộc ở bậc đại học, với hình thức nghiên cứu khoa học sinh viên bước đầu nhận thức những vấn đề mà xã hội đặt ra, đòi hỏi phải được giải quyết, thông qua đó sinh viên rèn luyện được khả năng tư duy sáng tạo, từng bước hình thành những tố chất của người lao động tri thức [78, tr.22]. Theo tác giả, thời gian qua Học viện Quản lý giáo dục đã quan tâm bồi dưỡng năng lực NCKH cho sinh viên, tuy nhiên kết quả thu lại chưa được như mong đợi. Điều đó thể hiện ở chỗ: một bộ phận lớn sinh viên còn bỡ ngỡ và thờ ơ với các đề tài nghiên cứu; các khoa chưa sát sao, quan tâm đến hoạt động NCKH của sinh viên; các môn học trong nhà trường nhiều nhưng môn học thuộc lĩnh vực nghiên cứu lại ít và thời lượng không đủ cho sinh viên rèn luyện hoàn thiện kỹ năng... Từ đó tác giả đề xuất hệ thống biện pháp nâng cao năng lực NCKH cho sinh viên Học viện Quản lý giáo dục hiện nay. - Về vấn đề quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên Trong công trình nghiên cứu: “Quản lý công tác nghiên cứu khoa học” (năm 1983), K.Bexle, E.deisen, Xlasinxki, do Nguyễn Lân dịch từ bản tiếng Nga, Nguyễn Xuân Khoa hiệu đính, đã chỉ ra rằng: Trong trường đại học, hoạt động NCKH của sinh viên cần nhận được sự quan tâm sâu sắc của các cấp quản lý từ cấp vĩ mô đến cấp vi mô trên các nội dung chủ yếu như sau: Mục đích NCKH của sinh viên là nâng cao chất lượng GD&ĐT chuyên gia có trình độ cao, có khả năng vận dụng vào hoạt động thực tiễn các thành tựu mới nhất của tiến bộ khoa học - kĩ thuật và văn hoá. 22 Các nhiệm vụ cơ bản của công tác NCKH của sinh viên là đào tạo cho họ phương pháp, cách thức giải quyết độc lập các nhiệm vụ khoa học và kĩ thuật, các kỹ năng làm việc trong tập thể khoa học. Tổ chức công tác NCKH của sinh viên là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch để sinh viên tìm tòi, sáng tạo nhằm củng cố, mở rộng tri thức đã lĩnh hội và tham gia giải quyết các vấn đề lý luận, thực tiễn phù hợp với nhiệm vụ học tập. Chịu trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động NCKH cho sinh viên là đội ngũ cán bộ bộ môn, khoa; các giáo sư, giảng viên đại học; cũng có thể mời các cộng tác viên - cán bộ các cơ quan NCKH và các nghiên cứu sinh tham gia hướng dẫn NCKH của sinh viên. Hiệu trưởng, chủ nhiệm khoa, chủ nhiệm bộ môn, Hội đồng nhà trường chịu trách nhiệm thiết lập và tổ chức NCKH cho sinh viên. Đảm bảo điều kiện vật lực cho công tác NCKH của sinh viên được thực hiện theo phương thức: Các chi phí vật chất cần thiết về thiết bị, năng lượng, hoá chất, vật liệu... được tính vào kinh phí ngân sách nhà nước hoặc do đối tác đặt hàng theo hợp đồng bảo đảm. Khen thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học: sinh viên đạt giải trong các cuộc thi sáng tạo và thi sản phẩm khoa học có thể nhận được bằng khen, bằng chứng nhận danh dự cùng với tiền mặt; sinh viên có năng lực rõ rệt về NCKH và thành tích học tốt được chuyển tiếp làm nghiên cứu sinh, ngoài ra công trình đoạt giải còn được thay thế cho một số môn thi... Ở mảng vấn đề này có rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam, trong đó trước hết phải kể đến các tác phẩm như: Đề tài nghiên cứu “Thực trạng và giải pháp cải tiến công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên các trường đại học” của tác giả Trần Thị Ninh Giang [40]; Đề tài “Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên Học viện quản lý giáo dục” của tác giả Ngô Viết Sơn [78]; Đề tài “Nghiên cứu những biện pháp để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động 23 khoa học và công nghệ, lao động trong nhà trường” của tác giả Vũ Tiến Thành; Đề tài cấp Bộ “Điều tra đánh giá hiện trạng, tiềm lực khoa học và công nghệ của các trường đại học và cao đẳng Việt Nam” của tác giả Thân Đức Hiền... Trong cuốn “Đại cương về khoa học quản lý và quản lý giáo dục”, tác giả Trần Kiểm và Nguyễn Xuân Thức đã khẳng định “Quản lý là một khoa học”. Với quan niệm như vây, các tác giả đã khái quát những vấn đề chung về quản lý; quản lý giáo dục và chỉ rõ các chức năng quản lý bao gồm: - Chức năng kế hoạch hoá; - Chức năng tổ chức; - Chức năng chỉ đạo thực hiện; - Chức năng kiểm tra trong quản lý giáo dục. Bên cạnh đó, các tác giả đã xác định hệ thống nguyên tắc quản lý giáo dục như: nhóm những nguyên tắc chính trị xã hội; nhóm những nguyên tắc về hoạt động quản lý giáo dục; nhóm những nguyên tắc về hoạt động quản lý giáo dục [57, tr.58]. Trong cuốn sách “Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỉ XXI” xuất bản năm 2014, tác giả Trần Khánh Đức đã dành một chương (hơn 100 trang) để viết về hoạt động NCKH và quản lý hoạt động này. Tác giả đã chỉ ra các đặc trưng của hoạt động NCKH và công nghệ, các phương pháp NCKH giáo dục; đánh giá trong NCKH; kinh nghiệm quốc tế về hoạt động nghiên cứu triển khai. Đồng thời tác giả cũng đã có những chỉ dẫn cần thiết về xây dựng đề cương NCKH giáo dục. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã tổng kết kinh nghiệm đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động (hoặc đề tài) NCKH theo quan điểm quản lý chất lượng tổng thể, bao gồm: Chất lượng đầu vào (input); chất lượng quá trình (Prosection); chất lượng đầu ra (Output); chất lượng hiệu quả (effect). 24 Việc đánh giá, nghiệm thu các công trình NCKH chủ yếu là đánh giá hiệu quả nghiên cứu theo các mặt: Hiệu quả kinh tế; hiệu quả xã hội; hiệu quả khoa học công nghệ; hiệu quả thông tin; hiệu quả đào tạo [37, tr.698]. Cùng với việc xác định các nội dung đánh giá, tác giả đã xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá cụ thể, được lượng hoá thành điểm số và mức độ đánh giá, giúp cho đội ngũ cán bộ quản lý và các cơ quan quản lý khoa học dễ dàng sử dụng trong quản lý đánh giá hiệu quả NCKH của nhà trường, cơ quan, đơn vị mình. Nghiên cứu khoa học và quản lý NCKH là vấn đề được nhiều học viên cao học và nghiên cứu sinh quan tâm nghiên cứu. Những công trình của các đối tượng kể trên cũng khá đa dạng, điều đó có thể nhận thấy qua các luận văn, luận án đã bảo vệ thành công như: Luận án “Mô hình quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học trong đại học đa ngành đa lĩnh vực” của tác giả Lê Yên Dung [23]; Luận án “Quản lý nghiên cứu khoa học ở các trường đại học sư phạm” của tác giả Hoàng Thị Nhị Hà [42]; Luận án “Biện pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học giáo dục của sinh viên đại học sư phạm” của tác giả Lê Thanh Chung [20]. Tác giả Lê Yên Dung năm 2010 đã bảo vệ thành công luận án “Mô hình quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học trong đại học đa ngành đa lĩnh vực” tại Đại học Giáo dục - Đại học quốc gia Hà Nội. Với quan điểm tiếp cận hệ thống, tiếp cận phát triển và tiếp cận mục tiêu... luận án đã tập trung nghiên cứu để tìm ra phương thức tổ chức, cơ chế vận hành, giải pháp tác động, cho mô hình quản lý NCKH ở các trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực ở Việt Nam. Cơ sở lí luận của luận án được xây dựng theo cách tiếp cận quản lý chất lượng tổng thể, đó là xây dựng mô hình cấu trúc chức năng quản lý hoạt động NCKH ở đại học đa ngành đa lĩnh vực. Trên cơ sở nghiên cứu đánh giá thực trạng mô hình và quy trình quản lý NCKH, qui trình quản lý đề tài, quản lý nguồn nhân lực... tác giả đề xuất mô hình quản lý và 4 nhóm giải pháp theo các mặt: tổ chức, chính sách, tăng cường quản lý chất
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan