Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền của người khuyết tật theo pháp luật việt nam ...

Tài liệu Quyền của người khuyết tật theo pháp luật việt nam

.PDF
95
377
62

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG THỊ THU HƯƠNG QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành: QUYỀN CON NGƯỜI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. LÊ MAI THANH HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật – Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đặng Thị Thu Hương MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT 6 1.1 Khái niệm và đặc điểm quyền của người khuyết tật 6 1.2 Nội dung quyền của người khuyết tật 11 1.3 Các yếu tố bảo đảm quyền của người khuyết tật 19 1.4 Pháp luật và cơ chế bảo đảm quyền của người khuyết tật 25 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT 33 2.1 Thực trạng pháp luật bảo đảm quyền dân sự, chính trị của người khuyết tật 33 2.2 Thực trạng pháp luật bảo đảm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của người khuyết tật 37 2.3 Đánh giá cơ chế pháp lý bảo đảm quyền của người khuyết tật 51 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT 54 3.1 Phương hướng hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay 54 3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật tại Việt Nam 61 Chương 2 Chương 3 KẾT LUẬN 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 78 84 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Bộ LĐ-TB & XH : Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội CRC : Công ước quốc tế về quyền trẻ em CRPD : Công ước về quyền của người khuyết tật 2006 CEDAW ECOSO : Công ước về xóa bỏ hình thức phân biệt đối xử với nữ kinh tế và xã hội Hội đồng : phụ HĐBA : Hội đồng Bảo an HĐQT : Hội đồng quản thác ICCPR : Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 ICESCR : Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 ILO : Tổ chức Lao động thế giới LHQ : Liên Hợp Quốc NKT : Người khuyết tật PHCN : Phục hồi chức năng UNCHR : Văn phòng cao uỷ Liên hợp quốc về người tị nạn UNESCO : Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của Liên hợp quốc : Chương trình phát triển của Liên hợp quốc : Hội đồng quyền con người Liên hợp quốc : Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc : Tổ chức y tế thế giới UNDP UNHRC UNCEEF WHO MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã khẳng định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân [33]. Điều đó có nghĩa rằng, việc đảm bảo sự bình đẳng trong cơ hội tiếp cận và thực hiện các quyền về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của tất cả mọi tầng lớp dân cư trong xã hội là nhiệm vụ quan trọng trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện một nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. NKT là những người bị khiếm khuyết về mặt thể chất hoặc tinh thần trong một thời gian dài khiến họ không thế thực hiện được các quyền của mình một cách đầy đủ như những người bình thường khác. Đây được xem là một trong những nhóm người dễ bị tổn thương và phải chịu nhiều thiệt thòi nhất trong xã hội. Do vậy, họ luôn cần nhận được sự quan tâm trợ giúp của gia đình, Nhà nước và toàn xã hội. Với truyền thống nhân đạo, đoàn kết của dân tộc và chủ trương xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm tới chính sách đối với NKT. Ngày 17/6/2010, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật NKT và ngày 28/11/2014 Quốc hội Việt Nam đã phê chuẩn Công ước LHQ về quyền của NKT. Hiện nay, các vấn đề về thực hiện việc bảo đảm quyền của NKT còn nhiều bất cập. Luật NKT đã được Quốc hội thông qua, nhưng quyền của NKT lại được ghi nhận tại nhiều văn bản pháp luật, thiếu tính đồng bộ, chưa có một hệ thống Luật, nghị định riêng biệt. Các cơ quan nghiên cứu chính sách, các đề tài nghiên cứu về quyền của NKT còn ít về số lượng, hạn chế về nội dung. Việc tuyên truyền tới người dân chưa được quan tâm đúng mức nên mức độ thực thi quyền của NKT trong xã hội là rất khiêm tốn. Do đó, NKT vẫn bị phân biệt đối xử, bị miệt thị, bị lạm dụng và lãng quên. Nhằm tìm hiểu rõ hơn quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề trên cũng 1 như đưa ra một số ý kiến để hoàn thiện pháp luật liên quan đến NKT, học viên đã lựa chọn chủ đề “Quyền của người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp Cao học Luật, chuyên ngành Quyền con người hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé vào việc phát triển, hoà nhập đời sống cộng đồng xã hội và bảo đảm thực hiện các quyền của NKT. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề quyền của NKT, pháp luật về quyền của NKT liên quan đến mọi quốc gia trên thế giới, cho nên đã có một số công trình khoa học nghiên cứu trong và ngoài nước dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các công trình nói trên còn để lại nhiều khoảng trống, chưa đề cập một cách toàn diện nội dung, tính khả thi của pháp luật về quyền của NKT. Chưa có công trình nào tiếp cận dưới góc độ quyền con người để nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của pháp luật về quyền của NKT. Có thể nêu một số công trình tiêu biểu sau: - Quyền con người và người khuyết tật ( Human Rights and disability) do tập thể tác giả Gerard Quinn, Theresia Degener, Anna Bruce, Chritstine Burke, Dr.Johua Castellino, Pacdraic Kenna, Dr. Ursula Kilkelly, Shivaun Quinlivan trong các ấn phẩm của LHQ xuất bản. - Báo cáo của UNICEF và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội năm 2009 nghiên cứu về việc “Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam: đánh giá luật và những chính sách bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em có những hoàn cảnh đặc biệt tại Việt Nam” - Sách "Quyền con người và người tàn tật” (Vũ Ngọc Bình - Nxb Lao động Xã hội, H, 2001). - Đề tài “Đánh giá việc thực hiện Bộ luật lao động đối với lao động là người tàn tật và pháp lệnh người tàn tật” - Nguyễn Thị Diệu Hồng- Bộ Lao động, thương binh và xã hội, thực hiện năm 2002. - Luận án Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Thị Báo - Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia với đề tài: Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật ở 2 Việt nam hiện nay, năm 2008. - Luận án Tiến sĩ giáo dục học của Nguyễn Thị Hoàng Yến với đề tài: Các biện pháp tổ chức giáo dục hoà nhập giúp trẻ em khuyết tật thính giác vào lớp 1. - Bảo vệ một số quyền cơ bản của NKT: so sánh pháp luật Việt Nam với công ước của Liên hợp quốc về quyền của NKT – ThS. Đinh Thị Cẩm Hà, Nxb Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh – 2011 - Sách "Bảo trợ xã hội cho những nhóm thiệt thòi ở Việt Nam" (Nxb Thế giới, H, 2005) là công trình nghiên cứu tập thể của nhóm tác giả: Lê Bạch Dương, Đặng Nguyên Anh, Khuất Thu Hồng, Lê Hoài Trung và Robert Leroy Bách. - Báo cáo của UNICEF và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội năm 2009 nghiên cứu về việc “Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam: đánh giá luật và những chính sách bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em có những hoàn cảnh đặc biệt tại Việt Nam”; - Hoàng Thị Kim Quế (2010), Chủ nhiệm đề tài, “Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương”, Đề tài nghiên cứu khoa học, Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội. Tuy vậy, tất cả các công trình trên, dù tiếp cận dưới góc độ chính sách pháp luật, giáo dục, đào tạo NKT, chăm sóc sức khoẻ NKT hoặc đánh giá quá trình thực hiện pháp luật lao động liên quan đến đối tượng là NKT trong quá trình tìm việc làm và tiếp cận xã hội trong các lĩnh vực khác nhau thì cũng đã có những nội dung liên quan tới việc bảo đảm quyền của NKT. Tuy vậy hiện nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách trực tiếp và có hệ thống về toàn bộ các quy định của pháp luật về quyền NKT ở Việt Nam. Luận văn sẽ góp phần làm phong phú hơn nguồn tài liệu về lĩnh vực này, đồng thời, bổ sung thêm kiến thức về việc bảo đảm quyền của NKT. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Qua nghiên cứ các đặc điểm, nội dung của quyền người khuyết tật nhằm để làm sáng tỏ các vấn đề về bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật pháp luật Việt Nam từ đó xây dựng luận cứ khoa học cho việc đề 3 xuất các giải pháp pháp lý nhằm tôn trọng, bảo vệ quyền của người khuyết tật, góp phần nâng cao vị thế của NKT , tạo cơ hội cho NKT bình đẳng và hòa nhập cộng đồng xã hội. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục tiêu đã đề ra, luận văn có nhiệm vụ: - Hệ thống hóa và tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật về quyền của NKT. - Nghiên cứu các đặc điểm nội dung về quyền của NKT. - Nghiên cứu pháp luật và cơ chế bảo vệ quyền của NKT. - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về quyền cảu người khuyết tật. - Đề xuất phương hướng và kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm quyền của NKT ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Pháp luật Việt Nam trong việc bảo đảm và thúc đẩy quyền của người khuyết tật. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu: Pháp luật Việt Nam về Quyền của người khuyết tật trên cơ sở đặc thù riêng có về thể chất của NKT. Phạm vi không gian: Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của người khuyết tật dựa trên các số liệu trong thời gian từ năm 2010-2016, là thời gian mà Quốc hội Việt Nam ban hành Luật người khuyết tật và Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật được ban hành năm 2006 có hiệu lực. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận: Cơ sở lí luận dùng để nghiên cứu đề tài này là chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề NKT; quan điểm của cộng đồng quốc tế về quyền của NKT; quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về bảo đảm thực hiện quyền của NKT. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích – tổng hợp, xã hội học, so sánh, đánh giá để làm sáng tỏ những vấn đề liên quan. Luận văn cũng khai thác thông tin tư liệu của các công trình nghiên cứu đã công bố để chứng minh cho 4 các luận điểm. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần cung cấp những tri thức khoa học cơ bản mang tính lý luận về quyền của NKT và pháp luật về quyền của NKT, giúp người đọc nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt Nam về bảo đảm quyền của NKT. Luận văn cũng nêu lên thực trạng và những bất cập trong pháp luật về việc bảo đảm thực hiện quyền của NKT ở Việt Nam, từ đó nêu ra một số giải pháp cho việc bảo đảm quyền của NKT ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trên phương diện thực tiễn luận văn có giá trị tham khảo trong tư vấn chính sách, pháp luật về quyền của người khuyết tật 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn kết cấu gồm 3 chương như sau: - Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về quyền của người khuyết tật. - Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền của người khuyết tật. - Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền của người khuyết tật. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT 1.1. Khái niệm và đặc điểm quyền của người khuyết tật 1.1.1. Khái niệm quyền của người khuyết tật 1.1.1.1. hái niệm Người khuyết tật Người khuyết tật là một bộ phận dân cư trong xã hội loài người. NKT có ở tất cả các nước trên thế giới. Theo thống kê gần đây của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), tổng số NKT vào khoảng 650 triệu, chiếm 10% dân số thế giới [35, tr.288]. Ở Việt Nam, theo thống kê của Bộ Lao động và thương binh xã hội, hiện có khoảng 6,7 triệu NKT chiếm khoảng 7% dân số. Các nguyên nhân gây khuyết tật ở Việt Nam rất đa dạng: do bẩm sinh (35,8%), do bệnh tật (32,34%), do hậu quả chiến tranh (25,56%), do tai nạn lao động (3,49%) và do các nguyên nhân khác (2,81%) [38]. Dự báo trong nhiều năm tới NKT được coi là một trong những nhóm thiểu số lớn nhất thế giới và cũng là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất (bên cạnh các nhóm người dễ bị tổn thương khác như: phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người dân tộc thiểu số…), vì tình trạng khuyết tật khiến họ phải chịu những thiệt thòi trên các phương diện của đời sống xã hội. Có hai quan điểm khác nhau về NKT đó là: Quan điểm khuyết tật cá nhân và quan điểm khuyết tật xã hội. Quan điểm khuyết tật cá nhân hay quan điểm khuyết tật dưới góc độ y tế. Quan điểm này cho rằng NKT là do hạn chế cá nhân, là ở chính con người đó, chú trọng rất ít hoặc không để ý đến các yếu tố môi trường xã hội và môi trường vật thể xung quanh NKT [34 tr.78]. Quan điểm này cho rằng NKT có thể hưởng lợi từ phương pháp khoa học như thuốc điều trị và các công nghệ cải tiến chức năng. Mô hình y tế chú trọng vào việc trị liệu cá nhân chứ không xem trọng việc trị liệu xã hội. Như vậy mô hình y tế nhìn nhận NKT là vấn đề đưa ra và đưa ra giải pháp để làm người đó “bình thường”. Với quan điểm này xã hội đã coi NKT là những người 6 có vấn đề về thể chất và cần phải chữa trị. Do đó đã đẩy những NKT vào thế bị động của người bệnh. Quan điểm khuyết tật theo mô hình xã hội: Đây được coi là nền tảng của những chuyển biến của vấn đề NKT. Ở đây, NKT được nhìn nhận là hệ quả bị xã hội phân biệt. Bởi vì xã hội được tổ chức không tốt nên NKT bị phân biệt đối xử. Ngày 17/6/2010, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật NKT, có hiệu lực từ 01/01/2011, chính thức sử dụng khái niệm “Người khuyết tật” thay cho khái niệm “Người tàn tật”, phù hợp với khái niệm và xu hướng nhìn nhận của thế giới về vấn đề NKT. Theo đó thì: “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn” [48]. Ở đây ta có thể hiểu NKT bao gồm cả những người bị khuyết tật bẩm sinh, người bị khiếm khuyết do bệnh tật, tai nạn, thương binh, bệnh binh.... Như vậy, Luật người khuyết tật Việt Nam đã đưa ra khái niệm NKT dựa vào mô hình xã hội, tuy nhiên còn chung chung so với khái niệm NKT của Công ước về quyền của NKT Như vậy, ta có thể thấy định nghĩa về NKT dù tiếp cận dưới bất cứ góc độ nào, nhất thiết phải phản ánh thực tế là NKT có thể gặp các rào cản do yếu tố xã hội, môi trường hoặc con người khi tham gia vào mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội. Họ phải được đảm bảo rằng họ có quyền và trách nhiệm tham gia vào mọi hoạt động của đời sống như bất cứ công dân nào với tư cách là các quyền của con người.Với cách tiếp cận đó, có thể hiểu định nghĩa người khuyết tật theo quy định của Công ước quốc tế về quyền của NKT như sau: “NKT bao gồm những người bị suy giảm về thể chất, thần kinh, trí tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh hưởng qua lại với hàng loạt những rào cản có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của những người khuyết tật vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác” [24]. 1.1.1.2 Khái niệm quyền của người khuyết tật NKT trước hết là con người, nói tới NKT là ta nói tới một nhóm người và NKT là nhóm người dễ bị tổn thương nhất trong các nhóm xã hội dễ bị tổn thương 7 (bên cạnh các nhóm như: phụ nữ, trẻ em, người thiểu số...). Bởi vậy, để đi đến khái niệm về quyền của NKT, trước tiên ta phải tìm hiểu một loạt các khái niệm như: Quyền con nguời? Quyền của nhóm? Quyền của nhóm người dễ bị tổn thương? Có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người tuy nhiên định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu, theo đó: Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người. Bên cạnh đó, nhân quyền còn được định nghĩa một cách khái quát là những quyền bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu không được hưởng thì chúng ta sẽ không thể sống như một con người. Trong thực tế ở Việt Nam, bên cạnh thuật ngữ “quyền con người”, có một thuật ngữ khác cũng được sử dụng, đó là “nhân quyền”. Cả hai thuật ngữ này đều bắt nguồn từ thuật ngữ chung bằng tiếng Anh được sử dụng trong môi trường quốc tế, đó là human rights. Từ human rights trong tiếng Anh có thể được dịch là quyền con người (thuần Việt) hoặc nhân quyền (Hán - Việt). Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, “nhân quyền” chính là “quyền con người”. Như vậy, xét về mặt ngôn ngữ học, quyền con người và nhân quyền là hai từ đồng nghĩa, do đó, hoàn toàn có thể sử dụng cả hai từ này trong nghiên cứu, giảng dạy và hoạt động thực tiễn về nhân quyền [36, tr.22,23]. Nếu như quyền cá nhân được hiểu là các quyền thuộc về mỗi cá nhân, bất kể họ có hay không là thành viên của bất kỳ một nhóm xã hội nào, và việc hưởng thụ các quyền này là tùy thuộc ý chí của mỗi cá nhân thì ngược lại, theo nghĩa rộng của nó, quyền của nhóm được hiểu là những quyền đặc thù, chung của một tập thể hay một nhóm xã hội nhất định, mà để được hưởng thụ các quyền này cần phải là thành viên của nhóm, và đôi khi cẩn phải thực hiện cùng với các thành viên khác của nhóm [34, tr.14]. Khái niệm các nhóm người dễ bị tổn thương được sử dụng rất phổ biến trong các văn kiện pháp lý quốc tế và trong các hoạt động nghiên cứu, thực tiễn về quyền con người trên thế giới. Khái niệm này chỉ những nhóm, cộng đồng có vị thế về 8 chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con người, và bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác. Một số nhóm người được coi là dễ bị tổn thương trong luật quốc tế về quyền con người bao gồm: phụ nữ, NKT, người sống chung với HIV, người di tản hoặc tìm kiếm nơi lánh nạn, người không quốc tịch, người lao động di trú, người thiểu số, người bản địa, nạn nhân chiến tranh, những người bị tước tự do, người cao tuổi... [34, tr.23,24]. Khái niệm quyền của NKT gồm nội hàm của khái niệm quyền con người, quyền của nhóm, NKT cũng có các quyền cơ bản về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Nếu quyền con người được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuân pháp lý quốc tế thì khái niệm quyền của NKT có thể được hiểu như sau: Quyền của NKT bao gồm các quyền tự do cơ bản của con người, là phẩm giá, nhu cầu, lợi ích và năng lực vốn có ở con người – với tư cách là thành viên của cộng đồng nhân loại và được chăm sóc, bảo vệ đặc biệt với tư cách là nhóm người đặc thù dễ bị tổn thương bởi sự khuyết tật, được thừa nhận và bảo hộ bằng pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia [1, tr.48,49]. Một thời kỳ dài, những NKT bị coi là đối tượng của lòng thương hại; việc bảo vệ, hỗ trợ họ chủ yếu dựa trên cách tiếp cận của tình thương và lòng nhân đạo, chứ không bắt nguồn từ nhận thức rằng họ cũng là những chủ thể của quyền và các nhà nước, cộng đồng, tổ chức, cá nhân khác là những chủ thể có nghĩa vụ phải tôn trọng và bảo đảm thực hiện các quyền của NKT [34, tr.98]. 1.1.2. Đặc điểm quyền của người khuyết tật Quyền của NKT cũng chính là quyền con người bởi trước hết những NKT cũng là con người, có chăng những người này có những đặc điểm riêng nhất định. Chính vì vậy, dẫu có các đặc điểm giống như quyền con người như: Tính phổ biến, tính không thể chuyển nhượng, Tính không thể phân chia, Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau thì các đặc điểm quyền này của NKT mang những nét rất riêng và rất đặc thù. Có thể nhận định các đặc điểm quyền của NKT như sau: 9 Tính phổ biến: đặc điểm này có nghĩa giống như quyền con người quyền của NKT là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt đối xử vì bất kỳ lý do gì [25, tr.22]. Đặc điểm này thể hiện quyền của NKT mang nguồn gốc tự nhiên, không do một cá nhân tổ chức nào ban cho, một người từ khi sinh ra là đã có quyền này. Và cũng không có phận sự phân biệt chủng tộc, tôn giáo, mọi người điều bình đẳng như nhau [25, tr.22]. Nhưng vì khiếm khuyết nên những quyền này của NKT không thể thực hiện được nếu không có sự can thiệp, hỗ trợ nâng cao năng ltừ phía gia đình và xã hội Tính không thể chuyển nhượng: đặc điểm này có nghĩa là các quyền con người không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả cơ quan nhà nước, trừ một số trường hợp đặt biệt, chẳng hạn như khi một con người phạm tội ác thì có thể bị tước quyền tự do. Tính không thể chuyển nhượng của quyền con người mang nguồn gốc tự nhiên. Quyền con người là những quyền không thể ban phát, chuyển nhượng. Nó không phụ thuộc vào phong tục, tập quán hay ý chí của cá nhân, tổ chức nào, không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất kỳ chủ thể nào, kể cả nhà nước. Con người với tư cách là một cá nhân trong xã hội, họ có khả năng tư duy và hành động độc lập, nhờ đó mà có khả năng tự quyết định việc thực hiện quyền của mình, thực hiện những điều tốt nhất cho mình mà không xâm phạm đến quyền của người khác. Nhưng đối với NKT lại khác, tính không thể chuyển nhượng này đôi khi bị mất đi khi NKT về trí tuệ, về tâm thần... bởi những NKT dạng này thường không làm chủ được hành vi của bản thân có thể gây nguy hại cho những người thân, những người xung quanh và xã hội. Tính không thể phân chia: đặc điểm này có nghĩa là các quyền con người điều có tầm quan trọng như nhau, về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào, vì tất cả quyền con người đều có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo đảm nhân phẩm và giá trị con người [25, tr.22]. Với quyền của NKT thì tính không thể phân chia khó có thể bảo đảm được. NKT thường sinh ra và vì 10 khuyết tật nên gia đình có điều kiến sống khó khăn. Từ việc không có một điều kiện sinh hoạt tối thiểu, được học hành, vui chơi, hòa nhập cộng đồng... đã làm cho NKT tụt lại phía sau so với những người xung quanh. Các khía cạnh đời sống của NKT đều thấp nên đại đa số NKT phải lựa chọn ưu tiên quyền quan trọng với chính họ để thực hiện trước nhất, trong nhiều trường hợp NKT còn không có đủ khả năng để lựa chọn thực hiện bất cứ quyền nào. Chính vì vậy mà Nhà nước với vai trò là chủ thể có chịu trách nhiệm cần đưa ra sự hỗ trợ cần thiết, kịp thời và đồng bộ để NKT có thể thực hiện được các quyền cơ bản nhất. Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau: thể hiện ở chỗ việc đảm bảo các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc đảm bảo các quyền khác và ngược lại, tiến bộ trong việc đảm bảo một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc đảm bảo các quyền khác[25, tr.22]. Với NKT thì đây có thể là điều hiển nhiên, bởi vì khiếm khuyết nên NKT thường không tham gia học tập, nếu có học tập thì chỉ trong các trường chuyên biệt như: Trường dành cho người khiếm thị, khiếm thính... hạn chế học tập thì khả năng học nghề cũng hạn chế; học tại trường chuyên biệt nên sự tự ti, mặc cảm về khuyết tật của bản thân rất lớn, hòa nhập cộng đồng sẽ bị hạn chế. Một loạt các quyền khác như: quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền tôn trọng cuộc sống riêng tư... đều không bảo đảm. Từ thực tế trên cho thấy, trong hầu hết các trường hợp, rất khó thậm chí là không thể thực sự thành công trong việc bảo đảm riêng một quyền con người nào đó mà bỏ qua các quyền khác. Chính vì vậy, bảo đảm các quyền đối với NKT càng khó khăn gấp nhiều lần. Điều này đòi hỏi nhà nước phải đưa ra và vận dụng tối đa tất cả các bảo đảm (trình bày ở phần 1.3 chương 1) dành cho NKT để có thể bảo đảm được quyền của NKT trong thực tế. 1.2. Nội dung quyền của người khuyết tật Trong hệ thống văn bản pháp lý về NKT, các văn kiện ghi nhận quyền của NKT dù là quốc tế như Công ước năm 2007 của Liên Hiệp Quốc dành riêng cho NKT hay Luật Người khuyết tật của Việt Nam năm 2010 đều ghi nhận sự thay đổi 11 về phương pháp tiếp cận, các quyền của NKT. Bên cạnh những quyền có tính chất đặc thù chỉ dành riêng cho NKT, thì còn ghi nhận quyền phổ quát áp dụng chung cho tất cả mọi cá nhân. Một số nhóm quyền cơ bản của NKT gồm: 1.2.1. Nhóm quyền được sống và được đối xử bình đẳng (i). Quyền được sống. Đây là quyền cơ bản của mỗi con người, và NKT không nằm ngoài quy luật của quyền này. Quyền được sống có thể coi như quyền hiển nhiên nhất của tất cả mọi người trên thế giới nhưng đối với NKT việc khẳng định quyền này là vấn đề đặc biệt có ý nghĩa. Như vậy, qua quy định này ta thấy được rằng bất kì con người nào cũng cần được hưởng quyền sống này, và bản thân chính mỗi con người cũng như chính quốc gia đó phải đảm bảo các điều kiện tốt nhất để con người dù khuyết tật hay không được thụ hưởng quyền này một cách đầy đủ nhất. Đối với NKT điều đó lại càng có ý nghĩa hơn, khi Nhà nước phải có nghĩa vụ bảo vệ các quyền và điều kiện để họ được sống như những công dân bình thường khác mà không được vì những khuyết tật của họ mà cướp đi quyền sống của họ được. Tôn trọng quyền sống của NKT là một trong những bước tiến quan trọng giúp cho NKT được khẳng định vị trí và vai trò của mình trong xã hội. (ii). Quyền được thừa nhận bình đẳng Quyền bình đẳng của NKT được phản ánh ở nhiều khía cạnh, bao gồm: Sự bình đẳng về địa vị xã hội mà sự thể hiện trước hết là bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ bình đẳng với người khác; Sự bình đẳng về cơ hội; , NKT được bình đẳng với những người khác trong việc thực hiện quyền được tôn trọng cuộc sống riêng tư, tôn trọng tổ ấm và gia đình Bản thân NKT sở dĩ họ không thể tham gia vào đời sống xã hội bởi những khuyết tật của họ, nhưng đây không phải là vấn đề đầu tiên cản trở họ mà việc họ không thể tham gia vào đời sống xã hội là do những rào cản từ bên ngoài đời sống không cho phép họ tham gia được vào. Những định kiến xã hội, môi trường xung quanh đã làm cho NKT càng thu mình hơn trong các hoạt động. Định kiến không 12 coi trọng NKT, cho rằng họ chỉ là những thành phần ăn bám xã hội đã làm cho bản thân NKT họ không phát huy được năng lực của chính bản thân mình. Chính vì vây, để tạo ra được cơ hội tiếp cận của NKT cũng ngang bằng với những người xung quanh chúng ta phải thay đổi nhận thức của xã hội về NKT cũng như Nhà nước cần có những chính sách tạo điều kiện về cơ sở vật chất giúp NKT tự mình làm được những công việc của họ. 1.2.2. Nhóm quyền được đảm bảo tự do cơ bản (i). Quyền Tự do và an toàn cá nhân NKT cần được hưởng đầy đủ quyền tự do và an toàn cá nhân; bao gồm những khía cạnh cụ thể như được tôn trọng, bảo vệ sự toàn vẹn về thể chất, tinh thần, không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm, không bị bóc lột, lạm dụng và bạo lực. Tinh thần chung là các quốc gia thành viên phải dành cho NKT sự bảo vệ đặc biệt hơn chống lại những hành vi xâm hại đến an toàn cá nhân của họ tôn trọng, bảo vệ sự toàn vẹn về thể chất, tinh thần, không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm, không bị bóc lột, lạm dụng và bạo lực. (ii). Quyền sống độc lập và hòa nhập cộng đồng NKT có quyền được sống độc lập trong cộng đồng, có những sự lựa chọn bình đẳng với những người khác. Quốc gia cần tiến hành những biện pháp hữu hiệu và thích hợp để tạo điều kiện cho NKT được hưởng thụ đầy đủ quyền này và bảo đảm sự hòa nhập, tham gia đầy đủ của họ vào cộng đồng. NKT có cơ hội lựa chọn nơi sinh sống và họ sống ở đâu, với ai, không bị bắt buộc phải sống ở nơi nuôi dưỡng cụ thể nào. NKT được tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ tại nhà, tại khu vực sinh sống và trong cộng đồng, bao gồm sự hỗ trợ cá nhân cần thiết nhằm trợ giúp cho cuộc sống và hòa nhập cộng đồng. Phải có các dịch vụ và hạ tầng cơ sở công cộng để NKT sử dụng trên cơ sở bình đẳng với những người khác và phù hợp với nhu cầu của NKT. (iii). Quyền tự do đi lại, tự do cư trú và tự do quốc tịch Đảm bảo quyền tự do đi lại của NKT là vấn đề lớn. Trong nhiều trường hợp NKT bị phân biệt đối xử và không thể thực hiện được quyền tự do đi lại, ví như 13 NKT đi xe lăn bị yêu cầu trả thêm phí dịch vụ nếu muốn lên máy bay, người khiếm thính bị từ chối không được sử dụng dịch vụ bay vì lí do không đảm bảo an toàn cho chuyến bay do người khiếm thính không thể nghe được các hướng dẫn an toàn khi đi tàu bay.... NKT được tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ tại nhà, tại khu vực sinh sống và trong cộng đồng, bao gồm sự hỗ trợ cá nhân cần thiết nhằm trợ giúp cho cuộc sống và hòa nhập cộng đồng. Phải có các dịch vụ và hạ tầng cơ sở công cộng để NKT sử dụng trên cơ sở bình đẳng với những người khác và phù hợp với nhu cầu của NKT. (iv). Quyền tự do biểu đạt, chính kiến và tiếp cận thông tin Quyền tự do ngôn luận của NKT bao gồm tự do thu thập, tìm kiếm và phổ biến thông tin, ý kiến, trên cơ sở bình đẳng với những người khác, bằng tất cả các hình thức giao tiếp mà họ lựa chọn. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù của NKT mà luật pháp quốc tế yêu cầu các quốc gia thành viên phải bảo đảm quyền này bằng việc cung cấp thông tin đại chúng cho NKT bằng các hình thức có thể tiếp cận được và các công nghệ phù hợp với những loại khuyết tật khác nhau như một cách kịp thời, quốc gia phải chấp nhận và tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng ngôn ngữ kí hiệu, chữ nổi Braille, phóng to chữ hay cách giao tiếp thay thế khác, bằng tất cả các phương tiện và dạng thức giao tiếp phù hợp do NKT lựa chọn. Các quốc gia cũng cần phải thúc đẩy các tổ chức cá nhân, các nhà cung cấp thông tin cung cấp các dịch vụ công cộng, bao gồm thông tin Internet, cung cấp thông tin và các dịch vụ bằng các hình thức mà NKT có thể tiếp cận và sử dụng được. 1.2.3. Nhóm quyền được bảo vệ. (i). Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, bị đối xử, áp dụng các hình phạt tàn nhẫn. Theo đó, NKT có quyền được bảo vệ không bị tra tấn, bị đối xử, áp dụng những hình phạt tàn nhẫn, vô nhân đạo hoặc bị nhục hình, làm giảm phẩm giá hay bị ngược đãi, đặc biệt là không một ai bị coi là đối tượng của thí nghiệm y tế hoặc thí nghiệm khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người đó. Các quốc gia có trách nhiệm tiến hành tất cả các biện pháp có hiệu quả về luật 14 pháp, hành chính, pháp lý hoặc những biện pháp khác để bảo vệ NKT, trên cơ sở bình đẳng với những người khác, để không bị hành hạ hoặc đối xử tàn ác, vô nhân đạo, làm giảm phẩm giá hay ngược đãi. (ii). Quyền không bị bóc lột, bạo hành và lạm dụng. Có thể nói đây là một trong những quyền quan trọng dành NKT. Các quốc gia tiến hành mọi biện pháp thích hợp về lập pháp, hành pháp, xã hội, giáo dục và các biện pháp khác để bảo vệ NKT cả ở trong gia đình, tránh khỏi tất cả các hình thức bóc lột, bạo hành và lạm dụng, bao gồm các mặt về giới. Các quốc gia thành viên cũng tiến hành tất cả các biện pháp thích hợp để ngăn chặn tất cả các hình thức bóc lột, bạo hành và lạm dụng bằng cách bảo đảm tất cả các hình thức hỗ trợ và giúp đỡ thích hợp về nhạy cảm giới và độ tuổi dành cho NKT, gia đình họ và những người chăm sóc bao gồm thông qua việc cung cấp thông tin và giáo dục về cách tránh, nhận biết và báo cáo về các trường hợp bóc lột, bạo hành và lạm dụng. 1.2.4. Nhóm quyền được tham gia Nhóm quyền được tham gia bao gồm: (i). Quyền được tham gia đời sống chính trị và cộng đồng Để một đất nước phát triển mạnh và hội nhập với các nước trên thế giới thì trong mỗi con người chúng ta cần phải phấn đấu không ngoại trừ một ai. Bởi vậy, NKT sẽ không vì yếu tố khuyết tật mà bị hạn chế không được tham gia vào các hoá. Nhà nước bảo đảm cho NKT có cá quyền về chính trị và cơ hội được hưởng thụ các quyền đó một cách bình đẳng với người khác. Để NKT tham gia đầy đủ và có hiệu quả vào đời sống chính trị cộng đồng bình đẳng với những người khác, một cách trực tiếp hoặc thông qua tự do lựa chọn đại diện, trong đó NKT có quyền và cơ hội bầu cử và ứng cử không kể những điều khác, bằng cách bảo đảm thủ tục, trang thiết bị và tài liệu bầu cử phù hợp, dễ tiếp cận, dể hiểu và dễ sử dụng. (ii). Quyền tham gia các hoạt động văn hoá, nghỉ ngơi, giải trí và thể thao NKT có quyền được hưởng thụ và phát triển đời sống tinh thần, một người có thể sống tốt hơn thì cần phải có các hoạt động thể thao để giải trí bên cạnh đó sau 15 khi giải trí thì đầu óc của con người sẽ hoạt bát hơn, thông minh hơn và lúc đó làm việc sẽ hiệu quả hơn. Tuy nhiên, do sự khiếm khuyết chức năng, ví dụ chức năng nghe, nhìn, vận động… để người khuyết tật có thể hưởng thụ các giá trị văn hoá và tham gia vào các hoạt động văn hoá, giải trí, thể thao, cần phải tạo ra điều kiện phù hợp trong đó mặt hạn chế của khuyết tật được khắc phục phần nào và NKT có thể tiếp cận được. Các quốc gia sẽ thực hiện những bước đi phù hợp theo luật quốc tế để bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ không tạo thành rào cản phân biệt đối xử phi lý khiến NKT không tiếp cận được các tài liệu văn hóa. Trên cơ sở bình đẳng với người khác, NKT có quyền được hoàn toàn công nhận và hỗ trợ về đặc trưng văn hóa và ngôn ngữ của họ, bao gồm cả ngôn ngữ ký hiệu và văn hóa của người khiếm thính, giáo dục và các dịch vụ xã hội theo những cách mà các dịch vụ và chương trình này bắt đầu từ giai đoạn sớm nhất có thể và dựa trên những đánh giá nghiêm ngặt về các nhu cầu và sức khỏe của mỗi cá nhân. Thúc đẩy sự phát triển công tác tập huấn ban đầu và liên tục dành cho những chuyên viên cán bộ làm việc trong nghành hỗ trợ chức năng và phục hồi chức năng. Thúc đẩy sự sẵn có, hiểu biết và việc sử dụng các thiết bị, kỹ thuật hỗ trợ được thiết kế dành cho NKT bởi chúng có liên quan đến hỗ trợ chức năng và phục hồi chức năng [24]. Bảo đảm NKT được tiếp cận những dịch vụ của các cơ sở tham gia tổ chức hoạt động giải trí, du lịch, nghỉ ngơi và thể thao. 1.2.5. Nhóm quyền được hỗ trợ đặc biệt, có cơ hội và được phát triển bằng chính công việc do bản thân tự do lựa chọn (i). Quyền hưởng các dịch vụ y tế NKT có quyền hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ đạt tiêu chuẩn cao nhất mà không bị phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật. Bởi vì khi có sức khỏe thì con người ta mới làm việc có hiệu quả, giảm bớt gánh nặng cho người thân trong gia đình khi một người mắc bệnh thì phải có người lo nên công việc sẽ bị trì truệ. Các quốc gia cần phải cung cấp cho NKT các dịch vụ và chương trình y tế cùng mức, có chất lượng, đạt tiêu chuẩn, miễn phí hoặc với mức phí có thể chấp 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan