Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động ở việt nam ...

Tài liệu Quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động ở việt nam

.PDF
126
608
122

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ _________________________ NGUYỄN THI ̣ HUYỀN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ _________________________ NGUYỄN THI ̣ HUYỀN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số : 60 31 01 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGÔ VĂN LƢƠNG HÀ NỘI - 2011 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của TS. Ngô Văn Lương. Các số liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, bảo đảm tính khách quan. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày tháng năm 2011. Tác giả Nguyễn Thi ̣ Huyền 3 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chƣơng 1. LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG ................................................................... 6 1.1. Xuất khẩu lao động: bản chất, đặc điểm và các hình thức ............................ 6 1.1.1. Bản chất, đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động .............................. 6 1.1.2. Các hình thức xuất khẩu lao động ........................................................... 17 1.2. Quản lý nhà nước về hoạt động xuất khẩu lao động ................................... 20 1.2.1. Sự cần thiết của quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động ....................... 20 1.2.2. Quản lý nhà nước về hoạt động xuất khẩu lao động ................................ 26 1.3. Thực tiễn quản lý nhà nước hoạt động xuất khẩu lao động ở một số nước ....................................................................................................... 35 1.3.1. Thực tiễn quản lý nhà nước hoạt động xuất khẩu lao động của Nhà nước Hàn Quốc ...................................................................................... 35 1.3.2. Thực tiễn quản lý nhà nước hoạt động xuất khẩu lao động của nhà nước Philipines ....................................................................................... 38 1.3.3. Thực tiễn quản lý nhà nước hoạt động xuất khẩu lao động của nhà nước Thái Lan ........................................................................................ 41 1.3.4. Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn quản lý nhà nước hoạt động xuất khẩu lao động của Chính phủ các nước, hàm ý đối với Việt Nam........... 45 Chƣơng 2. QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ................................................................................................ 47 2.1. Thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động và quản lý nhà nước lĩnh vực này ở Việt Nam từ 1986 - 2009 .............................................................. 47 2.1.1. Thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam từ 1986-2009 ...... 47 2.1.2. Thực trạng quản lý nhà nước hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam từ 1986 - 2009 ............................................................................... 54 2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với quản lý nhà nước hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam .................................................................................... 64 4 2.2.1. Định hướng xuất khẩu lao động .............................................................. 64 2.2.2. Tạo lập môi trường cho xuất khẩu lao động ............................................ 68 2.2.3. Tổ chức điều hành xuất khẩu lao động.................................................... 74 2.2.4. Kiểm soát hoạt động xuất khẩu lao động ................................................ 76 Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM TỪ NAY ĐẾN 2015......................................... 78 3.1. Dự báo xu hướng, quan điểm, mục tiêu và phương hướng cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động ở Việt Nam giai đoạn 2010 - 2015 .................................................................... 78 3.1.1. Dự báo xu hướng di chuyển lao động quốc tế và Việt Nam .................... 78 3.1.2. Quan điểm, mục tiêu và phương hướng cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động ở Việt Nam giai đoạn 2010 - 2015 ............................................................................................ 93 3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam ..................................................... 96 3.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao vai trò trách nhiệm của các chủ thể tham gia xuất khẩu lao động ................................................................................. 96 3.2.2. Nhóm các giải pháp về cơ chế, chính sách .............................................. 98 3.2.3. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện.................................................... 103 3.2.4. Nhóm giải pháp chỉ đạo điều hành xuất khẩu lao động ......................... 113 KẾT LUẬN...................................................................................................... 115 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 117 5 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa QLNN: Quản lý nhà nước XHCN: Xã hội chủ nghĩa XKLĐ: Xuất khẩu lao động 6 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện chủ trương “Đẩy mạnh xuất khẩu lao động; xây dựng và thực hiện đồng bộ, chặt chẽ cơ chế, chính sách về đào tạo nguồn lao động, đưa lao động ra nước ngoài, bảo vệ quyền lợi và tăng uy tín của người lao động Việt Nam ở nước ngoài” trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 của Đảng, những năm qua, xuất khẩu lao động được xem là một hoạt động kinh tế - xã hội quan trọng nhằm góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước. Đi đôi với việc xây dựng, củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, việc tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động này có ý nghĩa hết sức quan trọng. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, việc thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực xuất khẩu lao động đã bộc lộ nhiều lúng túng, hạn chế và yếu kém mà biểu hiện rõ nhất là các cơ quan quản lý Nhà nước từ Trung ương tới địa phương chưa có sự phối hợp đồng bộ trong việc đầu tư mở rộng thị trường, đào tạo lao động xuất khẩu, cụ thể hoá chủ trương, chính sách và chỉ đạo để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động; thiếu sự kết hợp hài hoà giữa sự quản lý vĩ mô của Nhà nước và sự chủ động, tự chịu trách nhiệm của tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Những yếu kém nói trên nếu không được khắc phục triệt để và kịp thời sẽ tác động xấu đến tình hình hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta, nhất là trong môi trường cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Tình hình thực tế nêu trên đòi hỏi cần phải nghiên cứu, phân tích đánh giá quản lý của Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động ở nước ta trong thời gian qua nhằm tìm ra những nguyên nhân của những thành tựu và 7 hạn chế, đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường quản lý của Nhà nước, tạo điều kiện để Nhà nước thực sự là cơ quan định hướng, điều tiết và tạo điều kiện cho việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu lao động theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội X của Đảng “Đẩy mạnh xuất khẩu lao động và tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động này”. Vì vậy, việc chọn đề tài: “Quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam” để nghiên cứu là có ý nghĩa rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm qua, vấn đề xuất khẩu lao động của Việt Nam đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của các cấp, các ngành, các tổ chức và cá nhân. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Nguyễn Lương Trào (1993): Mở rộng và nâng cao hiệu quả việc đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài - Luận án tiến sỹ kinh tế; Cao Văn Sâm (1994): Hoàn thiện hệ thống tổ chức và cơ chế xuất khẩu lao động - Luận án tiến sỹ kinh tế; Trần Văn Hằng (1995): Các giải pháp nhằm đổi mới quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động trong giai đoạn 1995 - 2010 - Luận án tiến sỹ kinh tế; Nguyễn Đình Thiện (2000): Một số vấn đề về xuất khẩu lao động của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Luận án tiến sỹ kinh tế chính trị; Nguyễn Văn Tiến (2002): Đổi mới cơ chế quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động Thực trạng và giải pháp - Luận văn thạc sỹ quản lý kinh tế; Nguyễn Phúc Khanh (2004): Xuất khẩu lao động với chương trình quốc gia về việc làm Thực trạng và giải pháp - Đề tài khoa học cấp Bộ; Lưu Văn Hưng (2005): Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vực đông Bắc Á - Thực trạng và giải pháp - Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị. Ngoài ra còn có một số bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí, trong đó có thể kể đến: Nguyễn Lương Phương (2002): Hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia - những giải pháp trong tình hình mới - Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới - số 8 1(75); Nguyễn Thị Hằng: Đẩy mạnh xuất khẩu lao động khu vực nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo - Tạp chí Cộng sản số 4 - 5 (2003); Phạm Thị Khanh (2004): Phát triển thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế - Tạp chí Nghiên cứu kinh tế - số 314. Các công trình nghiên cứu nói trên đã tiếp cận vấp đề xuất khẩu lao động ở nhiều góc độ khác nhau, trong đó tập trung vào việc phân tích và đánh giá tình hình hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ở hầu hết các công trình, các tác giả trong khi phân tích, đánh gía thực trạng, đều có bàn đến vai trò quản lý của Nhà nước các cấp nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ xem vai trò của Nhà nước như một giải pháp trong hệ thống các giải pháp, chưa tập trung đi sâu phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý Nhà nước hoạt động xuất khẩu lao động. Do đó, các công trình nghiên cứu chưa có điều kiện tập trung giải quyết các vấn đề đặt ra đối với quản lý của Nhà nước nhằm tạo điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam. Do đó, nghiên cứu quản lý của Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay có thể được xem là một vấn đề mới, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích Trên cơ sở hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung, xuất khẩu lao động nói riêng, luận văn có mục đích phân tích, đánh giá thực trạng quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động ở nước ta trong thời gian qua và kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, góp phần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động trong giai đoạn từ nay đến năm 2015. 9 * Nhiệm vụ Để thực hiện được mục đích đó, luận văn có các nhiệm vụ chính sau đây: - Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò quản lý của nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động. - Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý của Nhà nước trong hoạt động xuất khẩu lao động ở nước ta trong thời gian qua, rút ra một số vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động ở nước ta từ nay đến năm 2015 và những năm tiếp theo. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Do thị trường lao động xuất khẩu của Việt Nam khá rộng nên luận văn chỉ nghiên cứu hình thức xuất khẩu lao động trực tiếp. Từ đó, luận văn tập trung nghiên cứu những chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của quản lý Nhà nước trong việc định hướng, điều tiết và tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu lao động mà cụ thể là những tác động của Nhà nước đối với các quá trình : chuẩn bị các điều kiện để người lao động ra đi, người lao động làm việc ở nước ngoài và người lao động sau khi về nước. Thời gian khảo sát, nghiên cứu và đánh giá quản lý của Nhà nước được giới hạn trong vòng 10 năm (từ 2000 đến nay), đối tượng khảo sát chủ yếu là các tổ chức, doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động; thị trường được phân tích trong luận văn tập trung vào các nước trong khu vực Châu Á. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biến chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời kết hợp với một số phương pháp khác như thống kê, phân tích, so sánh và tổng hợp. Ngoài ra luận văn có kế thừa một số kết quả của các công trình nghiên cứu trước đây để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra. 10 6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách kinh tế - xã hội, nhất là những người trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, các nhà nghiên cứu và các độc giả quan tâm. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết: Chƣơng 1: Lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động. Chƣơng 2: Quản lý Nhà nước hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam: thực trạng và một số vấn đề đặt ra. Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam giai đoạn 2010 - 2015. 11 Chƣơng 1 LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG 1.1. Xuất khẩu lao động: bản chất, đặc điểm và các hình thức 1.1.1. Bản chất, đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động 1.1.1.1. Bản chất của hoạt động xuất khẩu lao động Cách đây hàng thế kỷ, hiện tượng cư dân của nước này sang nước khác vì lý do kinh tế, chủ yếu là để kiếm công ăn việc làm, đã xuất hiện. Đến cuối thế kỷ XIX, các mỏ khoáng sản ở Nam Phi đã thu hút nhiều luồng di dân có tổ chức ở một số nước lân cận và cả từ Mỹ La tinh xa xôi. Dần dần, nhận thấy đây là một ngành kinh doanh rất béo bở, nhiều công ty quốc gia hoặc đa quốc gia đã hình thành để mua, bán sức lao động. Là một lĩnh vực nhạy cảm, nhằm hạn chế những hành vi tiêu cực, các quốc gia liên quan đã tiến hành những cuộc đàm phán song phương, đa phương, đi tới các hiệp định, chứng thư bảo vệ người cư trú, hoặc thiết lập các cơ quan kiểm soát nghiêm ngặt. Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) ngay từ năm 1919 đã sớm nhận thức độ nhạy cảm của vấn đề xuất, nhập khẩu lao động và nguy cơ bị tổn thương của lao động di trú nên đã ban hành khuyến nghị số 86, trong đó ghi rõ: “Nếu người cư trú không có nghề mà nước nhập cư đòi hỏi, thì phải đào tạo nghề cho họ trước khi đi hoặc sau khi đến”. Trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, XKLĐ về cơ bản là đưa lao động phổ thông từ nước kinh tế chậm phát triển sang các nước có nền kinh tế phát triển. Sau chiến tranh, cùng với sự gia tăng nhanh chóng của đầu tư quốc tế, trong đó có hình thức nhận thầu công trình quốc tế, nội dung XKLĐ có sự thay đổi lớn. XKLĐ là một lĩnh vực rất rộng, có tính chất phức tạp và nhạy cảm do liên quan trực tiếp đến con người, đến các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và quan hệ đối ngoại. Mặt khác, đây lại là lĩnh vực còn tồn tại nhiều quan điểm 12 và nhận thức khác nhau cả trong nhận thức lẫn trong thực tiễn. Do đó, việc làm rõ bản chất, đặc điểm và các hình thức XKLĐ để từ đó thống nhất trong lý luận cũng như trong việc hoạch định chính sách là rất cần thiết. * Một số khái niệm liên quan đến thuật ngữ XKLĐ: Theo cách hiểu rộng nhất, XKLĐ gồm XKLĐ tại chỗ (các doanh nghiệp trong nước nhận nguyên liệu, công nghệ thiết bị nước ngoài và sản xuất sản phẩm theo đơn hàng của bạn; các liên doanh, các công ty, tổ chức nước ngoài đóng trên lãnh thổ sử dụng lao động nước sở tại) và XKLĐ ra nước ngoài. Liên quan đến sự di chuyển lao động trong quan hệ kinh tế quốc tế đã có một số quan niệm, thuật ngữ được sử dụng như: hợp tác quốc tế về lao động, đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài và xuất khẩu lao động. Hợp tác quốc tế về lao động là thuật ngữ được sử dụng vào những năm 1980 ở một số nước XHCN thuộc phạm vi khối SEV, trong đó có Việt Nam. Thuật ngữ này phản ánh hoạt động cung ứng và tiếp nhận người lao động giữa Việt Nam với một số nước XHCN, Châu Phi và Trung Đông theo các hiệp định của Chính phủ. Theo thỏa thuận của các hiệp định đã được ký kết, người lao động được đưa sang nước khác làm việc và được vào làm việc trong các cơ sở của người nước ngoài; đồng thời, người lao động nước ngoài được tiếp nhận vào Việt Nam làm việc. Tuy nhiên, trong thực tế, hợp tác quốc tế về sử dụng lao động chủ yếu là Việt Nam cung cấp lao động đáp ứng nhu cầu lao động thiếu hụt ở các nước trong khối thông qua một “kênh” duy nhất là nhà nước tuyển chọn và trực tiếp đưa lao động ra nước ngoài nhằm mục đích nâng cao trình độ tay nghề và hợp tác hữu nghị, chưa chú trọng đến mục đích kinh tế. Hợp tác quốc tế về lao động ở thời kỳ này là sản phẩm của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, phù hợp với điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, không phản ánh quan hệ trao đổi, mua bán hàng hóa sức lao động nhằm thực hiện lợi ích kinh tế giữa các chủ thể. 13 Đưa người lao động và chuyên gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là thuật ngữ được sử dụng chính thức và phổ biến trong các văn bản pháp luật của Nhà nước Việt Nam từ đầu những năm 1990 đến nay. Theo Nghị định số 370/HĐBT ngày 07/11/1991 thì “đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài” là một hướng giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động và tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước; góp phần tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam với những nước sử dụng lao động theo nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi, tôn trọng pháp luật và truyền thống dân tộc của nhau (Điều 1). Như vậy, việc dùng cụm từ “đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài” thay cho “hợp tác quốc tế về lao động” thể hiện một quan niệm mới về sức lao động và việc đưa lao động ra nước ngoài làm việc. Đến thời điểm này, sức lao động đã được thừa nhận là hàng hóa và do đó, nó có thể trao đổi, mua bán ở cả trong nước và ngoài nước. Mục đích của việc đưa người lao động ra nước ngoài làm việc được xác định rõ: về kinh tế, là thu nhập cho người lao động và thu ngoại tệ về cho đất nước; về xã hội, là giải quyết việc làm; về quan hệ quốc tế là sự mở rộng hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật. “Đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài” được thực hiện theo các hình thức: hiệp định giữa hai chính phủ; các hợp đồng cung ứng lao động giữa các tổ chức kinh tế trong nước và nước ngoài. Nhà nước không trực tiếp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài mà chủ yếu do các tổ chức kinh tế được cấp phép đảm nhiệm. Hoạt động này đã phản ánh được bản chất của việc cung ứng và tiếp nhận lao động giữa các quốc gia. Đó là sự trao đổi, mua bán hàng hóa sức lao động nhằm mục đích kinh tế - xã hội. Hoạt động này nằm trong quỹ đạo của nền kinh tế thị trường và chịu sự quản lý của nhà nước. Để phát triển, quản lý chặt chẽ hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và tạo cơ sở pháp lý cho việc sử lý các vi phạm cần thiết 14 phải ban hành Luật đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tại kỳ họp thứ 9, ngày 05 tháng 6 năm 2006, Quốc hội Khóa XI đã cho ý kiến vào dự án Luật “Đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài”. Theo Luật này, “người lao động đi làm việc ở nước ngoài” gồm: - Người lao động có nghề, lao động phổ thông đi làm việc ở nước ngoài. - Chuyên gia, người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật đi làm việc ở nước ngoài theo các Hiệp định, thỏa thuận giữa nước ta với nước ngoài; - Người đi làm việc ở nước ngoài với danh nghĩa “tu nghiệp sinh” hoặc thực tập nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn. Xuất khẩu lao động là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến, có tính chất thông dụng để chỉ hoạt động chuyển dịch lao động từ quốc gia này sang quốc gia khác, kể cả XKLĐ tại chỗ. Tham gia vào quá trình này gồm hai bên: bên nhập khẩu lao động và bên xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động còn gọi là xuất khẩu vô hình, là một hình thức cung cấp cho nước ngoài một số lượng lao động phục vụ nhất định để đạt được thu nhập ngoại tệ, kỹ thuật, kinh tế bao gồm nhiều hình thức: công trình giao thông, xây lắp kiến trúc, sự nghiệp công cộng, thương nghiệp, y học,... Là một loại xuất khẩu phi hàng hóa (so sánh với xuất khẩu hàng hóa), nếu xét ở góc độ kinh tế, XKLĐ có những đặc điểm: đầu tư ít, hiệu quả nhanh, giá thành thấp và lợi nhuận cao. Ngoài ra, do tính mềm dẻo cao, lĩnh vực phát triển rộng và năng lực thích nghi nhanh, XKLĐ được xem là một trong những lĩnh vực kinh tế - xã hội quan trọng góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa các nước, XKLĐ ngày nay được các nước xếp vào nhóm ngành dịch vụ thu ngoại tệ cùng với các ngành như du lịch, xây dựng, y tế, giao dục, bảo hiểm, vận tải, bưu chính viễn thông, dịch vụ ngân hàng,... 15 * Bản chất của hoạt động XKLĐ: Từ hiện tượng di chuyển lao động tự do đến XKLĐ là một quá trình gắn liền với sự phát triển kinh tế của mỗi nước. Nếu việc di chuyển người lao động ban đầu còn mang tính tự phát thì hoạt động XKLĐ đã mang tính tự giác, nghĩa là có tổ chức đưa người lao động đi và về, có sự hạch toán kinh tế, nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, vừa chịu sự quản lý, điều tiết của nhà nước vừa vận động tuân theo những nguyên tắc và quy luật của thị trường. Bởi, trong nền kinh tế thị trường, sức lao động được coi là hàng hóa, được đem ra trao đổi, mua bán trên thị trường. Nhưng người lao động là chủ sở hữu sức lao động, chỉ bán giá trị sử dụng của sức lao động và bán trong một khoảng thời gian nhất định cho người sử dụng sức lao động theo những điều kiện đã được thỏa thuận giữa hai bên. Người mua chỉ được sử dụng sức lao động trong thời gian đã được thỏa thuận để thu giá trị thặng dư do người lao động tạo ra, hết thời hạn này, sự ràng buộc giữa hai bên chấm dứt. Hoạt động này diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể người lao động trực tiếp tìm đến người sử dụng lao động hoặc thông qua các môi giới trung gian theo các hợp đồng cung ứng sức lao động. Việc người lao động bán sức lao động, đi làm thuê cho người sử dụng sức lao động ở nước ngoài thì việc mua bán này diễn ra trên thị trường lao động quốc tế, khi đó hoạt động này vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia và do đó, liên quan tới các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội,... giữa quốc gia mà người lao động đi và quốc gia mà người lao động đến để làm việc. Để đảm bảo quyền lợi cho người lao động cũng như các lợi ích khác của quốc gia, Nhà nước không thể đứng ngoài mà phải chủ động tham gia vào hoạt động này. Cho đến nay, hoạt động xuất - nhập khẩu lao động của tất cả các quốc gia đều có sự can thiệp của nhà nước, tuy mức độ can thiệp có khác nhau và do đó, vai trò của nhà nước đối với hoạt động XKLĐ cũng khác nhau. 16 Như vậy, có thể khẳng định rằng , thực chất của XKLĐ là hoạt động xuất khẩu hàng hóa sức lao động - một loại hàng hóa đặc biệt - bản chất của hoạt động này là việc bán hàng hóa sức lao động trong nước cho nước ngoài sử dụng. Theo đó, người lao động thông qua các tổ chức môi giới, hay các tổ chức, doanh nghiệp XKLĐ của nhà nước hoặc tư nhân mà bán sức lao động của bản thân, đi làm thuê cho chủ sử dụng lao động ở nước ngoài. Từ những phân tích trên, chúng ta có thể đi tới một quan niệm tương đối toàn diện về XKLĐ như sau: Xuất khẩu lao động là một hình thức của phân công lao động quốc tế thuộc lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế; là một loại xuất khẩu dịch vụ phi vật thể - hàng hóa sức lao động trên thị trường lao động quốc tế, ở đó người bán sức lao động và người sử dụng sức lao động ở nước ngoài phải thông qua sự môi giới của các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động dịch vụ XKLĐ. 1.1.1.2. Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động Do sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt nên hoạt động XKLĐ có những đặc điểm riêng biệt, khác với hoạt động xuất khẩu hàng hóa thông thường. Có thể khái quát một số đặc điểm của hoạt động XKLĐ như sau: - Xuất khẩu lao động là một hoạt động đặc thù của kinh tế đối ngoại. Trong quan niệm hiện nay, kinh tế đối ngoại gồm nhiều hình thức như: ngoại thương; đầu tư quốc tế; hợp tác sản xuất (nhận gia công, xây dựng xí nghiệp chung, khu chế xuất, khu công nghệ và kỹ thuật cao); hợp tác khoa học - công nghệ; hợp tác tín dụng quốc tế và các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ (du lịch, XKLĐ, xây dựng, y tế, bảo hiểm, giao dục, cung ứng dịch vụ vận tải, ngân hàng, bưu chính viễn thông,...). Trong các hình thức kinh tế đối ngoại, ngoại thương, đầu tư quốc tế và dịch vụ thu ngoại tệ là những hình thức chủ yếu và có hiệu quả nhất. Tính chất đặc thù của hoạt động XKLĐ trước hết được thể hiện ở chỗ là hoạt động kinh tế nhưng mang tính chất xã hội sâu sắc. 17 Vì mục đích kinh tế, nhiều nước coi XKLĐ là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn góp phần giải quyết việc làm, phát triển nguồn nhân lực và tăng tích lũy vốn từ nguồn tiền chuyển về nước của người lao động đi XKLĐ và các khoản thu khác từ dịch vụ này. Để thu được những lợi ích kinh tế, các nước xuất khẩu lao động một mặt phải không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động thông qua việc mở rộng thị trường, quan tâm đến chất lượng và số lượng nguồn lao động xuất khẩu. Mặt khác, phải xử lý hài hòa các mối quan hệ: tiền công cho người lao động, lợi nhuận cho doanh nghiệp và lợi ích của nhà nước. Do đó, mọi chủ trương, chính sách, các biện pháp quản lý và tác động của nhà nước phải xuất phát từ mục tiêu kinh tế mới có thể định hướng và đảm bảo cho hoạt động ngày càng hiệu quả. Tính xã hội của hoạt động XKLĐ bắt nguồn từ tính chất đặc biệt của hàng hóa sức lao động. Sức lao động là toàn bộ thể lực, trí lực và kỹ năng tồn tại trong cơ thể người lao động và được người đó đem ra sử dụng để sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó. Khác với hàng hóa thông thường, sức lao động còn bao hàm các yếu tố tinh thần và lịch sử nên nó mang tính chất xã hội sâu sắc. Đó là khả năng tư duy, năng lực sở hữu, đạo đức, truyền thống văn hóa, phong tục tập quán,... của một quốc gia, dân tộc hiện hữu trong bản thân người lao động và được di chuyển ra nước ngoài cùng với người lao động. Vì thế, các chính sách liên quan đến hoạt động XKLĐ phải có sự kết hợp với các chính sách xã hội khác, nhất là phải đảm bảo được quyền lợi liên quan đến đời sống chính trị, tinh thần, văn hóa, tín ngưỡng,... của người lao động. - Xuất khẩu lao động là một hoạt động xuất khẩu dịch vụ đặc thù. Theo quan niệm mới, các ngành xuất khẩu dịch vụ thu ngoại tệ bao gồm nhiều lĩnh vực, từ du lịch, XKLĐ đến xây dựng, y tế, giáo dục, bảo hiểm, các cung ứng dịch vụ vận tải, ngân hàng, bưu chính viễn thông,... trong đó XKLĐ được xem là hoạt động có tính chất đặc thù. Đặc điểm này do tính chất không thể chia tách và tính không xác định trong hoạt động XKLĐ quy định. 18 Tính không thể chia tách của hoạt động XKLĐ thể hiện ở chỗ: cũng như các hoạt động dịch vụ khác, XKLĐ có đặc điểm là quá trình tạo giá trị và giá trị sử dụng thống nhất với quá trình tiêu dùng, thụ hưởng giá trị và giá trị sử dụng của sức lao động. Ngoài ra, hoạt động XKLĐ còn có sự khác biệt với các hoạt động dịch vụ khác ở chỗ, hoạt động XKLĐ không chấm dứt khi đã hoàn thành thủ tục đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài mà nó là một quá trình gồm nhiều khâu, nhiều công đoạn liên hoàn, gắn kết chặt chẽ với nhau. Nó bắt đầu từ khâu chuẩn bị các điều kiện cho người lao động, đưa người lao động đi XKLĐ, giúp người lao động thích nghi với công việc ở nước ngoài cho đến khi người lao động về nước tái hòa nhập cộng đồng. Quá trình này đòi hỏi các bên liên quan đến hoạt động XKLĐ, phải thường xuyên quan tâm thực hiện những quy định trong hợp đồng, đôi khi cả những tình huống phát sinh không có trong hợp đồng, nhưng có liên quan đến quyền lợi của các bên. Tính không xác định của hoạt động XKLĐ được thể hiện ở chỗ: cũng như mọi hoạt động dịch vụ khác, hoạt động XKLĐ có đặc điểm là không hiện hữu dưới dạng vật thể, khó lượng hóa khi quyết định trao đổi, mua bán, sử dụng. Tính không xác định trong hoạt động XKLĐ được quy định bởi chất lượng hàng hóa sức lao động. Chất lượng của hàng hóa sức lao động được phản ánh và phụ thuộc vào thể chất và tinh thần hay sự dẻo dai, bền bỉ, độ thành thạo và năng lực sáng tạo trong lao động của người lao động; vào điều kiện làm việc, nghỉ ngơi và các điều kiện khác cho người lao động. Các yếu tố tinh thần và lịch sử này ở mỗi người, mỗi địa phương, khu vực luôn có sự khác nhau và luôn thay đổi đã tạo ra tính không xác định trong hoạt động XKLĐ. - Hoạt động XKLĐ xuất phát từ mục đích của các chủ thể tham gia: tiền công của người lao động, lợi nhuận của doanh nghiệp và lợi ích của nhà nước. Người lao động tham gia vào hoạt động XKLĐ với tư các vừa là người 19 tạo ra hàng hóa xuất khẩu, vừa là người trực tiếp mang hàng hóa đi bán, mục đích của họ là các khoản thu nhập hay tiền công lao động ở nước ngoài. Lợi nhuận của các doanh nghiệp XKLĐ thu được chủ yếu từ việc thu các loại phí dịch vụ mà người lao động trả về việc giúp cho người lao động được đi làm việc ở nước ngoài. Lợi ích của Nhà nước là các khoản ngoại tệ ròng nhận được thông qua các khoản tiền của người lao động gửi về nước, các khoản thuế và phí thu được từ các hoạt động XKLĐ của các doanh nghiệp. Vì lợi ích kinh tế, cả người lao động và doanh nghiệp XKLĐ rất dễ vi phạm các quy định của pháp luật, do đó, với tư cách là một chủ thể tham gia vào quá trình này, nhà nước phải xây dựng các khuôn khổ pháp lý cho hoạt động XKLĐ để đảm bảo các lợi ích các quốc gia, quyền lợi của các tổ chức, doanh nghiệp, người lao động và duy trì, phát triển quan hệ hợp tác với các nước nhập khẩu lao động. Trong những trường hợp cần thiết, nhà nước phải trực tiếp giải quyết các vấn đề mà bản thân các tổ chức, doanh nghiệp không thể đảm đương được như bảo vệ người lao động ở nước ngoài, ký kết các điều ước quốc tế liên quan đến người lao động và giải quyết các vấn đề tiêu cực trong hoạt động XKLĐ. - Trong hoạt động XKLĐ, quyền sở hữu không tách rời quyền sử dụng sức lao động. Trong hoạt động XKLĐ, người lao động không mất quyền sở hữu sức lao động, chủ sử dụng sức lao động có thời hạn. Sở dĩ có đặc điểm này là do sức lao động luôn tồn tại trong cơ thể người lao động, luôn thuộc quyền sở hữu của người lao động. Họ chỉ bán sức lao động của mình và bao giờ cũng chỉ bán, tức là để cho người sử dụng sức lao động của mình trong một thời hạn nhất định, chứ không từ bỏ quyền sở hữu về sức lao động đó. Do đó, khác với việc xuất khẩu các loại hàng hóa thông thường, XKLĐ không có sự chuyển quyền sở hữu hàng hóa sức lao động khi hợp đồng mua bán sức lao động được thực hiện. Trong thời hạn thực hiện hợp đồng, căn cứ vào thỏa thuận đã ký kết, chủ sử dụng có quyền khai thác, sử dụng sức lao động mua 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan