VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN DOÃN NGÂN
QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU
THIẾT BỊ TOÀN BỘ VÀ KỸ THUẬT (TECHNOIMPORT)
Ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 60 34 01 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS LÊ HỮU ẢNH
HÀ NỘI – 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học độc
lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn
gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Doãn Ngân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP VÀ HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH DOANH
NGHIỆP ............................................................................................................. 5
1.1. Cở sở lý luận chung về quản trị tài chính................................................... 5
1.2. Nội dung quản trị tài chính trong doanh nghiệp............. ……………..
13
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY
XUẤT NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ VÀ KỸ THUẬT ................... 22
2.1. Giới thiệu tổng quan về Công ty Xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ
thuật (TECHNOIMPORT) .................................................................................. 22
2.2 Thực trạng quản trị tài chính tại công ty Xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ
và kỹ thuật (TECHNOIMPORT)........................................................................ 30
2.3 Đánh giá thực trạng tổ chức quản trị tài chính tại công ty Technoimport 51
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH TẠI
CÔNG TY TECHNOIMPORT...................................................................... 54
3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện tổ chức quản trị tài chính tại công ty
Technoimport ........................................................................................................ 54
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hoàn thiện tổ chức quản trị tài chính tại
công ty Technoimport .......................................................................................... 56
3.3 Điều kiện thực hiện các giải pháp hoàn thiện công tác quản trị tài chính
tại công ty Technoimport ..................................................................................... 60
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 70
DANH MỤC VIẾT TẮT
DNNN
: Doanh nghiệp nhà nước
EPS
: Tối đa hóa lợi nhuận trên một cổ phần
MTV
: Một thành viên
TECHNOIMPORT : Công ty Xuất Nhập Khẩu Thiết bị toàn bộ và Kỹ thuật
TNDN
: Tài chính doanh nghiệp
TNHH
: Trách nhiệm hữu hạn
TSCĐ
: Tài sản cố định
VCĐ
: Vốn cố định
VLĐ
: Vốn lưu động
WTO
: Tổ chức Thương mại Thế giới
XDCB
: Xây dựng cơ bản
XNK
: Xuất nhập khẩu
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 : Bảng thống kê vốn qua các năm tại công ty Technoimport
Bảng 2.2 : Các chỉ tiêu tài chính dự kiến năm 2016
Bảng 2.3 : Sức sinh lời của TSCĐ
Bảng 2.4 : Sức sản xuất của TSCĐ
Bảng 2.5 : Hiệu quả sử dụng vốn cố định theo doanh thu
Bảng 2.6 : Hiệu quả sử dụng vốn cố định theo lợi nhuận
Bảng 2.7 : Hiệu quả sử dụng vốn cố định tại công ty Technoimport
Bảng 2.8 : Hiện trạng TSCĐ tại công ty Technoimport
Bảng 2.9 : Cơ cấu vốn lưu động của công ty Technoimport
Bảng 2.10 : Tốc độ luận chuyển vốn lưu động của công ty Technoimport
Bảng 2.11:
Sức sinh lời của vốn lưu động
Bảng 2.12 : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Bảng 2.13 : Tình hình chi phí kinh doanh của công ty qua các năm
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới kinh tế những năm gần đây, Đảng và Nhà nước
ta đã và đang nỗ lực tìm kiếm các biện pháp đưa nền kinh tế phát triển về mọi
mặt, từng bước hội nhập vào nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Đặc
biệt sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã mở ra nhiều cơ
hội đan xen những thách thức cho các Doanh nghiệp Việt Nam. Các Doanh
nghiệp Việt Nam cần nâng cao hiệu quả công tác quản trị doanh nghiệp nói
chung và Quản trị tài chính nói riêng thì mới có thể tồn tại và phát triển trong
thời kỳ hội nhập kinh tế hiện nay.
Quản trị tài chính có vai trò quan trọng trong việc định hướng, cung cấp
thông tin phục vụ cho việc quản lý sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp.
Công ty Xuất Nhập Khẩu Thiết bị toàn bộ và Kỹ thuật (TECHNOIMPORT)
có vai trò quan trọng trong việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho TP. Hà Nội
và cho cả nến kinh tế, nhu cầu về quản trị tài chính là thực sự cần thiết để
nâng cao hiệu quả quản lý và khả năng cạnh tranh của TECHNOIMPORT
trong tiến trình toàn cầu hóa. Tuy nhiên hiện nay công tác quản trị tài chính
chưa được thực hiện đúng mức, vì vậy việc xây dựng, tổ chức công tác quản
trị Công ty Xuất Nhập Khẩu Thiết bị toàn bộ và Kỹ thuật
(TECHNOIMPORT) là vấn đề hết sức cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động và đổi mới công tác quản trị tại doanh nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua quá trình kháo sát ở doanh nghiệp, tôi nhận thấy công tác quản trị
doanh nghiệp nói chung và quản trị tài chính ở Công ty Xuất Nhập Khẩu Thiết
bị toàn bộ và Kỹ thuật (TECHNOIMPORT) vẫn còn nhiều điểm thiếu sót gây
nên tình trạng thất thoát tài chính, công tác quản trị vốn vẫn còn nhiều trục trặc.
Chính vì vậy, đề tài muốn tìm hiểu về thực trạng quản trị tài chính tại công ty và
1
tìm ra những giải pháp để công tác quản trị tài chính của đơn vị nâng cao hiệu
quả, qua đó giúp Công ty phát triển bền vững, đạt hiệu quả trong sản xuất kinh
doanh và nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường trong quá trình hội nhập
WTO. Chính vì vậy, đề tài “Quản trị tài chính tại công ty Xuất Nhập Khẩu
Thiết bị toàn bộ và Kỹ thuật (TECHNOIMPORT)” đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn trên và được chọn làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn Cao học này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
*Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về Quản trị tài chính
trong doanh nghiệp, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về Quản trị
Tài chính theo các qui định, văn bản pháp luật kinh tế, tài chính hiện hành từ
đó đưa ra các giải pháp giúp TECHNOIMPORT quản trị tài chính ngày càng
hiệu quả hơn.
*Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích cơ sở lý luận chung, thực trạng quản trị tài chính tại Công
ty Xuất Nhập Khẩu Thiết bị toàn bộ và Kỹ thuật (TECHNOIMPORT) nhằm
rút ra những thành công và hạn chế trong công tác quản trị tài chính của
Công ty. Đề xuất các giải pháp tài chính nằm nâng cao hiệu quả quản trị tài
chính tại đơn vị.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về quản trị tài chính trong doanh
nghiệp và nghiên cứu thực trạng về quản trị tài chính tại công ty
Technoimport.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những nội dung quản trị tài chính áp
dụng cụ thể tại Công ty Xuất Nhập Khẩu Thiết bị toàn bộ và Kỹ thuật
(TECHNOIMPORT) như lập kế hoạch và dự toán, tổ chức hệ thống báo cáo
quản trị tài chính và phân tích thông tin quản trị tại công ty Technoimport.
2
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để đảm bảo tính khoa học và thực tiễn trong từng phần của nội dung
nghiên cứu, luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khác nhau
và trong từng giai đoạn nghiên cứu sẽ vận dụng phương pháp thích hợp nhất,
có kế thừa các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước làm cơ sở cho việc
lý luận. Các phương pháp cụ thể:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp. Trong phân tích tác giả sử dụng
các bảng biểu để so sánh, minh họa, rút ra những kết luận cần thiết.
- Phương pháp thống kê, khảo sát, phân tích, so sánh, diễn dải, quy nạp.
- Số liệu sử dụng trong luận văn chủ yếu là các số liệu thứ cấp trích dẫn từ các
nguồn tài liệu công bố chính thức như số liệu thống kê, báo cáo, các tài liệu
và ấn phẩm.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về mặt lý luận: Luận văn đã hệ thống hoá những vấn đề lý luận về tổ
chức quản trị tài chính, nêu rõ bản chất, phương pháp quản trị tài chính cũng
như nội dung tổ chức quản trị tài chính tại doanh nghiệp nói chung và trong
Công ty Xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật (Technoimport) nói riêng.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn đã nghiên cứu, phân tích thực trạng về tổ
chức quản trị tài chính của Công ty Xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật
(Technoimport) để từ đó vận dụng đưa ra được ra nhận xét, đánh giá được
những ưu, nhược điểm, hạn chế và những nguyên nhân của thực trạng đó .
Từ việc phân tích thực trạng tình hình quản trị tài chính tại Công ty
Technoimport, luận văn đã đề xuất các giải pháp và phương hướng hoàn thiện
tổ chức quản trị tài chính tại công ty.
3
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quản trị tài chính doanh nghệp
và hiệu quả quản trị tài chính doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng công tác quản trị tài chính tại
TECHNOIMPORT
Chương 3: Các giải pháp tài chính nhằm nâng cao hiệu quả quản trị
tài chính tại Công ty Xuất Nhập Khẩu Thiết bị toàn bộ và Kỹ thuật
(TECHNOIMPORT)
4
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH DOANH
NGHIỆP VÀ HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1. Cở sở lý luận chung về quản trị tài chính
1.1.1 Khái niệm về quản trị tài chính doanh nghiệp
Quản trị tài chính doanh nghiệp là các hoạt động nhằm bố trí và phân
phối các dòng tiền tệ trong doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu của doanh
nghiệp. Quản trị tài chính bao gồm các hoạt động làm cho luồng tiền tệ của
công ty phù hợp trực tiếp với các kế hoạch. Nói một cách khác, quản trị tài
chính là quản trị nguồn vốn (bao gồm vốn tiền mặt, vốn, tài sản và các quan
hệ tài chính phát sinh như: khoản phải thu - khoản phải trả), nhằm tối đa hóa
lợi nhuận của doanh nghiệp.
Trong đó:
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị phán
ánh sự vận động và chuyển hóa các nguồn tài chính trong quá trình phân phối
để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đạt tới các mục tiêu kinh doanh
của doanh nghiệp [7]
1.1.2 Mục tiêu của quản trị tài chính
Mỗi công ty có rất nhiều mục tiêu được đề ra nhưng dưới giác độ quản
trị tài chính mục tiêu của công ty là nhằm tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở
hữu. Muốn tăng giá trị tài sản của cổ đông thì mọi quyết định tài chính cần
chú ý đến khả năng tạo ra giá trị trong dài hạn. Một quyết định nếu không tạo
ra được giá trị sẽ không làm tăng mà làm giảm giá trị tài sản của chủ sở hữu.
mục tiêu của công ty trên quan điểm tài chính là làm tăng giá trị doanh
nghiệp. Mục tiêu này được thể hiện bằng cách làm tăng giá trị thị trường các
cổ phiếu của công ty trên thị trường [9].
Mục tiêu tạo ra lợi nhuận
5
Đứng trên giác độ tạo ra giá trị có nghĩa trong các quyết định cần phải
hướng đến việc gia tăng khả năng tạo ra lợi nhuận. Điều này đồng nghĩa với
việc tối đa hóa lợi nhuận. Tối đa hoá lợi nhuận là mục tiêu chính của công ty.
Thực hiên mục tiêu này nhằm không ngừng gia tăng giá trị tài sản cho chủ sở
hữu doanh nghiệp. Mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận được cụ thể và lượng hoá
bằng các chỉ tiêu sau: Tối đa hoá chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế (Earning after tax
– EAT). Tuy nhiên, nếu chỉ có mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận sau thuế chưa
hẳn đã gia tăng được giá trị cho cổ đông. Chẳng hạn, giám đốc tài chính có
thể gia tăng lợi nhuận bằng cách phát hành cổ phiếu kêu gọi vốn rồi dùng số
tiền huy động được để đầu tư vào trái phiếu kho bạc thu lợi nhuận. Trong
trường hợp này, lợi nhuận vẫn gia tăng nhưng lợi nhuận trên vốn cổ phần
giảm vì số lượng cổ phần phát hành tăng. Do đó chỉ tiêu tối đa hoá lợi nhuận
cần được bổ sung bằng chỉ tiêu tối đa hoá lợi nhuận trên vốn cố phần.[9]
Tối đa hoá lợi nhuận trên một cổ phần (Earning per share – EPS).
Chỉ tiêu này có thể bổ sung cho những hạn chế của chỉ tiêu tối đa hoá
lợi nhuận sau thuế. Tuy nhiên, chỉ tiêu này chỉ được tính lợi nhuận trong
khoảng thời gian thường là một năm nó chưa tính hết thu nhập bao gồm thu
nhập trong hoạt động kinh doanh của công ty và thu nhập do thay đổi giá cổ
phiếu của hãng. Ví dụ hãng có lợi nhuận thu được trên một cổ phiếu là 10$ và
sự tăng giá cổ phiếu trong kỳ là 6 $, thì thu nhập một cổ phiếu phải là 16$.
Cách tính này vẫn còn có một vài hạn chế sau: (1) Tối đa hoá EPS
không xét đến yếu tố thời giá tiền tệ và độ dài của lợi nhuận kỳ vọng (nếu một
khoản tiền nào đó nhận được cuối năm sẽ khác với cùng lượng tiền đó nhưng
chúng ta thu được ở đầu năm. (2) Tối đa hoá EPS cũng chưa xem xét đến yếu
tố rủi ro nhiều khoản đầu tư mang lại lợi nhuận hiện tại cao, nhưng nó hàm
chứa các rủi ro rất cao và có thể đe dọa đến sự tồn tại của doanh nghiệp, và
cuối cùng tối đa hoá EPS không thấy được ảnh hưởng của chính sách cổ tức
để tác động đến giá trị cổ phiếu trên thị trường, một số công ty có thể không
6
chi trả cổ tức cho các cổ đông và giữ lại toàn bộ lợi nhuận tạo ra để dùng vào
mục đích tái đầu tư và điều này làm cho giá cổ phiếu tăng lên một cách giả
tạo do công ty không phát hành thêm cổ phiếu mới. Bởi vậy, nếu chỉ vì mục
tiêu tối đa hoá EPS có lẽ công ty sẽ không bao giờ trả cổ tức [7].
Vì những lý lẽ như đã phân tích trên đây, tối đa hoá thị giá cổ phiếu
(market price per share) được xem như là mục tiêu thích hợp nhất của công ty
vì nó chú ý kết hợp nhiều yếu tố như độ dài thời gian, rủi ro, chính sách cổ
tức và những yếu tố khác có ảnh hưởng đến giá cổ phiếu. Giám đốc là người
điều hành công ty cần biết rõ mục tiêu của chủ sở hữu (cổ đông) là gia tăng
giá trị tài sản của người chủ công ty. Và giá trị tài sản của công ty được thể
hiện thông qua giá cổ phiếu công ty trên thị trường. Nếu giá cổ phiếu trên thị
trường sụt giảm, điều này cũng tương đương với việc cổ đông bị mất đi một
số tiền, khi giá cổ phiếu giảm xuống, các cổ đông không hài lòng với những
điều hành hoạt động của công ty, có thể họ sẽ bán bớt cổ phiếu hoặc rút vốn
đầu tư khỏi doanh nghiệp để đầu tư vào nơi khác có mức sinh lời cao hơn,
duy trì vốn đầu tư của họ. Điều này đòi hỏi nhà quản trị tài chính phải tập
trung vào việc tạo ra giá trị cho cổ đông nhằm làm cho cổ đông hài lòng vì
thấy mục tiêu của họ được thực hiện. [10]
Trách nhiệm đối với xã hội
Tối đa hoá giá trị tài sản cho cổ đông không có nghĩa là việc ban điều
hành công ty không quan tâm đến các khía cạnh về trách nhiệm đối với xã hội
chẳng hạn như bảo vệ người tiêu dùng, trả lương công bằng cho nhân viên,
chú ý đến bảo đảm an toàn lao động, đào tạo và nâng cao trình độ của người
lao động … và đặc biệt là ý thức bảo vệ môi trường. Chính trách nhiệm xã hội
đòi hỏi ban quản lý không chỉ có chú trọng đến lợi ích của cổ đông
(shareholders) mà còn chú trọng đến lợi ích của các giới hữu quan liên quan
khác (stakeholders) và nhiều công ty việc thực hiện nghĩa vụ xã hội là cách để
7
công ty tồn tại và khẳng định mình. Mối quan hệ giữa mục tiêu cực đại hoá
lợi nhuận và cực đại hoá giá trị tài sản của cổ đông [12].
Mục tiêu về trách nhiệm xã hội :
Bản thân việc cực đại hoá giá trị cho cổ đông không ngụ ý việc người quản
trị bỏ qua trách nhiệm xã hội. Các trách nhiệm xã hội cụ thể là:
Bảo vệ khách hàng
Trả lương hợp lý cho công nhân, chú ý các yếu tố phát triển con người
Các thủ tục thuê mướn rõ ràng và hợp lý
Bảo đảm các điều kiện làm việc
Ủng hộ giáo dục và đào tạo
Trách nhiệm với các hậu quả môi trường
Ngày nay mỗi công ty không thể tồn tại ngoài những nghĩa vụ đối với xã
hội. Giá trị của các cổ đông, sự tồn tại của công ty phụ thuộc vào rất nhiều
vào trách nhiệm xã hội mà nó thực thi.
Trách nhiệm xã hội đã đặt ra những yêu cầu nhất định đối với mỗi công ty.
Các hoạt động xã hội nếu xét trên quan điểm dài hạn là làm tăng danh tiếng
của doanh nghiệp trong cộng đồng xã hội và nhờ vậy mang lại lợi ích trong
tương lai cho các cổ đông.
Song, thực tế cũng không ít những hoạt động quá đề cao các nghĩa vụ
trách nhiệm xã hội có thể làm bất lợi cả về mặt lợi nhuận, lẫn giá trị của cổ
đông. Bởi vì, một mục tiêu mong muốn có tính xã hội đôi khi tạo ra khả năng
hạn chế để phân phối các nguồn lực vào các hoạt động kinh doanh và do vậy
nếu xét trên khía cạnh sinh lời lại kém hiệu quả, từ đó có ảnh hưởng đến giá
trị tài sản cổ đông. Trong khi nhu cầu còn chưa được đáp ứng, nguồn lực của
xã hội còn khan hiếm, thì việc phân bổ các nguồn lực cũng cần tập trung vào
các mục tiêu kinh doanh. Trách nhiệm xã hội có thể thực hiện thông qua Quốc
hội và những đại diện của Chính phủ có thể phán quyết giữa việc dành mục
8
tiêu xã hội và hy sinh hiệu quả kinh doanh trong phân chia nguồn lực để các
công ty có thể thực hiện mục tiêu của mình. Bằng các quyết định có tính xã
hội, công ty cam kết đạt mục tiêu cực đại giá trị doanh nghiệp và phân bổ
nguồn lực theo các yêu cầu có tính bắt buộc của Chính phủ. Dưới một hình
thức như vậy, công ty có thể được xem như là việc sản xuất hàng hoá vừa tư
nhân và vừa có tính xã hội [10].
Tóm lại, giá trị thị trường của cổ phiếu biểu hiện việc đánh giá tập trung
của tất cả những người tham gia thị trường về giá trị của mỗi công ty. Nó tính
đến thu nhập hiện tại và tương lai của cổ phần được xét trong các yếu tố như
thời hạn khoảng thời gian rủi ro của các thu nhập và các yếu tố khác có thể tác
động lên giá cả thị trường cổ phiếu. Giá trị thị trường cũng được sử dụng như
là một thước đo đánh giá khả năng, những tiến bộ của công ty, nó chứng tỏ
công việc của nhà quản trị tốt đến mức nào đó trong vai trò đại diện cho các
cổ đông. Nếu các cổ đông không hài lòng về công việc quản trị trong công ty
họ có thể bán cổ phiếu và đầu tư vào công ty khác. Hành động này, nếu được
tiến hành bởi nhiều cổ đông trong công ty sẽ làm cho giá trị cổ phiếu giảm
xuống tức khắc.
1.1.3 Vai trò của quản trị tài chính doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Quản trị tài chính là sự tác động của nhà quản trị đến các hoạt động tài
chính trong doanh nghiệp. Trong các quyết định của doanh nghiệp, vấn đề cần
được nhà quản trị tài chính quan tâm giải quyết không chỉ là lợi ích của cổ
đông và nhà quản lý mà còn cả lợi ích của nhân viên, khách hàng, nhà cung
cấp và Chính phủ. Đó là nhóm người có nhu cầu tiềm năng về các dòng tiền
của doanh nghiệp. Do vậy, nhà quản trị tài chính, mặc dù có trách nhiệm nặng
nề về hoạt động nội bộ của doanh nghiệp vẫn phải lưu ý đến sự nhìn nhận,
đánh giá của người ngoài doanh nghiệp như cổ đông, chủ nợ, khách hàng,
Nhà nước [11]…Quản trị tài chính là một hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ
9
với các hoạt động khác của doanh nghiệp. Quản trị tài chính tốt có thể khắc
phục những khiếm khuyết trong các lĩnh vực khác. Một quyết định tài chính
không được cân nhắc, hoạch định kĩ lưỡng có thể gây nên những tổn thất lớn
cho doanh nghiệp và cho nền kinh tế. Hơn nữa, do doanh nghiệp hoạt động
trong một môi trường nhất định nên các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả
sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Bởi vậy, quản trị tài chính doanh
nghiệp tốt có vai trò quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả quản lý tài
chính quốc gia. Quản trị tài chính luôn giữ một vai trò trọng yếu trong hoạt
động quản lý doanh nghiệp. Quản trị tài chính quyết định tính độc lập, sự
thành bại của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh [8]. Trong hoạt động
kinh doanh hiện nay, quản trị tài chính doanh nghiệp giữ những vai trò chủ
yếu sau:
- Huy động đảm bảo đầy đủ và kịp thời vốn cho hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp: hạn và dài hạn cho hoạt động kinh doanh thường xuyên
của doanh nghiệp cũng như cho đầu tư phát triển. Vai trò của tài chính doanh
nghiệp trước hết thể hiện ở chỗ xác định đúng đắn các nhu cầu về vốn cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong thời kỳ và tiếp đó phải lựa chọn
các phương pháp và hình thức thích hợp huy động nguồn vốn từ bên trong và
bên ngoài đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn cho hoạt động của doanh nghiệp.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đã nảy sinh nhiều hình thức
mới cho phép các doanh nghiệp huy động vốn từ bên ngoài. Do vậy, vai trò
của quản trị tài chính doanh nghiệp ngày càng quan trọng hơn trong việc chủ
động lựa chọn các hình thức và phương pháp huy động vốn đảm bảo cho
doanh nghiệp hoạt động nhịp nhàng và liên tục với chi phí huy động vốn ở
mức thấp.[13]
- Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả: Quản trị tài chính doanh
nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư
trên cơ sở phân tích khả năng sinh lời và mức độ rủi ro của dự án từ đó góp
10
phần chọn ra dự án đầu tư tối ưu. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức sử dụng vốn. Việc huy động kịp
thời các nguồn vốn có ý nghĩa rất quan trọng để doanh nghiệp có thể nắm bắt
được các cơ hội kinh doanh. Việc hình thành và sử dụng tốt các quỹ của
doanh nghiệp, cùng với việc sử dụng các hình thức thưởng, phạt vật chất hợp
lý sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy cán bộ công nhân viên gắn liền với doanh
nghiệp từ đó nâng cao năng suất lao động, góp phần cải tiến sản xuất kinh
doanh nâng cao hiệu quả sử dụng tiền vốn.
- Giám sát, kiểm tra chặt chẽ các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp: Thông qua các tình hình tài chính và việc thực hiện các chỉ tiêu
tài chính, các nhà quản lý doanh nghiệp có thể đánh giá khái quát và kiểm
soát được các mặt hoạt động của doanh nghiệp, phát hiện được kịp thời những
tồn tại vướng mắc trong kinh doanh, từ đó có thể đưa ra các quyết định điều
chỉnh các hoạt động phù hợp với diễn biến thực tế kinh doanh.
Chính vì vậy, có thể khẳng định rằng quản trị tài chính tốt sẽ chiếm vai
trò cực kỳ quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả quản trị tài chính của
doanh nghiệp và quốc gia [7].
1.1.4 Các nguyên tắc của quản trị tài chính doanh nghiệp
Hoạt động tài chính của doanh nghiệp dù nhỏ hay lớn nói chung là
giống nhau, nên nguyên tắc quản lý tài chính đều có thể áp dụng chung cho
các loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên giữa các doanh nghiệp khác nhau cũng
có sự khác biệt nhất định, nên khi áp dụng nguyên tắc quản lý tài chính phải
gắn với những điều kiện cụ thể:
Một là, tôn trọng pháp luật:
Đây là nguyên tắc bắt buộc với mọi loại hình doanh nghiệp. Mục tiêu
mà tất cả các doanh nghiệp theo đuổi là lợi nhuận tối đa, và để đạt được lợi
nhuận tối đa các doanh nghiệp có thể không từ bất kỳ một thủ đoạn nào, kể cả
việc đó gây hại cho quốc gia. Vì vậy, cần phải có sự can thiệp của nhà nước
11
để diều chỉnh nền kinh tế. Thông qua các công cụ quản lý vĩ mô như: luật
pháp, các chính sách tài chính, tiền tệ và giá cả..Từ đó, nhà nước tạo ra môi
trường kinh doanh để kích thích các doanh nghiệp mở rộng đầu tư. Hiểu luật
để làm đúng pháp luật đồng thời hiểu luật để doanh nghiệp có thể định hướng
kinh doanh và đầu tư vào những nơi được nhà nước khuyến khích như: giảm
thuế, tài trợ tín dụng [9].
Hai là, tôn trọng nguyên tắc hạch toán kinh doanh:
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào nguyên tắc hạch toán kinh doanh cũng
là nguyên tắc quan trọng nhất quyết định tới sự tồn tại của doanh nghiệp.
Để thực hiện được yêu cầu của nguyên tắc này thì việc tổ chức công tác
tài chính phải hướng vào một số các biện pháp như: chủ động tận dụng khai
thác các nguồn vốn, bảo toàn và phát huy hiệu quả của đồng vốn, đầu tư vốn
phải tuân theo những yêu cầu của thị trường…Tất cả các biện pháp này đều
nhằm một mục đích là kinh doanh phải có hiệu quả, đó cũng là mục tiêu bao
trùm và chi phối toàn bộ hoạt động tài chính của mọi doanh nghiệp trong nền
kinh tế [9].
Ba là, giữ chữ tín trong hoạt động tài chính:
Trong quá trình quản lý tài chính để giữ gìn chữ tín với các đối tác, bạn
hàng, nhà nước, nhà cung ứng, khách hàng… thì các doanh nghiệp cần tôn
trọng kỷ luật thanh toán các điều khoản, các cam kết… được quy định trong
hợp đồng kinh tế. Đồng thời các nhà quản lý tài chính cần tỉnh táo đề phòng
sự bội tín của đối phương nhằm đảm bảo an toàn về vốn kinh doanh. Giữ chữ
“ tín” trong quản lý tài chính là đạo đức, văn minh, cơ sở cho sự trường tồn
của mỗi doanh nghiệp.
Bốn là: an toàn và hiệu quả.
Trong quá trình quản lý tài chính, nhà quản lý thường xuyên phải đưa
ra nhiều phương án lựa chọn, mỗi một phương án đem lại hiệu quả khác nhau
với mức rủi ro khác nhau. Chính vì vậy, để đưa ra một quyết định tài chính có
12
hiệu quả, nhà quản lý phải phân tích, nghiên cứu kỹ lưỡng. Có thể chấp nhận
một phương án đầu tư đem lại mức lợi nhuận vừa phải nhưng an toàn còn hơn
là một phương án có lợi nhuận rất cao nhưng đầy phiêu lưu và mạo hiểm. Để
tăng thêm đọ an toàn, doanh nghiệp còn có thể thiết lập các quỹ dự phòng,
mua bảo hiểm, hoặc phát triển cổ phiếu…cũng là những biện pháp vừa để tập
trung vốn vừa san sẻ rủi ro [9].
1.2. Nội dung quản trị tài chính trong doanh nghiệp
1.2.1.Quản trị vốn trong doanh nghiệp
Vốn là điều kiện cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi
doanh nghiệp, nhưng mục đích cao nhất của doanh nghiệp chính là lợi nhuận.
Điều đó đồng nghĩa với doanh nghiệp phải khai thác và sử dụng triệt để mọi
nguồn lực sẵn có của mình, trong đó sử dụng hiệu quả nguồn vốn là yêu cầu
bắt buộc đối với mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển
mạnh mẽ thì sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng trở nên gay gắt.
Doanh nghiệp nào tận dụng tối đa năng lực sản xuất và nâng cao hiệu quả
quản lý vốn thì sẽ có điều kiện đứng vững trên thị trường. Nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn là mục tiêu hàng đầu của mọi doanh nghiệp vì đây là yếu tố
không những bảo đảm cho doanh nghiệp an toàn về mặt tài chính, hạn chế rủi
ro, mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận mà còn giúp doanh nghiệp
tăng uy tín, nâng cao khả năng cạnh tranh và vị thế của doanh nghiệp
trên thương trường. Có thể nói rằng hiệu quả sử dụng vốn thực chất là
thước đo trình độ sử dụng nguồn nhân lực, tài chính của doanh nghiệp, tạo
những lợi thế nhất định để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển.
Việc quản lý vốn đầu tiên được đề cập tại Luật Doanh nghiệp
1995, sau đó được quy định thống nhất hơn trong Luật Doanh nghiệp 2005.
Theo đó, đối với việc quản lý vốn tại các DNNN được hiểu là nhà nước quản
13
lý (trực tiếp hay ủy quyền), chi phối và quyết định đối với phần vốn nhà nước
tại các DNNN [14].
Về chủ thể quản lý vốn, đối với các DNNN được đầu tư vốn thì
nhà nước (Chính phủ) sẽ quản lý vốn đó với tư cách chủ sở hữu. Tuy
nhiên, về mặt thực tế Chính phủ không trực tiếp thực hiện tất cả các nội
dung của công tác quản lý nhà nước và thực hiện quyền của chủ sở hữu đối
với DNNN mà ủy quyền cho các bộ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương hoặc cơ quan khác thay mình để thực hiện chức năng quản lý vốn.
Theo Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu
tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014 và Nghị định số
99/2012/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/11/2012 về phân công, phân cấp thực
hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với
DNNN và vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp (sau đây gọi tắt là Nghị
định 99) thì chủ thể quản lý vốn của DNNN bao gồm Chính phủ, Bộ quản lý
ngành và UBND cấp tỉnh. Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao
nhất, thống nhất quản lý và thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với DNNN
và vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Chính phủ là đại diện chủ sở hữu
đối với vốn nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp. Chính phủ phân cấp, ủy
quyền cho các cơ quan nhà nước, cá nhân thực hiện quyền đại diện chủ sở
hữu vốn đầu tư tại các doanh nghiệp. Chính phủ phân công, phân cấp việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân
đại diện bao gồm Thủ tướng, Bộ quản lý ngành, UBND cấp tỉnh, Hội đồng
thành viên, Hội đồng quản trị công ty nhà nước, Tổng Công ty Đầu tư và
Kinh doanh vốn nhà nước [18].
Đối với vấn đề cơ cấu lại vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Chính phủ quy
định hình thức, nội dung, trình tự và thủ tục cơ cấu. Chính phủ quy định
việc quản lý tài chính đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ bao gồm phương thức xác định, huy động vốn cũng như phân phối lợi
14
nhuận và bảo toàn vốn. Ngoài ra, Chính phủ cũng quy định tiêu chí đánh giá
kết quả thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp có thể tăng vốn để phục vụ cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tuy nhiên, căn cứ để tăng vốn, quy
trình tăng vốn và trách nhiệm giải trình khi được tăng thêm vốn thì phải tuân
thủ theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào
sản xuất, kinh doanh, tại doanh nghiệp năm 2014.
Nhà nước thực hiện chuyển nhượng vốn đầu tư tại doanh nghiệp nhằm:
Cơ cấu lại doanh nghiệp theo lĩnh vực, ngành nghề nhà nước không tiếp tục
nắm giữ 100% vốn điều lệ; thu hồi vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp
khác là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hoạt động trong lĩnh
vực nhà nước không cần duy trì vốn góp; thu hút tham gia đầu tư vốn của các
nhà đầu tư chiến lược trong và ngoài nước.
Theo khoản 1 Điều 19 của Nghị định số 71/2013/NĐ-CP, Công ty
TNHH MTV không có quyền phát hành cổ phần nhưng có quyền huy động
vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu; vay vốn của các tổ chức ngân hàng,
tín dụng, các tổ chức tài chính khác, của cá nhân, tổ chức ngoài công ty; vay
vốn của người lao động và các hình thức huy động vốn khác theo quy định
của pháp luật. Về nguyên tắc, việc huy động vốn phải có phương án được cấp
có thẩm quyền phê duyệt đảm bảo khả năng thanh toán nợ. Việc vay vốn của
tổ chức kinh tế, cá nhân trong nước, doanh nghiệp phải thực hiện thông
qua hợp đồng vay vốn với tổ chức kinh tế, cá nhân cho vay theo quy
định của pháp luật. Việc huy động vốn của các tổ chức, cá nhân nước
ngoài thực hiện theo các quy định của pháp luật về vay trả nợ nước
ngoài. Việc huy động vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu để phục vụ
cho ngành nghề kinh doanh chính được thực hiện theo quy định của
pháp luật về phát hành trái phiếu doanh nghiệp [5].
15
- Xem thêm -