LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đến nay,
các quan hệ thương mại quốc tế giữa thương nhân trong nước và thương nhân nước
ngoài được thiết lập ngày càng nhiều và tỷ lệ thuận với nó là số lượng hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế tăng lên nhanh chóng. Và nhà nước ta cũng đã thay đổi
pháp luật để phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay. Các doanh nghiệp cũng đã chú
trọng hơn trong việc nẵm vững pháp luật, để tránh được những rủi ro không đáng
có.Tuy nhiên,các chủ thể này có hay chăng thì cũng chỉ biết về pháp luật trong
nước mà thôi. Chính vì thế mà tồn tại một thực tế là còn khá nhiều thương nhân
trong nước tỏ ra lúng túng khi tham gia đàm phán, ký kết các hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế, điều này xuất phát từ việc chưa nắm và hiểu rõ các vấn đề liên
quan đến luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Mà hầu hết các
quốc gia hiện nay khi tham gia kí kết gia nhập Công ước Viên, hoặc các hợp đồng
mua bán quốc tế này sẽ đều chọn Công ước Viên là luật áp dụng, mà Việt Nam
chưa gia nhập Công ước Viên nên cần phải hiểu rõ hơn về những quy định của
Luật thương mại Việt Nam 2005 và Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa
quốc tế để từ đó có thể áp dụng đúng luật, tránh tổn hại không đáng có xảy ra.
Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Quyền và nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng
mua bán hàng hóa theo Luật thương mại Việt Nam 2005 và Công ước Viên
1980 về mua bán hàng hóa quốc tế”.
1
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
I. Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa theo công ước Viên 1980 về mua
bán hàng hóa quốc tế
Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG)
được soạn thảo bởi Ủy ban của Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại quốc tế
(UNCITRAL) trong một nỗ lực hướng tới việc thống nhất nguồn luật áp dụng cho
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Vì vậy đối tượng điều chỉnh của Công ước
này là các quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế. Tuy nhiên, Công ước này lại không
quy định thế nào là hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế. Nhưng ta có thể hiểu
hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế là hoạt động của các bên có trụ sở thương mại
tại các quốc gia khác nhau tiến hành mua bán hàng hóa theo đó bên bán giao hàng
và chứng từ liên quan đến hàng hóa còn người mua thì nhận hàng.
-
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hình thức thể hiện hoạt động mua bán
hàng hóa quốc tế. Tuy nhiên, cũng như “hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế”,
Công ước Viên 1980 cũng không quy định trực tiếp về hợp đồng mua bán mà chỉ
quy định gián tiếp khi quy định tại điều 1 Công Ước Viên: “Công ước này áp dụng
cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các
quốc gia khác nhau.” Như vậy có thể hiểu hợp đồng hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế là sự thoả thuận ý chí giữa các thương nhân có trụ sở thương mại đặt tại
các quốc gia khác nhau, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở
hữu hàng hoá cho một bên kia và nhận thanh toán; còn bên mua thì có nghĩa vụ
thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận.
Theo quy định tại điều 1 của công ước này, có thể thấy rằng chủ thể tham gia
hợp đồng mua bán hàng hóa là các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác
2
nhau và các quốc gia này là quốc gia thành viên của công ước hoặc theo các quy
tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật của các nước thành viên công ước
này. Như vậy không phải chủ thể nào cũng là chủ thể của hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế theo công ước Viên. Công ước này chỉ điều chỉnh các hoạt đồng mua
bán hàng hóa mà các chủ thể tham gia là các chủ thể có trụ sở thương mại tại các
quốc gia khác nhau. Theo khoản 3 điều 1 Công ước Viên quy định “Quốc tịch của
các bên, quy chế dân sự hoặc thương mại của họ, tính chất dân sự hay thương mại
của hợp đồng không được xét tới khi xác định phạm vi áp dụng của Công ước
này.” Như vậy theo Công ước Viên, tính quốc tế không phụ thuộc vào quốc tịch
của các bên, cũng như quy chế dân sự hay thương mại của họ mà Công ước này chỉ
quan tâm tới trụ sở thương mại của họ có tại các quốc gia khác nhau hay không mà
thôi. Trong trường hợp các chủ thể không có trụ sở thương mại thì tính quốc tế ở
đây dựa vào nơi cư trú của chủ thể đó. dù người mua và người bán có quốc tịch
khác nhau, nhưng nếu việc mua bán được thực hiện trên lãnh thổ của cùng một
quốc gia thì hợp đồng mua bán cũng không mang tính chất quốc tế.
Đối tượng của hợp đồng là hàng hóa. Hàng hóa ở đây có thể hiểu là tài sản mà
các bên đưa ra buôn bán trao đổi với nhau nhằm mục đích thương mại và được
chuyển hoặc sẽ được chuyển từ nước này sang nước khác. Nhưng không phải tất cả
các loại hàng hóa trên đều là đối tượng của hợp đông mà thuộc phạm vi điều chỉnh
của Công ước Viên. Điều 3 quy định Công ước này không áp dụng vào việc mua
bán:
“a. Các hàng hóa dùng cho cá nhân, gia đình hoặc nội trợ, ngoại trừ khi
người bán, vào bất cứ lúc nào trong thời gian trước hoặc vào thời điểm ký kết hợp
đồng, không biết hoặc không cần phải biết rằng hàng hóa đã được mua để sử dụng
như thế.
3
b. Bán đấu giá.
c. Ðể thi hành luật hoặc văn kiện uỷ thác khác theo luật.
d. Các cổ phiếu, cổ phần, chứng khoán đầu tư, các chứng từ lưu thông hoặc
tiền tệ.
e. Tàu thủy, máy bay và các chạy trên đệm không khí.
f. Ðiện năng.”
II. Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật thương mại Việt Nam
2005
Luật thương mại Việt Nam 2005 được Quốc hội thông qua trong kì họp thứ 7
ngày 14 tháng 6 năm 2006. Đó là luật điều chỉnh các hoạt động thương mại được
thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam. Trong đó, Luật thương mại cũng đã có quy định
cụ thể về hoạt động mua bán hàng hóa được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam.
Thế nào là hoạt động mua bán hàng hóa ?. Luật thương mại Việt Nam có quy
định về hoạt động thương mại và mua bán hàng hóa. Đó là khoản 1 điều 3 quy
định “hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi khác” và khoản 8 điều 3 luật thương mại quy định: “Mua
bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng,
chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên bán có nghĩa
vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận”.
Trong đó theo các phương thức nào đó mà các bên đã thỏa thuận thì bên bán tiến
hành giao hàng, chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh
toán, còn bên mua sẽ thanh toán cho bên mua, nhận hàng và quyền sở hữu hàng
4
hóa. Hoạt động này là nhằm mục đích sinh lợi. Đây cũng là điểm khác biệt với các
giao dịch dân sự. Các chủ thể tham gia giao dịch dân sự để nhằm mục đích sử dụng
của mình.
Luật thương mại không quy định thế nào là hợp đồng mua bán hàng hóa
nhưng dựa quy định về hoạt động mua bán hàng hóa và theo quy định tại điều 388
BLDSVN 2005 quy định: “Hợp đồng dân là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” thì ta có thể hiểu hợp đồng
mua bán hàng hóa là hợp đồng do các chủ thể kí kết để tiến hành hoạt động thương
mại của mình. Nội dung chính của hợp đồng là quy định về nghĩa vụ giao hàng,
chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua, đồng thời họ có quyền nhận thanh
toán từ bên mua. Còn bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền, và có quyền nhận hàng
và quyền sở hữu hàng hóa từ bên mua. Điều 24 Luật thương mại quy định hình
thức của hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản
hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
Điều 2 Luật thương mại quy định chủ thể tham gia là các thương nhân hoạt
động thương mại, tổ chức cá nhân hoạt động liên quan đến thương mại.Trong đó
điều 6 quy định thương nhân bao gồm các tổ chức kinh tế được thành lập hợp
pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí
kinh doanh. Ngoài ra, điều 16 quy định về thương nhân nước ngoài hoạt động tại
Việt Nam cung là chủ thể tham gia hợp đồng; “thương nhân nước ngoài là thương
nhân được thành lập, đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nước ngoài
hoặc được pháp luật nước ngoài công nhận”. Công ước Viên chỉ điều chỉnh các
hợp đồng mà các chủ thể tham gia có trụ sở tại các quốc gia khác nhau, yếu tố
quốc tịch không được xét đến.Còn Luật thương mại quy định yếu tố quốc tịch của
các chủ thể là yếu tố xác định hợp đồng hàng hóa đó có tính chất quốc tế hay
không.
5
Đối tượng của hợp đồng là hàng hóa. Theo khoản 2 điều 3 LTM quy định hàng
hóa bao gồm tất cả các loại động hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, kể cả động
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tếản hình thành trong tương lai; và những vật
gắn liền với đất đai.LTM quy định mang tính chất liệt kê thế nào được coi là hàng
hóa. Công ước Viên chỉ quy định các trường hợp các đối tượng hàng hóa không
thuộc đối tượng mà công ước Viên điều chỉnh. Đó là các trường hợp được quy định
tại điều 2 của Công ước Viên.
6
CHƯƠNG II: QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BÁN TRONG HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA THEO CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 VÀ THEO
LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 2005
I.
Quyền và nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa
theo công ước Viên 1980
1.
Sự hình thành và phát triển của công ước Viên 1980
Cùng với sự phát triển kinh tế, các quan hệ giao lưu buôn bán diễn ra ngày càng
nhiều. Các tập đoàn kinh tế không chỉ hoạt động trong thị trường trong nước mà
tiến hành đầu tư, xâm nhập thị trường của các nước khác. Vì thế mà khối lượng các
hợp đồng mua bán hàng hóa ngày càng tăng. Nhưng.trước khi Công ước Viên ra
dời thì chưa có luật quốc tế thống nhất nào điều chỉnh các hợp đồng này. Mà chỉ có
các bên tự thỏa thuận trong hợp đồng chọn luật được áp dụng, hay các bên thỏa
thuận với nhau áp dụng tập quán, thông lệ quốc tế để điều chỉnh hợp đồng đó mà
thôi. Chính vì thế, trước năm 1930, nhu cầu cần được ban hành một luật quốc tế
thống nhất để điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế. Sau một quá trình
nỗ lực, tháng tư năm 1980, một hội nghị quốc tế họp ở Viên đã ban hành Công ước
của Liên Hợp Quốc về mua bán hàng hóa quốc tế.
Sự ra đời của Công ước Viên đánh dấu sự nỗ lực trên 50 năm cố gắng thống nhất
luật điều chỉnh các quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Quá trình hình
thành Công ước Viên trải qua ba giai đoạn: giai đoạn những năm 1930; giai đoạn
1950-1963; giai đoạn 1964-1980.
Vào những năm 1930, Hội đồng quốc tế về thống nhất luật tư đã bổ nhiệm một
hội đồng các chuyên gia để thống nhất luật buon bán hàng hóa quốc tế. Nhưng năm
trước Ernst Rabel, cuộc họp tai Berlin đã đệ trình bản báo cáo tới UNIDROIT. Sau
khi xem xét bản báo cáo này, thành viên lãnh đạo của UNIDROIT được bổ nhiệm
7
cùng với các đại diện từ Pháp, Đức, Anh và hệ thống các nước Scandinavi. Các
chuyên gia của hội đồng đã hoàn thành bản dự thảo luật thống nhất mua bán hàng
hóa quốc tế đầu tiên vào năm 1935. Sau đó, bản dự thảo đã được đưa tới Chính
Phủ của các nước và lấy ý kiến của họ. Và dựa vào những ý kiến này, Hội đồng
chuẩn bị bản dự thảo thứ 2 dự kiến vào năm 1939, ngay khi chiến tranh thế giới
thứ hai xảy ra.
Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ năm 1950 đến năm 1963. Vào năm 1950, hội đồng
của UNIDROIT đã thuyết phục các chính phủ của Hà Lan tham gia cuộc họp để
xem xét nội dung của dự thảo. Cuộc họp diễn ra trong 10 ngày vào tháng 11 năm
1951 ngay sau khi cuộc họp Hague về luật tư pháp quốc tế. Ngoại trừ Nhật Bản, 20
quốc gia đại diện Tây Âu tham dự cuộc họp. Năm 1956, hội đồng chuẩn bị bản dự
thảo mới về thống nhất luật mua bán mà chính phủ Hà lan đưa tới các chính phủ và
tổ chức quốc tế khác có lợi ích liên quan để lấy ý kiến. Những lời bình này cơ sở
để hội đồng hoàn thành bản dự thảo năm 1963 để đệ trình lên hội nghị quốc tế.
Giai đoạn thứ ba là giai đoạn từ năm 1968 dến năm 1980. Năm 1966, General
Assembly của Liên Hợp Quốc đã thành lập hội đồng về luật thương mại quốc tế để
thúc đẩy quá trình thống nhất luật thương mại quốc tế. Vào kì họp thứ nhất năm
1968, hội đồng quyết định trưng cầu ý kiến của các nước với sự tôn trọng Công
ước Hague về buôn bán. Sau khi xem xét tại kì họp thứ 2 , hội đồng đã bổ nhiệm
Working Group với 14 thành viên, sau đó tăng lên 15 thành viên, để xác định có
nên sửa đổi luật thống nhất 1964 để tăng thêm sự chấp nhận tham gia của các nước
khác, hay sẽ soạn thảo ra một dự thảo hoàn toàn mới. Cuối cùng Working Group đã
quyết định soạn thảo 1 dự thảo mới. Từ năm 1970- 1978, nhóm đã làm làm việc 7
lần để xem xét nội dung của Công ước mua bán hàng hóa sẽ được soạn thảo; và
thêm vào đó là 2 lần để chuẩn bị nội dung điều chỉnh sự hình thành hợp đồng mua
bán hàng hóa. Working Group đã đệ trình một bản dự thảo mua bán tới hội đồng
8
năm 1977, và nội dung của bản dự thảo về sự hình thành đó vào năm 1978. Sau khi
danh sách các dự thảo này, hội đồng đã quyết định hợp nhất nội dung các dự thảo
này và yêu cầu tới General Assembly triệu tập cuộc họp quốc tế để xem xét nội
dung của UNCITRAL năm 1978. General Assembly đã ban hành ra lệnh triệu tập
cuộc họp quốc tế vào tháng 3-4/1980 tại trụ sở của UNCITRAL ở Viên với sự tham
gia của của 62 đại biểu của các quốc gia, đại diện cho các khu vực của cộng đồng
thế giới. Tại đây, hội nghị đã quyết định thông qua và ban hành Công ước Viên
1980 để điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế.
Hiện nay đã có rất nhiều quốc gia tham gia là thành viên cảu Công ước này. Hầu
hết các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đều được điều chỉnh bởi Công ước
này. Bởi vì hầu hết các hợp đồng này được kí kết giữa các thành viên của Công
ước, hay theo nguyên tắc của tư pháp quốc tế thì luật áp dụng là Công ước, hoặc
cũng do sự thỏa thuận của các bên chọn Công ước Viên là luật áp dụng.
2.
Quyền và nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo
công ước Viên 1980
a.
Giao hàng và chuyển giao chứng từ có liên quan:
Điều 30 CƯV quy định “Người bán có nghĩa vụ giao hàng, giao chứng từ liên
quan đến hàng hoá và chuyển giao quyền sở hữu về hàng hoá theo đúng quy định
của hợp đồng và của Công ước này”. Vì tính chất của hợp đồng là thỏa thuận ý
chí của các bên nên việc giao hàng và chuyển chứng từ được ưu tiên thực hiện
dựa trên cơ sở hợp đồng. Thông thường, khi các bên ký kết với nhau thường sẽ
thỏa thuận về địa diểm giao hàng, cách thức giao hàng, diều kiện giao hàng…
hay sẽ thỏa thuận các tập quán mà các bên đã có hay sử dụng incoterm và những
thỏa thuận này sẽ được quy định tai các điều khoản của hợp đồng. Và đây cũng là
cơ sở để các bên thực hiện hợp đồng và cũng là căn cứ cho các bên bảo vệ quyền
và lợi ích của mình khi bị xâm hại.
9
Trong trường hợp hợp đồng không quy định người bán bắt buộc phải giao hàng
tại một nơi nhất định nào đó, thì nghĩa vụ giao hàng của người này là:
“Nếu hợp đồng mua bán quy định cả việc vận chuyển hàng hoá thì người bán
phải giao hàng cho người chuyên chở đầu tiên để chuyển giao cho người
mua;quy định này áp dụng trong trường hợp hợp đồng có quy định về việc vận
chuyển. Và người bán chỉ có nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu
tiên.
nếu trong những trường hợp không dự liệu bởi điểm nói trên, mà đối tượng
của hợp đồng mua bán là hàng đặc định hoặc là hàng đồng loại phải được
trích ra từ một khối lượng dự trữ xác định hoặc phải được chế tạo hay sản xuất
ra và vào lúc ký kết hợp đồng, các bên đã biết rằng hàng đã có hay đã phải
được chế tạo hoặc sản xuất ra tại một nơi nào đó thì người bán phải có nghĩa
vụ đặt hàng dưới quyền định đoạt của người mua tại nơi đó. Đây là một địa
điểm mà người mua sẽ đặt hàng hóa dưới quyền định đoạt của người bán trong
trường hợp hợp đồng không dự liệu các điểm nói trên và hàng hóa trong hợp
đồng là hàng đồng loại hay hàng đặc định được trích ra từ một khối lượng dự
trữ.
trong các trường hợp khác, người bán có nghĩa vụ đặt hàng dưới quyền định đoạt
của người mua tại nơi nào mà người bán có trụ sở thương mại vào thời điểm ký
kết hợp đồng”. Như vậy, trong các trường hợp khác, trụ sở thương mại của
người bán vào thời điểm kí kết hợp đồng là địa điểm để người bán đặt hàng hóa
dưới quyền định đoạt của người mua.
-Về thời hạn giao hàng thì theo điều 33 Công ước này, bên bán phải giao hàng
đúng vào ngày giao hàng mà hợp đồng đã quy định, hay có thể xác định được bằng
cách tham chiếu vào hợp đồng. Nếu hợp đồng có ấn định thời khoảng thời gian
10
giao hàng hay có thể xác định khoảng thời gian đó bằng cách tham chiếu vào hợp
đồng nếu như không thể căn cứ vào các tình tiết để biết ngày giao hàng mà người
mua ấn định là ngày nào thì người bán có thể giao hàng vào bất kỳ thời điểm nào
trong khoảng thời gian đó. Còn trong trường hợp khác thì người bán giao hàng và
chứng từ trong một khoảng thời gian hợp lý sau khi ký kết hợp đồng.
Về việc chuyển giao chứng từ thì theo điều 34 quy định: “Nếu người bán phải
có nghĩa vụ phải giao các chứng từ liên quan đến hàng hoá thì họ phải thi hành
nghĩa vụ này đúng thời hạn, đúng địa điểm và đúng hình thức như quy định trong
hợp đồng. Trong trường hợp người bán giao chứng từ trước kỳ hạn, thì họ có thể,
trước khi hết thời hạn quy định sẽ giao chứng từ, loại bỏ bất kỳ điểm nào không
phù hợp với chứng từ với điều kiện là việc làm này không gây cho người mua một
trở ngại hay phí tổn vô lý nào. Tuy nhiên, người mua vẫn có quyền đòi người bán
bồi thường thiệt hại chiếu theo Công ước này”.
b.
Đảm bảo tính phù hợp của hàng hóa đối với hợp đồng và quyền của người
thứ ba.
Ngoài nghĩa vụ giao hàng và các chứng từ liên quan đến hàng hóa phù hợp với
các điều khoản của hợp đồng và phù hợp với các quy định của Công ước này thì
người bán còn có nghĩa vụ đảm bảo tính phù hợp của hàng háo đối với hợp đồng
và quyền của người thứ ba đối với hàng hóa đó. Điều 35.1 quy định “. Người bán
giao hàng đúng số lượng, phẩm chất và mô tả như quy định trong hợp đồng, và
đúng bao bì hay đóng gói như hợp đồng yêu cầu”. Tuy nhiên Công ước Viên không
quy định thế nào là hàng hóa phù hợp với hợp đồng mà chỉ đưa ra các trường hợp
hàng hóa được coi là không phù hợp với hợp đồng. Khoản 2 điều 35 Công ước này
quy định: “2. Ngoại trừ những trường hợp đã được các bên thỏa thuận khác, hàng
hóa bị coi là không phù hợp với hợp đồng nếu:
11
a. Hàng hóa không thích hợp cho các mục đích sử dụng mà các hàng hóa cùng
loại vẫn thường đáp ứng.
b. Hàng không thích hợp cho bất kỳ mục đích cụ thể nào mà người bán đã trực
tiếp hoặc gián tiếp biết được vào lúc ký hợp đồng, trừ trường hợp nếu căn cứ vào
các hoàn cảnh cụ thể có thể thấy rằng không dựa vào ý kiến hay sự phán đoán của
người bán hoặc nếu đối với họ làm như thế là không hợp lý.
c. Hàng không có các tính chất của hàng mẫu hoặc kiểu dáng mà người bán đã
cung cấp cho người mua.
d. Hàng không được đóng phong bì theo cách thông thường cho những hàng
cùng loại hoặc, nếu không có cách thông thường, thì bằng cách thích hợp để giữ
gìn và bảo vệ hàng hoá đó”. Khi tham gia ký kết các hợp đồng, các bên có thể đưa
ra các điều khoản quy định các trường hợp hàng hóa bị coi là không phù hợp với
hợp đồng. Và đương nhiên các bên chỉ cần dựa vào đó mà xem xét hàng hóa đó có
phù hợp với hợp đồng hay không. Còn trong trường hợp các bên không thỏa thuận
thì tính phù hợp của hàng hóa đối với hợp đồng sẽ được xem xét dựa trên các quy
định này của Công ước. Khi giao hàng thì người mua có nghĩa vụ phải kiểm tra
hàng hóa hoặc bảo đảm có sự kiểm tra hàng hóa trong một thời hạn ngắn nhất mà
thực tế có thể làm được tùy từng trường hợp cụ thể.
Vậy nếu người bán giao hàng không phù hợp với hợp đông thì trách nhiêm của
các bên ra sao?
Khi người bán giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng thì theo điều 36 quy
định, người bán sẽ phải chịu trách nhiệm chiếu theo hợp đồng và Công ước này
vào lúc chuyển giao quyền rủi ro cho người mua, ngay cả khi sự không phù hợp
của hàng hóa chỉ được phát hiện sau đó. Sau thời điểm chuyển giao hàng hóa nói
trên, người bán vẫn phải chịu trách nhiệm về sự không phù hợp của hàng hóa nếu
12
sự không phù hợp đó là hậu quả của việc người bán vi phạm bất cứ nghĩa vụ nào
của mình kể cả việc không thể hoàn toàn đảm bảo rằng trong một thời hạn nào đó,
hàng hóa vẫn thích hợp cho mục đích sử dụng thông thường hay mục đích cụ thể
hoặc vẫn duy trì được những tính chất hay đặc tính đã quy định. Người bán cũng
chịu trách nhiệm về mọi sự không phù hợp của hàng hóa xảy ra sau thời điểm đã
nói ở điểm trên và là hậu quả của việc người bán vi phạm bất cứ một nghĩa vụ nào
của mình.
Điều 37 quy định trong trường hợp giao hàng trước thời hạn, người bán có
quyền, cho tới trước khi hết hạn giao hàng, giao một phần hay một số lượng thiếu,
hoặc giao hàng mới thay cho hàng đã giao không phù hợp với hợp đồng, hoặc khắc
phục mọi sự không phù hợp của hàng hóa đã giao với điều kiện là việc làm đó của
người bán không gây cho người mua một trở ngại hay phí tổn vô lý nào. Tuy nhiên
người mua có quyền đòi hỏi bồi thường thiệt hại chiếu theo Công ước này.
Tuy nhiên theo quy định tại điều 39 thì người bán sẽ không phải chịu trách
nhiệm đối với sự không phù hợp của hàng hóa đối với hợp đồng nếu như người
mua không thông báo cho người bán những tin túc về việc không phù hợp đó trong
thời hạn hợp lý kể từ lúc người mua đã phát hiện ra sự không phù hợp đó. Và
khoản 2 điều này quy định trong mọi trường hợp, người mua bị mất quyền khiếu
nại về việc hàng không phù hợp với hợp đồng nếu họ không thông báo cho người
bán biết về việc đó chậm nhất trong thời hạn 2 năm kể từ ngày hàng hóa đã thực
sự được giao cho người mua trừ phi thời hạn này trái ngược với thời hạn bảo
hành quy định trong hợp đồng.
Tuy nhiên theo quy định tại điều 40 thì người bán không có quyền viện dẫn các
quy định của các điều 38 và 39 nếu như sự không phù hợp của hàng hóa liên quan
đến các yếu tố mà người bán đã biết hoặc không thể không biết và họ đã không
thông báo cho người mua.
13
Quyền của người thứ 3 đối với hàng hóa
Điều 41 quy định trách nhiệm của người bán là phải giao những hàng hóa không
bị ràng buộc bởi bất cứ quyền hạn hay yêu sách nào của người thứ ba trừ trường
hợp người mua đồng ý nhận loại hàng bị ràng buộc vào quyền hạn và yêu sách như
vậy.
Tuy nhiên, nếu những quyền hạn và yêu sách đó được hình thành trên cơ sở sở
hữu công nghiệp hay sở hữu trí tuệ khác thì nghĩa vụ của người bán sẽ được điều
chỉnh theo điều 42. Đó là người bán phải có nghĩa vụ giao những hàng hóa không
bị ràng buộc bởi bất cứ quyền hạn hay yêu sách nào của người thứ ba trên cơ sở sở
hữu trí tuệ khác mà người bán đã biết hoặc không biết vào thời điểm ký kết hợp
đồng, với điều kiện nếu các quyền và yêu sách nói trên được hình thành trên cơ sở
sở hữu công nghiệp hoặc sở hữu trí tuệ khác.
a. Chiểu theo pháp luật của quốc gia nơi hàng hóa sẽ được bán lại hay sử dụng
bằng cách khác, nếu các bên có dự đoán vào lúc ký kết hợp đồng rằng hàng hóa sẽ
được bán lại hay sử dụng bằng cách khác tại quốc gia đó, hoặc là:
b. Trong mọi trường hợp khác - chiểu theo luật pháp của quốc gia có trụ sở
thương mại của người mua.
Trong trường hợp sau đây, người bán không bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ nêu
trên, nếu:
a. Vào lúc ký kết hợp đồng, người mua đã biết hoặc không thể không biết về sự
hiện hữu của quyền lợi hay yêu sách nói trên, hoặc là:
b. Quyền lợi hay yêu sách bắt nguồn từ sự kiện người bán đã tuân theo các bản
thiết kế kỹ thuật, hình vẽ, công thức hay những số liệu cơ sở do người mua cung
cấp.
14
Tuy nhiên, theo quy định tại điều 43 thì người bán sẽ không phải chịu trách nhiệm
này nếu như người mua không thông báo cho người bán những tin tức về tính chất
của quyền hạn hay yêu sách của người thứ ba, trong một thời hạn hợp lý kể từ lúc
người mua đã biết hay đáng lẽ phải biết về quyền hoặc yêu sách đó. Tuy nhiên
trong trường hợp người bán đã biết về quyền hạn hay yêu sách của người thứ ba và
về tính chất của quyền hạn hay yêu sách đó thì người bán không được miễn trách
nhiêm nói trên.
c. Quyền và nghĩa vụ của người bán trog trường hợp có sự vi phạm hợp đồng
Theo quy định tại điều 61 thì nếu người mua không thực hiện một nghĩa vụ nào đó
theo hợp đồng mua bán hay Công ước này, thì người bán có thể:
“a. Thực hiện các quyền quy định tại các điều 62 và 65.
b. Ðòi bồi thường thiệt hại như quy định tại các điều từ 74 đến 77.”
Tuy nhiên theo quy định tại khoản 2 điều này thì người bán không mất quyền đòi
bồi thường thiệt hại khi họ sử dụng quyền áp dụng các biện pháp bảo hộ pháp lý
khác.
Người bán có thể yêu cầu người mua trả tiền, nhận hàng hay thực hiện các nghĩa
vụ khác của người mua, trừ phi họ sử dụng một biện pháp bảo hộ pháp lý khác
không thích hợp với các yêu cầu đó
Theo điêu 63 thì:
15
1. Người bán có thể chấp nhận cho người mua một thời hạn bổ sung hợp lý để
thực hiện nghĩa vụ của mình.
2. Trừ phi nhận được thông báo của người mua cho biết sẽ không thực hiện nghĩa
vụ trong thời gian ấy, người bán, trước khi mãn hạn, không thể viện dẫn bất cứ một
biện pháp bảo hộ pháp lý nào mà họ được sử dụng trong trường hợp người mua vi
phạm hợp đồng. Tuy nhiên, do sự việc này, người bán không mất quyền đòi bồi
thường thiệt hại vì người mua chậm thực hiện nghĩa vụ.
Trong trường hợp người mua không thi hành nghĩa vụ nào đó của họ theo hợp
đồng hay Công ước hay cấu thành một sự vi phạm chủ yếu hợp đồng, hoặc nếu
người mua không thi hành nghĩa vụ trả tiền hoặc không nhận hàng trong thời hạn
bổ sung mà người bán chấp nhận cho họ chiếu theo khoản 1 điều 63 hay nếu họ
tuyên bố sẽ không làm việc đó trong thời hạn ấy. thì người bán có thể tuyên bố
hủy hợp đồng
Tuy nhiên trong những trường hợp khi người mua đã trả tiền, người bán mất
quyền tuyên bố hủy hợp đồng nếu họ không làm việc này:
“ a. Trong trường hợp người mua chậm thực hiện nghĩa vụ - trước khi người
bán biết nghĩa vụ đã được thực hiện, hoặc:
b. Trong trường hợp người mua vi phạm bất cứ nghĩa vụ nào khác ngoài việc
chậm trễ - trong một thời hạn hợp lý:
- Kể từ lúc người bán đã biết hay đáng lẽ phải biết sự vi phạm đó, hoặc:
16
- Sau khi hết mọi thời hạn bổ sung mà người bán chấp nhận chiếu theo khoản
1 điều 63 hay sau khi người mua đã tuyên bố rằng họ sẽ không thực hiện nghĩa vụ
của mình trong thời hạn bổ sung đó.”
Ðiều 65 quy định quyền của người bán có thể tự mình xác định hàng hóa chiếu
theo nhu cầu của người mua mà họ có thể biết mà không làm hại đến các quyền lợi
khác nếu theo hợp đồng người mua phải xác định hình dáng, kích thước hay những
đặc điểm khác đặc trưng của hàng hóa và nếu người mua không làm điều ấy vào
thời hạn đã thỏa thuận hay trong một thời hạn hợp lý kể từ lúc nhận được yêu cầu
của người bán, Nếu chính người bán tự mình thực hiện việc xác định hàng hóa, họ
phải báo chi tiết cho người mua biết nội dung việc xác định và cho người mua một
thời hạn hợp lý để người này có thể xác định khác. Nếu, sau khi nhận được thông
báo của người bán mà người mua không sử dụng khả năng này trong thời hạn nói
trên, thì sự xác định hàng hóa do người bán thực hiện có tính chất bắt buộc.
II.
Quyền và nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo
luật thương mại Việt Nam 2005
1.
Sự hình thành và phát triển của luật thương mại Việt Nam 2005
Luật Thương mại đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua vào ngày 10 tháng 5 năm 1997, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm
1998. Đây là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất từ trước đến
nay quy định thống nhất về hoạt động thương mại trên lãnh thổ Việt Nam. Qua hơn
7 năm thực hiện, Luật Thương mại năm 1997 đã có những tác động tích cực đến
đời sống kinh tế - xã hội của Việt Nam, từng bước đưa hoạt động thương mại vào
nề nếp, khuyến khích và phát triển hoạt động thương mại hợp pháp, ngăn chặn và
xử lý hành vi bất hợp pháp gây ảnh hưởng xấu đến môi trường thương mại.
17
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua,
Luật Thương mại năm 1997 đã bộc lộ những hạn chế nhất định, đòi hỏi phải sửa
đổi vì nhiều lý do, trong đó có thể kể đến các lý do cơ bản sau đây:
-
Luật Thương mại cần được sửa đổi, bổ sung do có một số nội dung chưa phù
hợp với thực tiễn phát triển của hoạt động thương mại tại Việt Nam
-
Luật Thương mại cần được sửa đổi, bổ sung do chưa đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của hội nhập kinh tế quốc tế
-
Luật Thương mại cần được sửa đổi, bổ sung do còn có những quy định chồng
chéo, mâu thuẫn với những quy định khác của pháp luật trong nước
-
Luật Thương mại cần được sửa đổi, bổ sung do có những quy định bất cập
trong bản thân Luật, không phản ánh được quá trình vận động của thực tiễn
thương mại
* Nguyên tắc chỉ đạo việc soạn thảo dự luật thương mại 2005
-
Bảo đảm thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về phát
triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, trong đó xây dựng chính sách, pháp luật thương mại tạo điều kiện phát triển
thị trường hàng hóa và dịch vụ là vấn đề trọng tâm.
-
Tôn trọng và phát huy quyền tự do hoạt động thương mại
-
Phù hợp với các nguyên tắc của Bộ Luật Dân sự, trong đó nguyên tắc tôn trọng
tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận được xác định là nền tảng của hoạt động
thương mại
18
-
Phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành về thương mại, trong đó Luật
Thương mại điều chỉnh những nguyên tắc, định chế chung của thương mại hàng
hóa và thương mại dịch vụ
-
Bảo đảm sự phù hợp với các Điều ước quốc tế về thương mại mà Việt Nam đã
ký kết hoặc gia nhập và pháp luật, tập quán thương mại quốc tế
-
Bảo đảm tính minh bạch, nâng cao hiệu quả của quản lý Nhà nước nhưng
không gây cản trở cho hoạt động thương mại hợp pháp trên thị trường
2. Quyền và nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật
thương mại Việt Nam 2005
a. Giao hàng và chuyển giao chứng từ có liên quan
Điều 34 Luật thương mại 2005 quy định về giao hàng và chứng từ liên quan đến
hàng hóa: “ Bên bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng về
số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp
đồng; Trường hợp không có thỏa thuận cụ thể, bên bán có nghĩa vụ giao hàng và
chứng từ liên quan theo quy định của Luật này.”
Địa điểm giao hàng: Điều 35 quy định địa diểm giao hàng: “Bên bán có nghĩa
vụ giao hàng đúng địa điểm đã thoả thuận. Thông thường, các bên thường đưa vào
hợp đồng các điều khoản thỏa thuận về điạ điểm. Tuy nhiên không phải tất cả các
hợp đồng đều có sự thỏa thuận của các bên về địa điểm. Theo quy định tại khoản2
điều 35 quy định “trong trường hợp không có thoả thuận về địa điểm giao hàng thì
địa điểm giao hàng được xác định như sau:
a) Trường hợp hàng hoá là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải giao hàng tại
nơi có hàng hoá đó;
19
b) Trường hợp trong hợp đồng có quy định về vận chuyển hàng hoá thì bên bán có
nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên;
c) Trường hợp trong hợp đồng không có quy định về vận chuyển hàng hoá, nếu
vào thời điểm giao kết hợp đồng, các bên biết được địa điểm kho chứa hàng, địa
điểm xếp hàng hoặc nơi sản xuất, chế tạo hàng hoá thì bên bán phải giao hàng tại
địa điểm đó;
d) Trong các trường hợp khác, bên bán phải giao hàng tại địa điểm kinh doanh
của bên bán, nếu không có địa điểm kinh doanh thì phải giao hàng tại nơi cư trú
của bên bán được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng mua bán.
Để thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa này, các bên thỏa thuận địa điểm giao
hàng mà tai đó người bán giao hàng và nhận tiền, còn người mua nhận hàng và
thanh toán tiền. Tuy nhiên, không phải trong trường hợp nào đích thân bên mua
hoặc bên bán tiến hành hoat động trên mà các bên có thể sẽ ký kết các hợp đồng
vận chuyển hàng hóa. Như vậy sẽ xuất hiện trách nhiệm giao hàng của ngời bán có
liên quan đến người vận chuyển. Điểm b điều 35 quy định nếu hợp đồng không có
thỏa thuận về địa điểm giao hàng thi nếu trong hợp đồng có quy định về vận
chuyển hàng hóa thì bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên.
Điều 36 quy định:
“1. Trường hợp hàng hóa được giao cho người vận chuyển nhưng không được xác
định rõ bằng ký mã hiệu trên hàng hóa, chứng từ vận chuyển hoặc cách thức khác
thì bên bán phải thông báo cho bên mua về việc đã giao hàng cho người vận
chuyển và phải xác định rõ tên và cách thức nhận biết hàng hoá được vận chuyển.
2. Trường hợp bên bán có nghĩa vụ thu xếp việc chuyên chở hàng hoá thì bên bán
phải ký kết các hợp đồng cần thiết để việc chuyên chở được thực hiện tới đích
20
- Xem thêm -