Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học theo pháp luật sở hữu trí t...

Tài liệu Quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học theo pháp luật sở hữu trí tuệ từ thực tiễn đại học y dược thành phố hồ chí minh

.PDF
85
698
116

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ THANH TÂM QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC THEO PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ TỪ THỰC TIỄN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – NĂM 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ THANH TÂM QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC THEO PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ TỪ THỰC TIỄN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành : Luật Kinh Tế Mã số : 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. LÊ MAI THANH HÀ NỘI – NĂM 2017 LỜI CAM KẾT Tôi: Lê Thị Thanh Tâm Học viên Cao học - Khóa VI.1 (2015 - 2017) Chuyên ngành: Luật Kinh tế Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, dữ liệu và một số kiến thức của các tác giả khác trong luận văn này được sử dụng trung thực, có đầy đủ nguồn dữ liệu đáng tin cậy theo quy trình của một công trình khoa học. Kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC .....................................5 1.1. Khái niệm và đặc điểm quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học ...........................................................................................................5 1.1.1. Khái niệm quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học.............5 1.1.2. Đặc điểm quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học..............7 1.2. Hình thức và tiêu chí xác lập quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học ...........................................................................................................9 1.2.1. Hình thức xác lập quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học 9 1.2.2. Tiêu chí xác lập quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học .10 1.3. Nội dung và thực thi quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học .11 1.3.1. Nội dung Quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học ..........11 1.3.2. Thực thi quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học ..............20 1.4. Cơ sở pháp lý về bảo hộ quyền tác giả. ..........................................................23 1.4.1. Pháp luật Việt Nam ..................................................................................23 1.4.2. Pháp luật quốc tế......................................................................................25 Chương 2 THỰC TRẠNG QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TỪ THỰC TIỄN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...........................................................27 2.1. Đặc điểm các công trình nghiên cứu khoa học tại Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh và các yêu cầu bảo hộ quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học...................................................................................................27 2.1.1. Đặc điểm các công trình nghiên cứu khoa học tại Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh .....................................................................................28 2.1.2. Các yêu cầu bảo hộ quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học...................................................................................................31 2.2. Thực trạng xác lập quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học tại Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh ......................................................34 2.3. Thực trạng khai thác quyền của chủ sở hữu, của tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học tại Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh ...............36 2.4. Thực trạng thực thi quyền quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học theo pháp luật sở hữu trí tuệ từ thực tiễn Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh .........................................................................................................43 Chương 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC .........................................................................................53 3.1. Định hướng, hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học...................................................................................................53 3.1.1. Bảo hộ quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học trên cơ sở cân bằng lợi ích của chủ sở hữu công trình khoa học và sự thụ hưởng của xã hội ................................................................................................53 3.1.2. Bảo hộ quyền tác giả đáp ứng các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên ................................................................................................58 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học .........................................................................................................60 3.2.1. Kiến nghị cụ thể sửa đổi bổ sung pháp luật quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học .......................................................................62 3.2.2. Kiến nghị nâng cao năng lực cơ chế thực thi quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học .......................................................................64 KẾT LUẬN ..............................................................................................................72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................74 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Viết tắt Từ/cụm từ được viết tắt CƯ Berne Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật năm 1886 CSH Chủ sở hữu ĐHYD TP.HCM Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh Hiệp định TRIPs Hiệp định TRIPs về những khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ Luật SHTT Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 số 50/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005, được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 36/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009 NCKH Nghiên cứu khoa học Nghị định Nghị định số 100/2006/NĐ-CP/2006 ngày 21/9/2006 100/2006/NĐ- CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan được sửa đổi bổ sung bằng Nghị định số 85/2011/NĐ-CP/2011 ngày 20/9/2011 của chính phủ Nghị định Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của 105/2006/NĐ- CP Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật SHTT về bảo vệ quyền SHTT và quản lý nhà nước về SHTT được sửa đổi bổ sung Nghị định số 119/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 QTG Quyền tác giả PMMT Phần mềm máy tính PLVN Pháp luật Việt Nam MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Các quốc gia trên thế giới đều tạo điều kiện cho mỗi cá nhân được thỏa sức sáng tạo và thể hiện ý tưởng của mình ra cộng đồng. Quyền tác giả (QTG) là một công cụ pháp lý quan trọng để bảo hộ sự sáng tạo. Thông qua việc trao cho tác giả, chủ sở hữu (CSH) các quyền và lợi ích hợp lý, sẽ khuyến khích sáng tạo, phát triển và phổ biến các sáng tạo khoa học. Như vậy, công chúng được tạo điều kiện để được hưởng thụ, tiếp cận các sáng tạo đó. Đối với Việt Nam, cần kích thích được hoạt động sáng tạo thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) nhất là ở các trường đại học. Cần đẩy mạnh việc thương mại hoá các công trình NCKH của các giảng viên đại học và sinh viên. Có thể nói, chưa bao giờ vấn đề bảo hộ QTG đối với công trình NCKH trong trường đại học lại được quan tâm như thời gian gần đây. Lý do là bởi trong thời đại công nghệ, việc vi phạm bản quyền các công trình NCKH trong trường đại học và sử dụng trái phép các tài sản trí tuệ này trở nên đa dạng và phức tạp. Công tác bảo hộ QTG của các trường đại học trong nhiều năm qua chưa được chú trọng, nhiều công trình NCKH của các cán bộ, giảng viên trong các trường đại học bị xâm hại. Chức năng chính của trường đại học là giáo dục, đào tạo và NCKH. Nhưng hiện nay sở hữu trí tuệ (SHTT) một trong những vấn đề không kém phần quan trọng của trường đại học là chuyển giao công nghệ, đưa các kết quả nghiên cứu áp dụng vào thực tiễn sản xuất kinh doanh. Đây là một phần không thể thiếu trong công tác NCKH, song tại Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHYD TP.HCM) hoạt động này vẫn chưa được nhà trường quan tâm. Vì vậy cần phải xây dựng một nền văn hóa SHTT, một quy chế về SHTT trong ĐHYD TP.HCM. Xuất phát từ những lý do đó nên học viên chọn đề tài “Quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học theo pháp luật sở hữu trí tuệ từ thực tiễn Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài Luận văn cao học. 1 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Liên quan đến quyền tác giả, Việt Nam đã có không ít đề tài nghiên cứu khoa hoc, luận văn thạc sĩ, bài viết nghiên cứu thể hiện qua các công trình như sau: - Luận văn thạc sĩ “ Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc giải quyết tranh chấp về quyền tác giả ở Việt Nam’, của tác giả Châu Huy Quang, Tp. Hồ Chí Minh, 2003. - Luận văn thạc sĩ “ Bảo hộ quyền tác giả trong hợp đồng sử dụng tác phẩm theo pháp luật Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Hoàng Giao, 2004. - Luận văn thạc sĩ “Nâng cao hiệu quả thực thi quyền liên quan đến quyền tác giả tại Việt Nam”, của tác giả Trương Thế Hào Kiệt, 2007. - Luận văn thạc sĩ “Bảo hộ quyền tác giả của tổ chức phát sóng truyền hình theo pháp luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.”, của tác giả Phạm Như Gái 2011 - Luận văn thạc sĩ “ Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc được khai thác trên tàu bay.” của tác giả Nguyễn Thị Hà Linh 2012 - Luận văn thạc sĩ “Giới hạn quyền tác giả theo hiệp định TRIPs và pháp luật Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Nga, 2012. - Luận văn thạc sĩ “ Pháp luật về quyền tác giả ở Việt Nam thực trạng và hướng hoàn thiện”, của tác giả Phạm Hùng,, 2012. Các đề tài NCKH - Bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan ở Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, Vũ Thị Hải Yến chủ nhiệm đề tài, Hà Nội, 2010. - Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường số tại Việt Nam, Viện Công nghệ phần mềm và Nội dung số Việt Nam, Tp. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, 2014. - Quyền tác giả trong hoạt động thư viện tại các trường đại học, TS. Lê Thị Nam Giang, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, 2016. Tuy nhiên, trên đây là những công trình, bài viết tiếp cận từ góc độ nghiên cứu chung về quyền tác giả, hoặc nghiên cứu QTG dưới góc độ khác, chưa có công 2 trình nào nghiên cứu QTG dưới góc độ đối với công trình NCKH trong trường đại học chính vì vậy, đề tài “Quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học theo pháp luật sở hữu trí tuệ từ thực tiễn Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.” là đề tài tiếp cận từ đặc điểm thực tiễn ĐHYD TP.HCM để từ đó đưa ra định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật QTG đối với công trình NCKH Việt Nam nói chung và công trình NCKH ở ĐHYD TP.HCM nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục tiêu của Luận văn là xác định phương hướng và giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về QTG đối với công trình NCKH tại ĐHYD TP.HCM. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về quyền tác giả đối với công trình NCKH và cơ sở pháp luật của Việt Nam bảo hộ quyền này. Luận văn đánh giá thực trạng pháp luật về quyền tác giả đối với công trình NCKH tại ĐHYD TP.HCM. Trên cơ sở thực trạng nói trên Luận văn đề xuất phương hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về QTG đối với công trình NCKH nói chung, tại ĐHYD TP.HCM nói riêng. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu, phân tích, đánh giá pháp luật về QTG đối với công trình NCKH thông qua thực tiễn tại ĐHYD TP.HCM 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu pháp luật bảo hộ QTG đối với công trình NCKH mà không bao gồm các đối tượng khác của QTG Luận văn giới hạn đánh giá thực trạng pháp luật thông qua thực tiễn bảo hộ QTG đối với các công trình NCKH tại ĐHYD Tp.HCM từ khi luật SHTT có hiệu lực. 3 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn sử dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật làm phương pháp luận nghiên cứu về QTG đối với công trình NCKH. - Để đạt được mục đích nghiên cứu, thì các phương pháp NCKH chuyên ngành đều được áp dụng như: phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, phương pháp điều tra… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Hệ thống hóa lý luận chung về QTG đối với công trình NCKH. Qua thực trạng về QTG đối với công trình NCKH tại Đại học Y Dược Tp.HCM đưa ra kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả về QTG đối với công trình NCKH 7. Cơ cấu của luận văn Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu luận văn có cơ cấu gồm: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung có 3 chương : - Chương 1: Những vấn đề pháp lý về quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học. - Chương 2: Thực trạng quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học qua thực tiễn tại Đại học Y Dược TP.HCM. - Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học. 4 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 1.1. Khái niệm và đặc điểm quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học 1.1.1. Khái niệm quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học Quyền tác giả (QTG) hiểu một cách đơn giản là những quyền mà pháp luật thừa nhận và bảo hộ đối với tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả (CSH QTG) cũng như các chủ thể khác được phép sử dụng các công trình NCKH. QTG cho phép các chủ thể quyền được độc quyền khai thác các công trình NCKH chống lại việc sao chép bất hợp pháp. Ví dụ, tác giả đồng thời là CSH một công trình NCKH được làm chủ thành quả lao động trí tuệ của mình, được bảo đảm quyền nhân thân, độc quyền công bố, xuất bản công trình NCKH của mình. Việc sao chép, phổ biến nội dung của công trình NCKH mà không có sự đồng ý của tác giả đồng thời là CSH QTG là xâm phạm QTG.[31 tr.49] Quyền tác giả là độc quyền của tác giả, của CSH QTG đối với công trình NCKH của mình. QTG là quyền mà pháp luật cho phép người đã sáng tạo ra công trình NCKH dùng để bảo vệ các sáng tạo của mình. Quyền này bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả, CSH QTG trong mối liên quan với công trình NCKH này. QTG thông thường chỉ được công nhận khi sáng tạo này mới, có một phần công lao của tác giả và có thể chỉ ra được là có tính chất duy nhất [50]. QTG không cần phải đăng ký, tự động phát sinh từ thời điểm công trình NCKH được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định, bất kể công trình NCKH đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký và thuộc về tác giả khi công trình NCKH được ghi giữ lại ít nhất một lần trên một phương tiện lưu trữ. (việc đăng ký công trình NCKH theo thủ tục luật định không có giá trị thiết lập, chỉ có giá trị làm giảm nhẹ nghĩa vụ chứng minh của người đăng ký công trình NCKH trong trường hợp có tranh chấp, nếu không có chứng cứ ngược trở lại). 5 Quyền tác giả là một trong các nội dung của quyền SHTT, là một chế định tương đối quan trọng. Việc quy định và hoàn thiện hơn QTG hiện nay là việc làm cần thiết thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với hoạt động sáng tạo khoa học ngay trong Điều 62 Hiến Pháp 2013 đã khẳng định cho thấy sự quan tâm của nhà nước đối với hoạt động SHTT nói chung QTG nói riêng. Đối tượng của QTG là những công trình NCKH - thành quả lao động trí óc. Trong thời đại mà sự phát triển bùng nổ như vũ bão về hoạt động công nghệ thông tin, thì các phương tiện truyền thông đa dạng trở thành công cụ chủ yếu để chuyển tải kiến thức, thành tựu đến khắp nơi trên thế giới đây là vấn đề khó khăn, phức tạp trong công tác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người sáng tạo và tạo điều kiện khuyến khích cho hoạt động NCKH. QTG là một quyền năng rất quan trọng có liên quan thiết thực đến lợi ích của những người sáng tạo khoa học nói riêng và tác động đến cả xã hội nói chung.[2],[20] Luật SHTT khoản 2 Điều 4 Luật SHTT quy định: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”, tại điều 18 quy định: “Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm”, (tác phẩm trong luận văn là công trình NCKH) của chủ thể với tư cách là tác giả hoặc CSH QTG. Như vậy, QTG được trao cho, nếu chủ thể là cá nhân thì có thể đóng vai trò là tác giả hoặc CSH hoặc cả hai. Còn chủ thể là tổ chức thì có QTG với tư cách là CSH [24, tr.18]. Với điều kiện công trình NCKH là sự tư duy độc lập, là hệ thống ý tưởng và cụ thể hóa ý tưởng dưới hình thức nhất định. Luật bảo vệ những ý tưởng được vật chất hóa, những hành vi sáng tạo xuất phát từ ý tưởng của kết quả nghiên cứu đó cũng được thừa nhận. Pháp luật về QTG bảo vệ sự thể hiện kết quả nghiên cứu, không bảo vệ những ý tưởng. Quyền tác giả là quyền dân sự cụ thể (quyền tài sản và quyền nhân thân) của chủ thể quyền đối với công trình NCKH. Công trình NCKH được sáng tạo ra thể hiện dưới hình thức khách quan và được các quy phạm pháp luật điều chỉnh, theo đó quan hệ về QTG được xác lập. 6 Một là, chủ thể của QTG (có thể là một cá nhân hay tập thể tác giả) là người trực tiếp sáng tạo toàn bộ hoặc một phần công trình NCKH và CSH QTG có những quyền nhất định đối với công trình NCKH khi đã được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định. Hai là, đối tượng của QTG là các công trình NCKH do tác giả sáng tạo ra bằng lao động trí tuệ. Ba là, nội dung QTG là tổng hợp các quyền nhân thân và quyền tài sản của các chủ thể quyền. Các quyền này phát sinh từ khi công trình NCKH đó được pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Vậy, Quyền tác giả đối với công trình NCKH là tập hợp các quyền được pháp luật thừa nhận gồm quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, CSH QTG hoặc chủ thể được phép sử dụng công trình NCKH do mình sáng tạo hoặc sở hữu và được định hình dưới dạng vật chất nhất định không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký bảo hộ hoặc đã công bố hay chưa công bố. 1.1.2. Đặc điểm quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học Ngoài các đặc điểm chung của quyền SHTT là tính lãnh thổ triệt để, tính vô hình cũng như tính hữu hạn trong thời hạn bảo hộ của quyền tài sản này, QTG đối với các công trình NCKH còn những đặc điểm riêng sau: Quyền tác giả chỉ được công nhận khi công trình NCKH là sản phẩm của lao động trí tuệ, sáng tạo mới, có một phần công lao của tác giả (không đơn thuần chỉ là sao chép từ các nguồn đã biết) và có tính chất duy nhất. Đối tượng của QTG là công trình NCKH phải là sự sáng tạo, luôn mang tính sáng tạo trực tiếp từ con người cụ thể mang dấu ấn cá nhân thông qua hoạt động trí não, kinh nghiệm bản thân và các yếu tố hổ trợ khác tạo ra thành quả chính là công trình NCKH và được thể hiện dưới hình thức nhất định. Mọi cá nhân đều có quyền sáng tạo khoa học và khi cá nhân tạo ra công trình NCKH đó phải do tác giả trực tiếp thực hiện hoạt động lao động trí tuệ của mình mà không phải sao chép từ công trình NCKH của người khác, ( khoản 3 điều 14 luật SHTT). Cá nhân làm các công việc hỗ trợ đóng góp ý kiến hoặc cung cấp phương tiện kỹ thuật, tư liệu, cung cấp tài chính, đưa ra ý tưởng để người khác sáng tạo không phải là tác giả. 7 Quyền tác giả có thể bị giới hạn về thời gian theo quy định của pháp luật như: quyền công bố, phổ biến công trình NCKH cũng như quyền cho người khác hoặc không cho người khác sử dụng công trình NCKH của tác giả đồng thời là CSH QTG đối với công trình NCKH và chỉ được bảo hộ trong thời hạn suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết. QTG có thể bị giới hạn về không gian, một công trình NCKH có thể được bảo hộ ở nước ngoài, nhưng không được bảo hộ ở Việt Nam vì không đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ theo pháp luật Việt Nam (PLVN), hoặc ngược lại, một công trình NCKH có thể được bảo hộ ở Việt Nam, nhưng không được bảo hộ ở nước ngoài vì không đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ theo pháp luật nước ngoài. QTG có thể bị giới hạn về phạm vi như quyền của tác giả đồng thời là CSH QTG có thể bị giới hạn trong trường hợp người khác sử dụng công trình NCKH nhằm mục đích trích dẫn để bình luận hoặc minh họa trong nghiên cứu của họ mà không làm sai lệch ý của tác giả. QTG có thể không được thừa nhận, bảo hộ đối với một số công trình NCKH vi phạm đạo đức, trật tự công cộng…[7, tr. 47- 48] Phải đảm bảo tính nguyên gốc điều đó không có nghĩa là đòi hỏi ý tưởng của công trình NCKH phải mới mà là hình thức thể hiện của ý tưởng phải do chính tác giả sáng tạo ra. Tính nguyên gốc không có nghĩa là không có tính kế thừa [26, tr. 50] nhưng mang đặc trưng riêng biệt có tính sáng tạo với tính cách riêng của tác giả là công trình nghiên cứu được tác giả sáng tạo độc lập. Quyền tác giả thiên về việc bảo hộ hình thức thể hiện công trình NCKH. Pháp luật về QTG chỉ bảo hộ hình thức chứa đựng công trình NCKH khi nó được tạo ra và thể hiện dưới hình thức nhất định, mà không bảo hộ ý tưởng sáng tạo khoa học, không bảo hộ nội dung ý nghĩa gíá trị của ý tưởng khoa học. Sự định hình của một công trình NCKH được hiểu là khi công trình NCKH xác nhập trên một đối tượng vật chất nào đó, ở trạng thái đủ ổn định hoặc bền vững để có thể nhận biết trực tiếp, thông qua các giác quan của con người hoặc gián tiếp thông qua máy móc thiết bị hỗ trợ mà con người có thể sao chép, nhân bản công trình NCKH và truyền đạt cho người khác [7, tr.32]. 8 Hình thức xác lập quyền theo cơ chế bảo hộ tự động. QTG được xác lập dựa vào chính hành vi tạo ra công trình NCKH của tác giả, không phụ thuộc vào thể thức, thủ tục nào. QTG không được bảo hộ một cách tuyệt đối mà có giới hạn. Chủ thể khác được phép sử dụng công trình NCKH được bảo hộ nếu việc sử dụng đó không nhằm mục đích kinh doanh, không ảnh hưởng đến việc sử dụng, khai thác bình thường của công trình NCKH, không xâm hại đến các quyền, lợi ích hợp pháp khác của tác giả và CSH QTG [45]. 1.2. Hình thức và tiêu chí xác lập quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học 1.2.1. Hình thức xác lập quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học Quyền tác giả được xác lập một cách tự động nghĩa là QTG được phát sinh một cách mặc nhiên từ thời điểm công trình NCKH đó được thể hiện dưới hình thức khách quan mà người khác có thể nhận biết được mà không phụ thuộc vào bất kỳ thủ tục đăng ký nào. QTG được bảo hộ tự động bất chấp các yếu tố chất lượng hay giá trị của một công trình NCKH, ví dụ như: một công trình NCKH của sinh viên được bảo hộ QTG đầy đủ và cũng không cần đáp ứng bất kỳ tiêu chuẩn nào về độ chính xác hay số điểm của công trình nghiên cứu đó. Về nguyên tắc, nhà nước bảo hộ các công trình NCKH mà không có sự phân biệt về hình thức, ngôn ngữ thể hiện của công trình NCKH và cũng không có sự phân biệt về chất lượng, giá trị và mục đích sử dụng của công trình NCKH đó, giá trị hoặc ý nghĩa khoa học của công trình NCKH được đánh giá theo cách chủ quan của mỗi cá nhân, có thể có sự khác biệt giữa những người đánh giá và ngay cả đối với một người thì sự đánh giá đó cũng có thể thay đổi theo thời gian hoàn cảnh khách quan, trạng thái tâm lý. Vì Quyền tác giả được pháp luật bảo vệ ngay từ khi công trình NCKH hình thành dù có đăng ký hay không đăng ký, điều đó có nghĩa là công trình NCKH không đăng ký bảo hộ và có đăng ký bảo hộ đều có cơ chế bảo hộ giống nhau. Do việc thực thi QTG ở Việt Nam trong thời gian qua chưa có hiệu quả, có rất nhiều 9 trường hợp công trình NCKH bị chiếm đoạt, khó khăn trong việc xác định CSH QTG thực sự, nên việc đăng ký QTG hiện nay được coi là một cơ chế hỗ trợ không bắt buộc để bảo vệ QTG, nghĩa là CSH QTG có thể lựa chọn việc đăng ký, điều này không ảnh hưởng đến quyền được bảo hộ của CSH QTG. Việc đăng ký chỉ mang ý nghĩa xác nhận đối với công trình NCKH, chứ không có ý nghĩa chứng minh QTG thuộc về người đăng ký, người đứng tên trong Giấy chứng nhận, vì nếu có cá nhân, tổ chức khác có bằng chứng, chứng minh được việc người đã đăng kí đứng tên không phải CSH QTG, thì người đăng ký, đứng tên đó cũng không được bảo hộ QTG đối với công trình NCKH. CSH QTG có thể đăng ký bảo hộ QTG tại cục bản quyền, dù không bắt buộc thì vẫn nên đăng ký bảo hộ. Trong trường hợp khi phát sinh tranh chấp QTG, tác giả, CSH QTG phải có nghĩa vụ chứng minh quyền của mình đối với công trình NCKH đó, tức phải cung cấp các tài liệu, chứng cứ, chứng minh quyền sở hữu hợp pháp của mình. Văn bằng bảo hộ QTG là một căn cứ hợp pháp, là cơ sở tốt nhất, là bằng chứng rõ ràng nhất chứng minh quyền sở hữu của tác giả, của CSH QTG đối với công trình NCKH mà họ sáng tạo ra hoặc sở hữu. Tại khoản 1 điều 49 luật SHTT quy định: “ Đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan là việc tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan nộp đơn và hồ sơ kèm theo (sau đây gọi chung là đơn) cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để ghi nhận các thông tin về tác giả, tác phẩm, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan”. Việc QTG được bảo hộ hay không, không phụ thuộc vào việc nộp đơn. Công trình NCKH được bảo hộ kể từ thời điểm được định hình. Hơn nữa, thủ tục đăng ký QTG không quá phức tạp và chi phí nhỏ so với lợi ích thiết thực mang lại. Do vậy, khi sáng tạo ra công trình NCKH, đặc biệt các công trình NCKH có giá trị kinh tế, thương mại cao, có nhiều khả năng bị xâm phạm, thủ tục nộp đơn đăng kí là cần thiết. 1.2.2. Tiêu chí xác lập quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học Để được bảo hộ QTG, công trình NCKH phải có tính nguyên gốc. Khái niệm “nguyên gốc” là khái niệm rất quan trọng nhưng không được quy định cụ thể trong 10 luật mà được hiểu tính nguyên gốc liên quan đến hình thức thể hiện ý tưởng chứ không liên quan đến bản thân ý tưởng hay ý nghĩa bên trong nó. Tính nguyên gốc có nghĩa là công trình NCKH được sáng tạo ra một cách độc lập, trực tiếp từ lao động tri thức, thể hiện phong cách riêng của tác giả và không sao chép từ bất kỳ một công trình NCKH nào khác. Việc bảo hộ QTG chỉ được áp dụng đối với những đóng góp mang tính nguyên gốc của công trình NCKH và không được áp dụng với bất cứ yếu tố nào vay mượn từ công trình NCKH khác.Việc phân định công trình NCKH gốc thì chính tác giả hoặc người có chuyên môn sâu về lĩnh vực liên quan mới có thể thực hiện được. Để được bảo hộ QTG, công trình NCKH phải được định hình dưới một dạng vật chất nhất định, bất chấp các yếu tố sáng tạo của chúng, chất lượng hay giá trị khoa học. Công trình NCKH không được bảo hộ dưới dạng ý tưởng chỉ bảo hộ cách thức thể hiện ý tưởng dưới một dạng cụ thể (khoản 1 điều 6 luật SHTT) mà thông qua đó công chúng biết đến sự tồn tại của các công trình NCKH đó bằng hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp. 1.3. Nội dung và thực thi quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học 1.3.1. Nội dung Quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học Nội dung QTG bao gồm các quyền của các chủ thể như tác giả, CSH QTG và các chủ thể được phép khai thác quyền tác giả. QTG đối với công trình NCKH là một tập hợp các quyền của các chủ thể quyền đối với công trình NCKH do họ sáng tạo ra hoặc sở hữu, các quyền này được pháp luật bảo hộ và thừa nhận gồm: quyền nhân thân được quy định tại điều 19 Luật SHTT, Điều 22 Nghị định 100/2006/NĐ – CP và quyền tài sản được quy định tại điều 20 Luật SHTT, Điều 23 Nghị định số 100/2006/NĐ – CP . Quyền nhân thân gồm có quyền nhân thân không gắn liền với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản là những quyền gắn liền với các giá trị nhân thân của tác giả và không thể chuyển giao không thể thừa kế và được bảo hộ vô thời hạn, thậm chí, có hệ thống pháp luật còn 11 quy định những quyền này không thể khước từ được, chỉ có tác giả mới có đặc quyền này cho dù tác giả đồng thời hoặc không đồng thời là CSH QTG, bao gồm các quyền: Một là, quyền được đặt tên công trình NCKH, có ý nghĩa trong việc cá biệt hóa công trình NCKH thông qua đó thường phản ảnh nội dung ý tưởng của tác giả giúp công chúng dễ dàng tiếp cận với ý đồ của tác giả trong công trình NCKH và không có ý nghĩa pháp lý với việc bảo hộ QTG vì công trình NCKH có thể bảo hộ khi nó không có tên và quyền đặt tên không áp dụng cho trường hợp tác giả dịch công trình NCKH từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Quyền đặt tên cho công trình NCKH là quyền nhân thân chỉ thuộc về tác giả của công trình NCKH kể cả khi tác giả sáng tạo ra công trình NCKH theo nhiệm vụ được giao hay theo hợp đồng. Hai là, đứng tên tác giả trong công trình NCKH khoa học. Nếu như ví công trình NCKH là đứa con tinh thần của tác giả thì các quyền nhân thân này cũng tương tự quyền của cha mẹ được đặt tên cho con, nhận con và bảo vệ con cái. Để khẳng định công trình NCKH là kết quả hoạt động sáng tạo của mình tác giả thường đứng tên trên công trình NCKH đó (có thể dùng tên thật hoặc bút danh). Việc ghi tên trên công trình NCKH được công bố có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định chủ thể được hưởng các quyền nhân thân và quyền tài sản đối với công trình NCKH. Kể cả trong trường hợp tác giả không đề tên thật hoặc bút danh trên công trình NCKH đã được công bố ( khuyết danh) thì quyền này vẫn thuộc về tác giả và tác giả có thể chứng minh tư cách chủ thể của mình bất cứ thời điểm nào. Tác giả có quyền yêu cầu được nêu tên hoặc bút danh khi công trình NCKH được sử dụng [ 5, tr.34]. Quyền nhân thân không gắn liền với tài sản ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín và danh dự của tác giả, tồn tại một cách độc lập đối với quyền tài sản, gắn liền với tác giả kể cả khi quyền sử dụng, định đoạt công trình NCKH đã được chuyển giao. Sau khi tác giả chết, việc bảo vệ các quyền này được thực hiện thông qua Nhà nước hoặc cộng đồng nhân dân. (điều 27 luật SHTT và điều 26 Nghị định số100/2006/NĐ-CP). 12 Ba là, quyền công bố công trình NCKH hoặc cho phép người khác công bố công trình NCKH đây là quyền nhân thân duy nhất gắn với các quyền tài sản và có thể chuyển giao quy định tại khoản 3 điều 19 luật SHTT. Thực chất, quyền này không hoàn toàn là quyền nhân thân mà là quyền tài sản, vì thông qua việc công bố công trình NCKH của mình, tác giả thu được những lợi ích kinh tế nhất định.Vì vậy, quyền này thuộc về tác giả, nếu tác giả đồng thời là CSH QTG và thuộc về CSH QTG, nếu tác giả không đồng thời là CSH QTG và quyền này chỉ đươc bảo hộ có thời hạn trong suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết, có thể được chuyển giao và có thể được thừa kế. Tuy nhiên, quyền được nhận giải thưởng đối với công trình NCKH của mình không chỉ mang ý nghĩa vật chất, mà cả yếu tố tinh thần trong đó yếu tố tinh thần nổi trội hơn, vì vậy quyền này thuộc về tác giả đồng thời hay không đồng thời là CSH QTG [7, tr.51]. Bốn là, quyền bảo vệ sự toàn vẹn của công trình NCKH, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc công trình NCKH dưới bất kì hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả, bảo vệ sự toàn vẹn công trình NCKH tránh bị sai lệch nội dung kể cả việc làm tăng giá trị công trình NCKH. Trong các quyền nhân thân không thể chuyển giao thì quyền bảo vệ sự toàn vẹn của công trình NCKH được coi là quan trọng nhất và trong thực tiễn nó cũng thường bị xâm phạm nhất. Công trình NCKH là một thể thống nhất thể hiện nội dung, tư tưởng của tác giả vì vậy, việc sửa chữa, cắt xén công trình NCKH dưới bất kỳ hình thức nào có thể làm ảnh hưởng đến giá trị nội dung cũng như giá trị khoa học của công trình NCKH, làm sai lệch, thậm chí bóp méo tư tưởng, chủ ý mà tác giả muốn thể hiện trong công trình NCKH của họ. Vì vậy, không có chủ thể nào khác ngoài tác giả có quyền thay đổi nội dung của công trình NCKH kể cả trong trường hợp việc thay đổi nhằm làm tăng giá trị khoa học, giá trị thực tiễn của công trình NCKH, trừ trường hợp tác giả cho phép.Tuy nhiên, cũng cần lưu ý một số ngoại lệ của quyền này: -Trường hợp trích dẫn hợp lý các công trình NCKH vì mục đích giảng dạy, NCKH không bị coi là xâm phạm quyền bảo vệ sự toàn vẹn của công trình NCKH. 13 - Trường hợp sau khi công trình NCKH được công bố, những người khác làm phái sinh, có những thay đổi, sáng tạo mới về nội dung, hình thức thể hiện hay truyền đạt so với ban đầu cũng không được coi là xâm phạm quyền bảo vệ sự vẹn toàn của công trình NCKH [5,tr.35],[45]. Cụm từ “gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả” tại khoản 4 Điều 19 Luật SHTT có thể làm cho quyền bảo vệ sự toàn vẹn của công trình NCKH được hiểu là nếu một người thực hiện hành vi sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc công trình NCKH của người khác nhưng lại chứng minh được là hành vi đó không gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả hoặc chứng minh là hành vi đó đã làm cho công trình NCKH có giá trị hơn thì không vi phạm. Để tránh việc hiểu như vừa phân tích thì tại khoản 3 điều 22 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP đã quy định: “Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén tác phẩm quy định tại khoản 4 điều 19 của Luật SHTT là việc không cho người khác sửa chữa, cắt xén tác phẩm trừ trường hợp có thỏa thuận với tác giả”. Quyền tài sản của tác giả tại điều 20 Luật SHTT là một bộ phận của QTG. Quyền tài sản là tập hợp các quyền nhằm bảo vệ lợi ích được khai thác, tham gia vào quá trình sử dụng và khai thác các giá trị kinh tế công trình NCKH của tác giả.Trong trường hợp tác giả đồng thời là CSH QTG, thì phạm vi các quyền tài sản của tác giả sẽ rộng hơn so với trường hợp tác giả không đồng thời là CSH QTG. Các quyền tài sản của tác giả đồng thời là CSH QTG có thể chuyển giao cho người khác thông qua các giao dịch pháp lý hoặc thông qua thừa kế và có thể bị tịch biên để thi hành nghĩa vụ. Các quyền tài sản này đều được bảo hộ có thời hạn (trong thời gian tác giả còn sống và 50 năm sau khi tác giả chết). Tác giả đồng thời là CSH QTG được độc quyền sử dụng các công trình NCKH của mình, được cấm mọi hành vi sử dụng công trình NCKH của mình thông qua người thứ ba. Điều này cũng có nghĩa tác giả đồng thời là CSH QTG là người có quyền cho phép người khác sử dụng công trình NCKH của mình và hưởng lợi ích phân chia từ việc cho người khác sử dụng công trình NCKH đó và thường được thực hiện thông qua hình thức hợp đồng sử dụng công trình NCKH. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan