Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quản lý nhà nước đối với hoạt động xnk tại nước chdcnd lào...

Tài liệu Quản lý nhà nước đối với hoạt động xnk tại nước chdcnd lào

.PDF
179
439
127

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xuất nhập khẩu là một ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân, đảm nhận chức năng lưu thông hàng hóa dịch vụ giữa trong và ngoài nước, là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Hoạt động này cũng cần phải được quản lý theo một cơ chế nhất định, mang tính đặc thù. Đó là cơ chế quản lý xuất nhập khẩu. Cơ chế quản lý xuất nhập khẩu có thể được hiểu là các phương thức mà qua đó, Nhà nước tác động có định hướng theo những điều kiện nhất định mà các đối tượng (chủ thể và khách thể) tham gia hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) nhằm đảm bảo cho sự tự vận động của hoạt động XNK hướng đến các mục tiêu kinh tế - xã hội đã định của Nhà nước. Ngày nay sản xuất đã được quốc tế hóa. Không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển kinh tế mà lại không tham gia vào phân công lao động quốc tế và trao đổi hàng hóa với bên ngoài. Đồng thời, ngày nay XNK không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán với bên ngoài, mà thực chất là cùng với các quan hệ kinh tế đối ngoại khác tham gia vào phân công lao động quốc tế. Do vậy, cần coi XNK không chỉ là một nhân tố bổ sung cho kinh tế trong nước mà cần coi sự phát triển kinh tế trong nước phải thích nghi với lựa chọn phân công lao động quốc tế. Thời gian qua, Nhà nước CHDCND Lào đã tăng cường quản lý đối với hoạt động XNK, song trong bối cảnh hội nhập quốc tế mạnh mẽ hiện nay, quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK còn biểu hiện nhiều vấn đề bất cập: - Hệ thống pháp luật về XNK chưa được xây dựng đồng bộ và tương thích với luất pháp quốc tế. 1 - Nhà nước Lào chưa sử dụng đồng bộ, linh hoạt các công cụ, biện pháp kinh tế để điều tiết hoạt động XNK như: công cụ lãi suất, tỷ giá hối đoái, giá cả, tín dụng, thuế VAT, thuế quan và các biện pháp phi thuế... nên hiệu lực và hiệu quả quản lý chưa cao. - Công tác hoạch định chiến lược, chính sách còn chưa đánh giá dúng khả năng trong nước, tính áp đặt chủ quan còn khá lớn. - Năng lực về đội ngũ cán bộ còn hạn chế, còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Nhìn chung, chưa đáp ứng với yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, việc hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK trong thời gian tới là một yêu cầu cấp thiết. Xuất phát từ lý do đó, tác gia đã chọn đề tài: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK tại nước CHDCND Lào” làm luận án tiến sĩ của mình. 2. Mục đích nghiên cứu - Hệ thống hóa và góp phần bổ sung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. - Phân tích đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về hoạt động XNK thời gian qua. - Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: tất cả những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK ở nước CHDCND Lào. - Phạm vi nghiên cứu: hoạt động quản lý nhà nước đối với XNK gồm rất nhiều vấn đề, tuy nhiên trong khuôn khổ của luận án, chỉ tập trung nghiên cứu 2 một số vấn đề liên quan đến các chính sách quản lý và công cụ quản lý của Nhà nước đối với hoạt động XNK. + Về không gian: luận án nghiên cứu hoạt động quản lý XNK trên toàn lãnh thổ Lào. + Về thời gian: các giải pháp đề xuất trong luận án có ý nghĩa trong giai đoạn từ nay đến năm 2020. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp sau đây: 4.1. Về phân tích dữ liệu Thống kê mô tả Phương pháp này liên quan đến việc thu thập số liệu, tóm tắt, trình bày, tính toán các đặc trưng khác nhau để phản ánh một cách tổng quát đối tượng nghiên cứu là quản lý nhà nước với hoạt động xuất nhập khẩu. Phương pháp này được sử dụng cụ thể qua lập đồ thị, bảng thống kê, các chỉ tiêu là số tuyệt đối và số tương đối, số bình quân ... Dãy số thời gian Luận án dùng dãy số thời gian để nghiên cứu sự biến động của các tham số với các chỉ tiêu: Mức độ bình quân theo thời gian, lượng tăng giảm tuyệt đối, tốc độ tăng, tốc độ phát triển. Sự biến động của các tham số chịu sự tác động của nhiều nhân tố. Phương pháp so sánh Luận án sử dụng phương pháp này để so sánh các chỉ tiêu về kết quả hoạt động xuất nhập khẩu và cách thức quản lý hoạt động xuất nhập khẩu của Lào với chính bản thân và các nước khác như Việt Nam. Trên cơ sở so sánh đó để thấy được những khác biệt trên cả khía cạnh thành công và yếu kém nhằm rút ra những kiến nghị giải pháp cho hoàn thiện quản lý nhà nước lĩnh vực này. Phương pháp diễn giải 3 Phương pháp này sử dụng những thông tin và dữ liệu về hoạt động XNK tại nước CHDCND Lào để thể hiện những diễn biến, thay đổi và điều chỉnh từ các biện pháp quản lý của Nhà nước Lào. Phương pháp tổng hợp Phương pháp này được thực hiện để khái quát các kết quả phân tích, diễn giải để có được những kết luận cô đọng nhất về những thành công và khiếm khuyết trong quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK tại nước CHDCND Lào. Tuy nhiên các phương pháp này không sử dụng riêng biệt hay tách rời nhau mà các phương pháp này sẽ được sử dụng đồng thời và kết hợp vo7o1 nhau nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu. 4.2. Về số liệu Luận án sử dụng chủ yếu là số liệu thứ cấp như số liệu thống kê của Niên giám thống kê CHDCND Lào, Ngân hàng Phát triển Châu Á, Quỹ tiền tệ thế giới IMF và Ngân Hàng thể giới – WB. Do số liệu từ nhiều nguồn như vậy nên các số liệu này đã được đối chiếu cẩn thận, có trao đổi, thảo luận với các chuyên gia, người làm công tác thống kê của Việt Nam và trường Đại học Kinh tế, ĐHĐN trước khi được đưa vào phân tích. 5. Những đóng góp mới của luận án Cho đến nay, chưa có đề tài luận án nào nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK của nước CHDCNDLào trong quá trình đổi mới và gia nhập WTO. Vì vậy, đây sẽ là đóng góp mới của tác giả nhằm phát triển và hoàn thiện lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK trong điều kiện hội nhập kinh tế bao gồm: - Khái quát hóa những mặt tích cực và hạn chế của một số lý thuyết và mô hình quản lý thương mại trên thế giới; đề xuất chuyển đổi phương pháp 4 củ, xây dựng mô hình chiến lược quản lý XNK mới; đồng thời lượng hóa các công cụ chính sách quản lý XNK. - Làm rõ mối quan hệ hữu cơ giữa phát triển XNK và quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK của Lào, nêu bật những bất cập, nguyên nhân hạn chế hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK trong tiến trình “mở cửa” đất nước. - Phân tích các quan điểm, phương hướng và cơ sở khoa học của hệ thống các công cụ chính sách quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK trong điều kiện toàn cầu hóa và tăng cường hội nhập kinh tế. 6. Kết cấu của luận án Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên đây, ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và các bảng biểu, luận án được bố cục như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK tại nước CHDCND Lào trong thời gian qua. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK tại nước CHDCND Lào trong thời gian tới. 7. Tổng quan tài liệu nghiên cứu Nghiên cứu về QLNN với XNK của các nền kinh tế có nhiều. Nhưng thường các nghiên cứu có thể theo nhiều hướng tiếp cận khác nhau. Có những nghiên cứu bắt đầu từ tầm quan trọng của xuất nhập khẩu với nền kinh tế rồi đề xuất cần quản lý và điều tiết như thế nào. Tầm quan trọng của XNK với nền kinh tế đã được đề cập trong nhiều nghiên cứu kinh tế. Trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa dịch vụ là nòng cốt của hoạt động thương mại quốc tế. Nó đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử và đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển chung của kinh tế thế giới. Cơ sở 5 cho sự phát triển của xuất nhập khẩu là lý thuyết lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối (Ricardo D. (1821)). Cho dù sau này có nhiều lý thuyết khác như năng lực cạnh tranh, chuỗi giá trị,…nhưng suy cho cùng đều phát triển từ các lý thuyết ban đầu này. Theo các lý thuyết này mỗi quốc gia có thể lựa chọn sản xuất những hàng hóa dịch vụ mà mình có lợi thế tương đối hay ít bất lợi thế nhất trong giỏ hàng hóa dịch vụ của mình để trao đổi mậu dịch. Việc trao đổi hàng hóa dịch vụ giữa các nước dựa trên lợi thế tương đối hay năng lực cạnh tranh cao hơn … sẽ giúp cho các nền kinh tế phân bổ khai thác sử dụng nguồn lực hợp lý, hiệu quả hơn thúc đẩy kinh tế phát triển (Mankiw (2000)). Như vậy hoạt động xuất nhập khẩu như công cụ giúp cho các nền kinh tế phân bổ, sử dụng nguồn lực của mình có tiết kiệm và hiệu quả hơn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu với phát triển còn thể hiện ở nhiều khía cạnh khác. Trước hết hãy xem xét vai trò của nó với với tăng cường năng lực sản xuất của nền kinh tế. Thông qua nhập khẩu sẽ tạo ra khả năng nhập khẩu những máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại những thứ chưa có khả năng sản xuất ở các nước chưa sản xuất được. Hay từ hoạt động xuất khẩu làm mở rộng khả năng nhập khẩu, tạo ra nguồn tư liệu sản xuất để nhanh chóng tích lũy vốn sản xuất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (Nguyển Thị Ngọc Phùng (2005)). Từ hoạt động xuất khẩu sẽ đã tạo điều kiện cho doanh nhân trong nước tiếp cận với những thị trường mới, tận dụng lợi thế kinh tế theo quy mô, lợi thế tài nguyên thiên nhiên của quốc gia, thúc đẩy chuyên môn hóa. Khi công nghệ sản xuất trong nước còn thâm dụng tài nguyên, lao động, thì buôn bán quốc tế sẽ cho phép quốc gia giải quyết được tình trạng dư thừa nông sản trong nước. Do đó, xuất khẩu sản phẩm dựa vào lợi thế của quốc gia là con đường tạo ra 6 thu nhập ngoại tệ để tạo ra khả năng nhập khẩu (Bùi Xuân Lưu và nhóm tác giả (2007)). Bằng chứng thực tế cho thấy mở cửa nhiều hơn và tăng trưởng nhanh hơn của hàng xuất khẩu thâm dụng lao động gắn liền với giảm nghèo. Như vậy có mối quan hệ mạnh giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo. Khi thu nhập bình quân tăng lên, phân phối thu nhập tương đối ít thay đổi: Thu nhập của những người rất nghèo cũng có xu hướng tăng, đôi khi nhanh hơn bình quân, đôi khi chậm hơn, nhưng xu hướng chung vẫn là thu nhập của người nghèo tăng lên cùng với tăng trưởng kinh tế. Một số nước có tăng trưởng nhanh nhất trong hàng xuất khẩu thâm dụng lao động cũng đạt được giảm nghèo nhanh nhất như Trung Quốc, Việt Nam và nhiều nước khác. Hoạt động xuất nhập khẩu còn tác động đến đói nghèo thông qua tác động lên giá tiêu dùng. Khi các hàng rào nhập khẩu được tháo gỡ, giá của nhiều hàng hoá mà các gia đình nghèo mua giảm xuống, làm tăng thu nhập thực của họ. Một cách tác động trực tiếp của chiến lược hướng ngoại giúp giảm nghèo thông qua gia tăng việc làm cho lao động. Xuất nhập khẩu các hàng hoá thâm dụng lao động, bao gồm hàng công nghiệp chế tạo và nông sản, có tiềm năng tạo ra cơ hội việc làm đáng kể cho người lao động kỹ năng thấp, chính xác là những người sống dưới mức hay cận kề mức đói nghèo. Đây là những gì đã xảy ra tại nhiều nền kinh tế hướng ngoại: Cơ hội việc làm mới giúp tăng thu nhập của người nghèo và giảm số người sống trong cảnh nghèo. Nhưng mở cửa cũng có thể dẫn đến mất việc làm trong một số khu vực, như khi các doanh nghiệp nội địa được bảo hộ hay hàng nông sản không thể cạnh tranh hữu hiệu với hàng nhập khẩu, và người lao động phổ thông trong những khu vực này bị mất việc. Như chúng ta đã nhấn mạnh, trong khi Xuất nhập khẩu mang lại lợi ích cho tổng thể nền kinh tế, thì ngoại thương không nhất thiết làm lợi cho tất cả mọi người. Tác động chung phụ thuộc nhiều vào khả năng lưu chuyển lao 7 động: Để việc mở cửa giúp làm giảm nghèo, người lao động phổ thông cần có khả năng di chuyển từ những khu vực được bảo hộ (đang thu hẹp dần) sang những khu vực hàng hoá ngoại thương (đang mở rộng dần). Các nghiên cứu quốc gia đang phát triển cho thấy rằng cải cách Xuất nhập khẩu gắn liền với gia tăng đói nghèo chỉ khi các bộ luật lao động không linh hoạt làm cản trở sự lưu chuyển người lao động từ hoạt động này sang hoạt động khác (Bùi Quang Bình (2010)). Cho dù nhấn mạnh tầm quan trọng của XNK với sự phát triển nền kinh tế nhưng các nghiên cứu này cũng đã có những những điểm nhấn về quản lý xuất nhập khẩu mà sẽ được đi sâu ở phần dười của tổng quan. Quản lý nhà nước với hoạt động xuất nhập khẩu: Trong nghiên cứu của Đỗ Hoàng Toàn và Mai Văn Bưu (2005) đã khẳng định một trong những chức năng quan trọng của nhà nước là quản lý nhà nước về kinh tế. Nghĩa là nhà nước phải quản lý tất cả các hoạt động trong nền kinh tế và tất nhiên đây là quản lý vĩ mô chứ không phải là quản lý thay doanh nghiệp. Trong các hoạt động kinh tế này bao gồm cả kinh tế quốc tế mà cốt lõi là hoạt động xuất nhập khẩu. Quản lý nhà nước về kinh tế theo các tác giả này là Quản lý Nhà nước về kinh tế là sự quản lý của Nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân bằng quyền lực Nhà nước thông qua cơ chế quản lý kinh tế nhằm đảm bảo tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế quốc dân. Quản lý nhà nước có thể tiếp cận theo nội dung quản lý hay tiến trình quản lý hay phương thức tác động. Để thực hiện quản lý nhà nước sẽ sử dụng nhiều công cụ khác nhau như pháp luật, kinh tế, giáo dục … trong đó các công cụ kinh tế có vai trò quan trọng nhất. Từ đây có thể rút ra quan niệm về quản lý nhà nước với XNK, sự cần thiết phải quản lý và các biện pháp và công cụ để quản lý nhà nước lĩnh vực này. 8 Nghiên cứu của Nguyển Thị Ngọc Phùng (2005)) đã trình bày 3 chiến lược ngoại thương của các nước thường áp dụng trong quá trình phát triển. Cốt lõi của các chiến lược này là các biện pháp và chính sách quản lý của nhà nước với xuất nhập khẩu tùy theo mỗi chiến lược. Các chính sách và biện pháp này đều hướng tới mục tiêu kích thích xuất khẩu và kiểm soát xuất khẩu đồng thời hỗ trợ sản xuất trong nước. Chẳng hạn chiến lược ngoại thương theo hướng sản xuất thay thế nhập khẩu tập trung vào các chính sách thuế và hạn ngạch như công cụ chính để bảo đảm cho sản xuất trong nước tạo ra những hàng hóa đáng ra phải xuất khẩu. Còn chiến lược Đẩy mạnh sản xuất để xuất khẩu thì tập trung nổ lực để đẩy mạnh sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường thế giới bằng nội lực. Trong chiến lược này chính sách tỷ giá hối đoái được coi là quan trọng nhất. Từ nghiên cứu này có thể rút ra những cơ sở cho việc hình thành khung lý thuyết để đánh giá công tác quản lý nhà nước với XNK trên các phương diện: (i) định hướng chiến lược mà quản lý nhà nước với XNK hướng tới; (ii) tiêu chuẩn để xem xét chiến lược XNK của quốc gia; (iii) các công cụ sử dụng trong quản lý hoạt động này. Tuy nhiên nghiên cứu này cũng chưa chỉ ra điều kiện cụ thể áp dụng chiến lược cho các nước nhất là những nước khó khăn như CHDCND Lào. Nghiên cứu của Mankiw (2000) trình bày mô hình và khung phân tích hoạt động của nền kinh tế nhỏ và mở cửa trong đó cán cân thương mại được xem như biến số phản ánh trạng thài của nền kinh tế trong điều kiện này. Điểm đặc biệt là mô hình này được xem xét trong dài hạn và ngắc hạn. Trong dài hạn mô hình nền kinh tế mở gắn liền với thị trường ngoại hối. Từ mô hình này tác giả đã trình bày những biến động của các cân thương mại hay hoạt động XNK dưới tác động của các chính sách tài khóa trong nước và nước ngoài, chính sách ngoại thương v,v…và đã chỉ ra sự hạn chế của nền kinh tế khi áp dụng chính sách bảo hộ cao. Trong ngắn hạn tác giả xem xét thay đổi 9 của hoạt động XNK và tỷ giá hối đoái khi điều chỉnh chính sách tiền tệ và tài khóa của nền kinh tế cũng như kết hợp giữa chúng. Từ nghiên cứu này có thể rút ra những điểm hữu ích cho nghiên cứu về QLNN với hoạt động xuất nhập khẩu trên các mặt sau: (i) Tiêu chuẩn để đánh giá một nền kinh tế mở; (ii) mô hình lý thuyết về nền kinh tế mở; (iii) cách thức tác động của các chính sách quản lý XNK như tài khóa, tiền tệ hay thương mại; (iv) mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái, lãi suất và cán cân thương mại; (v) phương pháp đánh giá tác động của các công cụ quản lý tới XNK. Tuy nhiên những ràng buộc hay các giả định đơn giản hóa trong xây dựng mô hình sẽ phải được xem xét cụ thể khi áp dụng vào quản lý XNK trong nền kinh tế. Luận án tiến sỹ của Đoàn Hồng Lê (2008) - là một nghiên cứu trực tiếp đi vào Quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu tại nước CHXHCN Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cớ sở tập trung vào tình hình quản lý hoạt động xuất nhập khẩu trong điều kiện hội nhập của Việt Nam, tác giả đã tiếp cận theo hướng thay đổi của cách thức quản lý theo thời gian gắn với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tuy nhiên quá trình này gắn chặt với quá trình đổi mới ở Việt Nam. Điềm này có thể phát triển trong luận án đối với nước CHDCND Lào nhưng theo tiến trình đổi mới của Lào. Luận án tiến sỹ của tác giả này đã bàn tới các nội dung và đặc biệt là các công cụ được sử dụng trong quản lý nhà nước hoạt động XNK như thuế xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái….Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp định tính trên cơ sở phân tích thống kê mô tả, so sánh và đánh giá. Từ nghiêu cứu này có thể rút ra những điểm hữu ích cho đề tài về quản lý với hoạt động xuất nhập khẩu trên các mặt sau: (i) nội dung của quản lý nhà nước; (ii) các công cụ để quản lý; (iii) phương pháp định tính trong phân tích tình hình QLNN vớ XNK. Tuy nhiên đây là đề tài nghiên cứu trong QLNN với XNK trong bối cảnh hội nhập của Việt Nam do đó nhấn mạnh khía cạnh này nhiều 10 hơn và khác với cách tiếp cận theo tiến trình đổi mới cơ chế quản lý ở đây. Do vậy khi vận dụng sẽ cần xem xét kỹ những hạn chế này. Từ những nghiên cứu trên có thể rút ra những điểm hữu ích phục vụ cho nghiên cứu luận án tiến sỹ “Quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK tại nước CHDCND Lào” như sau: 1. Xác định rõ hơn tầm quan trọng của hoạt động XNK với nền kinh tế và phải quản lý hoạt động này vì mục tiêu phát triển. 2. Hình thành quan niệm QLNN với hoạt động XNK là các phương thức mà qua đó, Nhà nước tác động có định hướng theo những điều kiện nhất định mà các đối tượng (chủ thể và khách thể) tham gia hoạt động XNK nhằm đảm bảo cho sự tự vận động của hoạt động XNK hướng đến các mục tiêu kinh tế - xã hội đã định của Nhà nước. 3. Quản lý nhà nước có thể tiếp cận theo nội dung quản lý do đó nội dung quản trong đề tài này có thể trình bày theo hướng này; 4. Hình thành được phương pháp luận nghiên cứu cách thức quản lý trong nền kinh tế mở với mô hình đặc trưng nhỏ và mở cửa. Cốt lõi ở đây chính là mối quan hệ giữa cán cân thương mại – biểu hiện rõ nhất trạng thái hoạt động XNK và các biến số vĩ mô quan trọng khác như tỷ giá, lãi suất, lạm phát và tăng trưởng GDP mà ở đó sẽ cho thấy tác động của các chính sách và biện pháp quản lý của nhà nước tới hoạt động này. 5. Từ đây cũng cung cấp cách tiếp cận để thu thập và xử lý số liệu thống kê cho nghiên cứu. 11 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU 1.1. KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU 1.1.1. Khái quát về hoạt động xuất nhập khẩu Có nhiều khái niệm khác nhau về ngoại thươnghay XNK. Song xét về đặc trưng thì XNK được định nghĩa là việc mua, bán hàng hóa và dịch vụ qua biên giới quốc gia. Cách đinh nghĩa này được sử dụng nhiều nhất khi nhìn vào các chức năng của XNK, tức vai trò của nó như chiếc cầu nối giữa cung, cầu hàng hóa và dịch vụ của thị trường trong và ngoài nước về số lượng, chất lượng và thời gian sản xuất. Trong nhiều trường hợp, trao đổi hàng hóa và dịch vụ được đi kèm việc trao đổi các yếu tố sản xuất (ví dụ: lao động và vốn), nhất là XNK trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế.[26] Các nhà kinh tế học còn dùng định nghĩa XNK như là một công nghệ khác để sản xuất hàng hóa và dịch vụ (thậm chí cả các yếu tố sản xuất). Như vậy, XNK được hiểu như là một quá trình sản xuất gián tiếp.[26] Trong hoạt động ngoại thương hay XNK: xuất khẩu là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho nước ngoài, và nhập khẩu là việc mua hàng hóa và dịch vụ của nước ngoài. Mục tiêu chính của XNK là phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế trong nước, không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân. Xuất khẩu là để nhập khẩu; nhập khẩu là nguồn lợi chính từ ngoại thương hay XNK.[26] Ngoài ra, ngoại thương hay XNK là một bộ phận quan trọng của kinh tế đối ngoại, có liên quan và tác động mạnh tới sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế thông qua việc phát huy tính kinh tế nhờ quy mô và chuyên môn hóa trong phân công lao động quốc tế dựa trên lợi thế so sánh của mỗi quốc gia. XNK thường được nghiên cứu dưới 3 góc độ[37]: 1/. Đứng trên quan điểm và lợi ích toàn cầu, tìm ra những quy luật, xu hướng và vấn đề mang tính chất chung của thế giới; 12 2/. Đứng trên lợi ích và quan điểm của mỗi quốc gia để xem xét hoạt động mậu dịch của quốc gia đó với phần còn lại của thế giới; 3/. Đứng trên quan điểm và lợi ích của doanh nghiệp, xác định phương án kinh doanh quốc tế nhằm tối đa hóa lợi nhuận của mình. Theo nghĩa phổ biến, XNK là phạm trù kinh tế phản ánh quan hệ hàng tiền giữa các quốc gia với nhau. Theo quan điểm của Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), XNK được hiểu theo nghĩa rất rộng, bao gồm mọi hoạt động kinh doanh trên thị trường quốc tế từ thương mại hữu hình (liên quan đến hàng hóa, gồm hàng sơ chế có hàm lượng công nghệ thấp và hàng tinh chế có hàm lượng công nghệ cao), đến thương mại vô hình (liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ như phát minh, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, quyền tác giả, thương hiệu...) và thương mại dịch vụ (như tài chính, ngân hàng, vận tải, bưu chính viễn thông, dụ lịch, y tế, giáo dục...)[37]. Nội dung của ngoại thương là các hoạt động XNK, trao đổi hàng hóa, dịch vụ, khoa học kỹ thuật giữa nước này với nước khác, hoặc trong phạm vi một quốc gia (với các cá nhân hay doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động trên quốc gia đó). Trong điều kiện hiện nay, các khái niệm “trong nước”, “ngoài nước” phải được quy ước rất chặt chẽ. Vì trong thực tiễn xuất hiện những hình thức ngoại thương, như xuất khẩu tại chỗ - hàng hóa dịch vụ được sản xuất trong nước và bán cho chủ thể nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ quốc gia đó; xuất - nhập khẩu quá cảnh - hàng hóa dịch vụ được sản xuất ở nước ngoài nhập vào trong nước để xuất khẩu đi nuốc thứ ba; các hoạt động tạm nhập tái xuất, v.v..[37] 1.1.2. Khái niệm về quản lý nhà nước đối với hoạt dộng XNK Quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân (hoặc vắn tắt là quản lý nhà nước về kinh tế) là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tếđất nước đã đặt ra, trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế. Quản lý nhà nước về kinh tế là nội dung cốt lõi của quản lý các 13 hoạt động xã hội liên quan đến kinh tế nói chung và nó phải gắn chặt với các hoạt động quản lý khác của xã hội. Quản lý nhà nước về kinh tế được thể hiện thông qua các chức năng kinh tế và quản lý kinh tế của Nhà nước[24]. Thực tế đã chứng minh: việc khắc phục những nhược điểm, hạn chế khuyết tật của cơ chế thị trường, để tạo điều kiện thuận lợi cho cơ chế này hoạt động có hiệu quả, không thể không có Nhà nướcvới tư cách là chủ thể của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Như vậy, Nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế là nhu cầu khách quan, nội tại và nền kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường; còn việc điều tiết, khống chế và định hướng các hoạt động kinh tế của các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế theo phương hướng và mục tiêu nào lại lệ thuộc vào bản chất của các hình thức nhà nước và con đường phát triển mà nước đó lựa chọn[24]. Từ khái niệm đã nêu có thể rút những điểm cơ bản sau: Thực chất của quản lý nhà nước về kinh tế là việc tổ chức và sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực trong và ngoài nước mà Nhà nước có khả nảng tác động vì mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước. Trong đó, vấn đề nắm bắt được con người, tổ chức và tạo động lực lớn nhất cho con người hoạt động trong kinh tế là vấn đề có vai trò then chốt. Đúng như Trần Hưng Đạo đã nói: "Kể ra dân không bao giờ hài lòng, sợ ta thì khinh địch, sợ địch thì khinh ta. Bị dân khinh thì thua, dân sợ uy thì thắng [25]. Bản chất của quản lý nhà nước về kinh tế là đặc trưng thể chế chính trị của đất nước; nó chỉ rõ Nhà nước là công cụ của giai cấp hoặc của lực lượng chính trị, xã hội nào? Nó dựa vào ai và hướng vào ai để phục vụ? Đây là vấn đề khác nhau cơ bản giữa quản lý nhà nước về kinh tế của các chế độ xã hội khác nhau[25]. Trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, các hoạt động sản xuất-kinh doanh, các hành vi giao dịch đều tiến hành thông qua thị trường và tuân theo các quy luật của thị trường.Nhược điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường sẽ khó có thể khắc phục và sẽ đẩy môi trưòng chính trị, kinh tế, xã hội, đối ngoại vào tình trạng rối loạn, khủng hoảng. Cơ chế thị trường rất cần có 14 môi trường ổn định và lành mạnh để hoạt động, song những nhược điểm và khuyết tật của cơ chế này đã phát sinh những xu hướng phủ định chính những điều kiện hoạt động của bản thân nó như: do chạy theo lợi nhuận cục bộ sẽ dẫn đến sự phân bố và sử dụng các nguồn lực không hợp lý, vì lợi ích kinh tế cá nhân, cục bộ mà chà đạp lên lợi ích chung, phá hoại môi sinh, gây ô nhiễm môi trường. "Cánh kéo" phân hoá giàu nghèo ngày một lớn, bất công trong xã hội ngày một tăng v.v... gây rối loạn nhiều mặt trong đời sống cộng đồng. Trong những biểu hiện trên, biểu hiện có tác động sâu sắc vàtoàn diện đến môi trường chung là mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các thành phần kinh tế. Cơ chế thị trường - "Bàn tay vô hình" - không thể khắc phục được mâu thuẫn này, mà đòi hỏi phải có bàn tay Nhà nước. Chính từ nhu cầu này của thành phần kinh tế nói chung và của cơ chế thị trường nói riêng mà mọi Nhà nước đều có chức năng đảm bảo về mặt chính trị xã hội, bảo hiểm về mặt kinh tế nhằm duy trì các quan hệ lợi ích của các giai cấp và tầng lớp xã hội trong khuôn khổ của quan hệ sản xuất phát triển và pháp luật quy định. Chỉ có trên cơ sở ấy mới có bầu không khí chính trị và môi trường kinh tế, xã hội ổn định, tạo điều kiện cho cơ chế thị trường vận động với cơ cấu và các quan hệ kinh tế dựa trên trình độ phát triển của nền sản xuất đạt được của mỗi nước[25]. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, giữ vững trật tự, kỷ cương, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũnglà yêu cầu luôn đòi hỏi đối với Nhà nước[24]. Nhà nước sử dụng tốt các công cụ quản lý kinh tế: 1) Pháp luật; 2) Kế hoạch, Chương trình, Quy hoạch phát triển kinh tế; 3) Các chính sách kinh tế; 4) bộ máy hành chính và đội ngũ cán bộ công chức nhà nước; 5) Tài sản của nhà nước; 6) Các công cụ chuyên chính khác: Quân đội, công an, các phương tiện truyền thông, các tài sản văn hóa v.v.nhằm thực hiện tốt các chức năng quản lý kinh tế vĩ mô[24]. Quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân (hoặc vắn tắt là quản lý nhà nước về kinh tế) là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà 15 nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đã đặt ra, trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế.[27] Quản lý kinh tế là để chỉ phương thức mà qua đó Nhà nước tác động vào nền kinh tế để định hướng nền kinh tế tự vận động nhằm tới các mục tiêu đã định. Quản lý kinh tế là phương thức tác động của Nhà nước vào các quy luật vận động của các quy luật kinh tế trong nền kinh tế, vì vậy, quản lý kinh tế cần thiết tự điều chỉnh không ngừng theo quy luật vận hành của các quy luật kinh tế.[26] Quản lý XNK có thể được hiểu là các phương thức mà qua đó, Nhà nước tác động có định hướng theo những điều kiện nhất định mà các đối tượng (chủ thể và khách thể) tham gia hoạt động XNK nhằm đảm bảo cho sự tự vận động của hoạt động XNK hướng đến các mục tiêu kinh tế - xã hội đã định của Nhà nước.[26] Quản lý XNK được xây dựng trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Ví dụ, ở Việt Nam hiện nay Đảng và Nhà nước chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XNCN có sự quản lý của Nhà nước. Do đó, quản lý XNK phải tuân thủ theo các quy luật của kinh tế thị trường có sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Việc xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện về hoạt động quản lý XNK vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Nó đòi hỏi vừa phải tuân theo các quy luật kinh tế khách quan, vừa đòi hỏi tài năng, nghệ thuật nắm bắt đúng các quy luật kinh tế đang hoạt động và tác động tích cực của các quy luật kinh tế đó trong những điều kiện kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế cụ thể.[1] Như vậy, quản lý XNK có thể và cần thay đổi cho phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, nghĩa là các công cụ, chính sách và nội dung của quản lý XNK có thể thay đổi.[26] 16 1.1.3. Quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK trong điều kiện hội nhập Quản lý nền kinh tế quốc dân và XNK nói riêng là một yêu cầu có tính khách quan.  Sự tác động của các quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở phạm vi quốc gia cũng như quốc tế mang tính chất trực tiếp. Sự tác động đó làm cho nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như kinh tế toàn cầu hoạt động năng động, kích thích các nền kinh tế phát triển, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên, sự tác động đó cũng có nhiều mặt trái như: Do chạy theo lợi nhuận nên xuất khẩu, nhập khẩu không tạo ra cơ cấu sản phẩm tối ưu cho xã hội; không chú ý đến bải vệ môi trường, an ninh xã hội; cũng do chạy theo lợi nhuận nên các nhà sản xuất kinh doanh làm bất cứ việc gì dù là buôn gian, bán lận, đầu cơ tích trữ để kiếm được nhiều lợi lộc. Để bảo vệ lợi ích giai cấp mà Nhà nước là người đại diện, Nhà nước cần phải can thiệp vào thị trường để điều chỉnh, điều tiết nhằm hướng sự tác động của thị trường vào phục vụ lợi ích của nhân dân[26].  Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực sản xuât ngày càng mang tính quốc tế hóa, trình độ xã hội hóa sản xuất ngày càng cao. Để cho quá trình này diễn ra một cách chủ động, vừa tranh thủ được lợi ích do hội nhập mang lại, vừa không làm tổn hại đến lợi ích dân tộc, tất yếu đòi hỏi phải có sự quản lý tập trung của Nhà nước theo một cơ chế phù hợp, trong đó Nhà nước với vai trò của một “nhạc trưởng”[26].  Mỗi doanh nghiệp, mỗi nhà quản trị doanh nghiệp hoạt động kinh doanh XNK trong một khuôn khỏ hạn hẹp, hướng tới mục tiêu kinh tế cụ thể, do đó, tầm nhìn xa trông rộng để định hướng cho sự phát triển và tránh mọi rủi ro, hoặc do khả năng tự tạo lập những điều kiện, môi trương kinh doanh bị hạn chế. Vì vậy, doanh nghiệp rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước để thực hiện chiến lước kinh doanh của mình[26].  Việc mua bán hàng hóa - dịch vụ trên thị trường thế giới liên quan đến rất nhiều yếu tố: Kinh tế, chính trị, luật pháp. Để tránh được những bất lợi 17 trong kinh doanh, ổn định buôn bán lâu dài và hạn chế tác động xấu của các cuộc khủng hoảng kinh tế... đòi hỏi phải có sự quản lý của Nhà nước.[26] 1.2. NHỮNG NỘI DUNG CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XNK 1.2.1. Xác định mô hình quản lý XNK Về mô hình quản lý Nhà nước về kinh tế đã được nói tới từ lâu. Ngay từ thời A.Dam.Smith (1723-1790) đã xuất hiện mô hình quản lý nhà nước về kinh tế mà theo đó Nhà nước đã có sự can thiệp nhất định vào hoạt động kinh tế thông qua đánh thuế và hạn chế hay khuyến khích hoạt động ngoại thương. Tuy rằng, nền kinh tế vẫn hoạt động theo sự dẫn dắt của “bàn tay vô hình”. Sự quản lý Nhà nước chỉ đóng khung trong quản lý xã hội, quản lý hành chính mà thôi. Với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp trở thành căn bện kinh niên không giả quyết nỗi. “Bàn tay vô hình” tỏ ra bất lực trước thực tế đó. Với học thuyết kinh tế của J.M.Keynes (1883- 1946), mô hình quản lý nhà nước về kinh tế mà theo đó sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế ngày càng nhiều hơn và trở thành một trong những nhân tố không thể thiếu của một nền kinh tế thị trường phát triển. Mô hình quản lý nền kinh tế với sự can thiệp của Nhà nước vào thi trường đã trở thành một tất yếu trong sự phát triển chung của khoa học kinh tế. Mô hình quản lý nhà nước trực tiếp toàn diện nền kinh tế từ năm 20 của thế kỷ 20 cho đến những năm 80 hay mô hình quản lý tập trung. Cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90, do những khiếm khuyết mà mô hình này đã có những thay đổi đáng kể và chuyển thành mô hình quản lý nền kinh tế thi trường có sự can thiệp của nhà nước. Thực chất đó là sự kết hợp giữa “Bàn tay vô hình” và “ Bàn tay hữu hình” trong việc điều tiết nền kinh tế. Cho đến nay, dù bất kỳ một nền kinh tế nào đều cần đến bàn tay của Nhà nước, tuy liều lượng của “Bàn tay vô hình” và “Bàn tay hữu hình” có thể rất khác nhau. Hoạt động XNK là hoạt động kinh tế trong nền kinh tế mở cửa, khi các nền kinh tế tận dụng lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh…. Để tìm cách huy 18 động và phân bổ nguồn lực có hiệu quả nhất. Cơ chế huy động và phân bổ này sẽ theo cơ chế vận hành của thị trường và thông qua sự hoạt động của một loạt các thị trường như hàng hóa, vốn, lao động, công nghệ…trên thị trường rộng lớn bao gồm nhiều nền kinh tế khác nhau. Hoạt động XNK thể hiện rõ nhất trạng thái hoạt động của các thị trường này. Nhưng đó chỉ mới là khía cạnh mô hình vận hành hoạt động xuất nhập khẩu theo cơ chế bàn tay vô hình. Trong thực tế hiện nay mô hình quản lý hiện đại là mô hình kết hợp giữa thị trường và sự điều tiết và can thiệp của nhà nước. Thực tế hiện nay hầu như các nước đều lựa chọn và thực hiện mô hình quản lý XNK theo kiểu hỗn hợp giữa cơ chế thị trường và sự can thiệp của nhà nước. Điểm khác biệt giữa các nước chính là mức và liều lượng can thiệp của nhà nước. Việc xác định mô hình quản lý XNK còn tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế. Những nước đang phát triển nói chung và CHDCND Lào nói riêng cũng cần có lựa chọn cho mình một mô hình quản lý XNK phù hợp với mình và từng giai đoạn khác nhau của bản thân. 1.2.2. Tổ chức hoạt động XNK Là quá trình đưa chiến lược vào cuộc sống và đạt tới các mục tiêu đặt ra trên cơ sở triển khai các phương án chiến lược đã lựa chọn với các công cụ đã có. Quá trình này gồm 3 bước. a. Bộ máy quản lý hoạt động XNK Trong nội dung này cần phải có lựa chọn một cơ quan nhận nhiệm vụ chính thức chủ trì thực thi và một số cơ quan khác tham gia. Do mỗi chiến lược có liên quan tới nhiều ngành nhiều cấp. Khi thực hiện như vậy mới xác định trách nhiệm cụ thể của mỗi cơ quan. Cơ quan chủ trì thực hiện phải có các điều kiện: (1) Đảm bảo về mặt chính trị và pháp luật; (2) Có đủ nguồn lực; (3) Bảo đảm về thông tin gián tiếp; (4) Được quản lý và phân bổ ngân sách; 19 (5) Có cố vấn về kỹ thuật… Trong nội dung này cần phải chú trọng công tác lựa chọn đào tạo bồi dưỡng cán bộ thực thi chiến lược, đây có thể coi là khâu quyết định trong việc thực thi thành công chiến lược. Cán bộ là những người trực tiếp tham gia hoạt động triển khai chiến lược vào cuộc sống, thực thi các giải pháp chiến lược. Họ là người nắm chắc nội dung chiến lược hiểu biết thực tế để triển khai và điều chỉnh. Từ thực tế thực thi chiến lược họ sẽ khuyến nghị điều chính chiến lược. Nhân tố con người này có vai trò quyết định trong việc tổ chức các chiến lược xuất nhập khẩu. Cho dù chiến lược có tốt đến mấy đi chăng nữa nhưng tổ chức thực hiện không tốt thì chiến lược sẽ không đi vào cuộc sống, người dân vẫn không có cơ hội để tham gia vào các lọai hình bảo hiểm và các chiến lược trợ giúp. Do vậy, việc thiết lập hệ thống tổ chức quản lý với đội ngũ cán bộ quản lý chuyên nghiệp để thực hiện các chiến lược của hệ thống xuất nhập khẩu cần đáp ứng được yêu cầu theo hướng phải bao phủ được tất cả các đối tượng có nhu cầu thực sự, cho dù đó là chiến lược bảo hiểm hay chínupsách trợ giúp. Về nguyên tắc, có thể thiết lập được tổ chức độc lập cho từng hợp phần nhưng cũng có thể sử dụng bộ máy chính quyền hiện có để thực hiện, tùy điều kiện cụ thể của các quốc gia. Thể chế chiến lược mang tính phổ cập thì chi phí quản lý ít và bộ máy tổ chức quản lý gọn nhẹ và ngược lại, thể chế phức tạp thì chi phí quản lý tốn kém hơn. Ngoài ra cải cách thủ tục hành chính khiến cho thủ tục đơn giản để khâu ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể hóa chiến lược. b. Tổ chức hoạt động XNK Việc triển khai chiến lược có vai trò quyết định sự thành công của chiến lược. Đây là nhiệm vụ mà bộ máy tổ chức thực hiện chiến lược phải hoàn thành. Một bộ máy tốt thì phải tổ chức triển khai để đưa chiến lược vào cuộc sống. Muốn triển khai sâu rộng chiến lược trước thế cần khai thác tốt các kênh truyền tài để triển khai chiến lược. Vì những thông tin về chiến lược như mục 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan