Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Skkn-Biện pháp giúp học sinh lớp một học tốt môn Toán...

Tài liệu Skkn-Biện pháp giúp học sinh lớp một học tốt môn Toán

.DOC
30
2665
121

Mô tả:

PHẦN MỞ ĐẦU I- Lý do chọn đề tài: Mục tiêu đổi mới của giáo dục tiểu học là phải góp phần đào tạo những người lao động linh hoạt, năng động, sáng tạo. Thích ứng với yêu cầu này đòi hỏi phải đổi mới toàn diện và đồng bộ giáo dục tiểu học, trong đó cần ưu tiên đổi mới phương pháp dạy học nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa vai trò tự giác, tích cực độc lập của học sinh với vai trò tổ chức, hướng dẫn và tính chủ động của giáo viên. Như ta đã biết, bậc tiểu học là bậc học khó nhất về mặt khoa học giáo dục trong tất cả các bậc học, đồng thời vai trò của nó rất to lớn. Đây là bậc học góp phần nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ người lao động, đem lại hạnh phúc cho mọi gia đình. Bậc tiểu học là một bậc học rất quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách ở học sinh trên cơ sở được cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về xã hội, tự nhiên, các năng lực nhận thức, trang bị các kỹ năng ban đầu về hoạt động nhân thức và thực tiễn, phát huy tình cảm thói quen và đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam. Trong các môn học ở tiểu học thì môn toán có vị trí rất quan trọng vì Toán với tư cách là một khoa học nghiên cứu một số mặt của thế giới thực, một hệ thống kiến thức và phương pháp nhận thức cơ bản. Môn toán có khả năng phát triển tư duy lôgíc, bồi dưỡng và phát triển những thao tác trí tuệ cần thiết để nhận thức thế giới hiện thực như: Trừu tượng hoá, khái quát hoá, phân tích và tổng hợp, so sánh, dự đoán, chứng minh và phản biện,… Xuất phát từ những vấn đề trên và trên cơ sở thực tiễn học sinh tiểu học, việc giải Toán của các em gặp nhiều khó khăn, nhiều em đọc bài toán không hiểu ý của bài toán yêu cầu gì, do đó các em hay giải sai. Là một giáo viên, tôi luôn luôn suy nghĩ mình phải làm gì để giúp học sinh giải toán có lời văn tốt đặc biệt là bài toán hợp, vậy để giúp học sinh làm tốt thao tác phân tích, tổng hợp bài toán, từ đó các em giải được bài toán đơn. Trên cơ sở giải được toán đơn các em sẽ giải được bài toán hợp bằng nhiều cách phân tích bài toán hợp thành bài toán đơn dễ giải, trong việc tìm kế hoạch giải toán có nhiều phương pháp nhưng quan trọng nhất, hay vận dụng nhất là phương pháp tổng hợp do vậy tôi quyết định chọn và nghiên cứu “Biện pháp giúp học sinh lớp một học tốt môn toán” trang1 II- Mục đích của đề tài: Đề tài này bước đầu tìm hiểu thực trạng về một số đặc điểm giải toán có lời văn của học sinh lớp Một. Trình bày một số biện pháp sư phạm cần thiết để nâng cao chất lượng giải toán có lời văn của học sinh trong tiết dạy toán góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn toán lớp Một. III -Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu: 1- Nhiệm vụ: - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài. - Mô tả thực trạng về đặc điểm giải toán có lời văn của học sinh lớp Một . - Bước đầu đưa ra một số biện pháp nhằm góp phần nâng cao giải toán có lời văn của học sinh lớp Một ở bậc tiểu học. 2- Phương pháp : - Phương pháp kinh nghiệm thực tế. - Phương pháp tham khảo tài liệu. - Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh môn Toán ở tiểu học. IV- Giới hạn nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về thực trạng về giải bài toán có lời văn của học sinh lớp Một. Phương pháp chung hướng dẫn học sinh giải một bài toán có lời văn theo 4 bước. Những quy định về hình thức trình bày của một bài giải toán. Cách hướng dẫn đặt câu lời giải. Các phương pháp tóm tắt đề toán. V - Khách thể và đối tượng nghiên cứu : 1- Khách thể nghiên cứu : Hoc sinh lớp Một 2 Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh 2- Đối tượng nghiên cứu: - Thực trạng về giải bài toán có lời văn của học sinh lớp Một - Biện pháp nâng cao giải toán có lời văn của học sinh ở lớp Một VI- Kế hoạch thực hiện : Thời gian Nội dung Biện pháp trang2 Tháng 9 / 2014 - Nghiên cứu tài liệu - Đọc các tài liệu tham khảo phần phụ lục, chọn các biện pháp thích hợp. - Tìm hiểu thực trạng - Khảo sát chất lượng giải toán có lời Tháng 10 đến văn. Thực nghiệm theo các Dạy thử nghiệm 1 số tiết dạy theo các tháng 11 / 2014 Tháng12 / 2014 biện pháp đề ra Hoàn thành sáng kiến biện pháp đề ra. Đánh vi tính, trang trí PHẦN NỘI DUNG I- Cơ sở lý luận của đề tài: Lớp Một là lớp đầu cấp học sinh mới bước vào môi trường mới các em phải làm quen với nhiều kiến thức hơn, mức độ khó hơn, các em còn phải làm quen với phương pháp học mới . Để giáo dục học sinh phát triển một cách toàn diện thì ngay từ lớp Một các em đã được làm quen với tất cả các môn học .Trong đó môn toán là Một môn học khó. Môn toán đi vào thế giới tri thức. Ngay từ buổi đầu tiên học phép cộng phép trừ, học đếm, …Tất cả điều giúp cho các em học tốt các môn học khác và nó còn là hành trang để các em bước đỉ trên đường đời thêm vững bước . Chính vì vậy giúp các em học sinh lớp Một học tốt môn Toán nói chung và học tốt toán có lời văn là vinh dự và trách nhiệm của người giáo viên nói chung và giáo viên lớp Một nói riêng. Người giáo viên không lúc nào dứt nổi trăn trở về những điều mình dạy và nhất là giải toán có lời văn lớp Một là một bộ phận của chương trình môn Toán ở tiểu học. Chương trình Toán lớp Một là nền tảng, có vai trò vô cùng quan trọng. Khả năng giải toán có lời văn chính là phản ánh năng lực vận dụng kiến thức của học sinh. Học sinh hiểu về mặt nội dung kiến thức toán học vận dụng vào giải toán kết hợp với kíên thức Tiếng Việt để giải quyết vấn đề trong toán học. Từ ngôn ngữ thông thường trong các đề toán đưa ra cho học sinh đọc - hiểu - biết hướng giải đưa ra phép tính kèm câu trả lời và đáp số của bài toán. Giải toán có lời văn góp phần củng cố kiến thức toán, rèn luyện kỹ năng diễn đạt, tích cực góp phần phát triển tư duy cho học sinh tiểu học. II- Thực trạng của vấn đề: trang3 Trong quá trình giảng dạy ở Tiểu học, đặc biệt dạy lớp Một, tôi nhận thấy hầu như giáo viên nào cũng phàn nàn khi dạy đến phần giải toán có lời văn ở lớp Một. Học sinh chưa nắm vững trình tự giải toán có lời văn, rất lúng túng khi nêu câu lời giải, thậm chí nêu sai câu lời giải, viết sai phép tính, viết sai đáp số. Những tiết đầu tiên của giải toán có lời văn mỗi lớp chỉ có khoảng số ít học sinh biết nêu lời giải, viết đúng phép tính và đáp số. Số còn lại là rất mơ hồ, các em chỉ nêu theo quán tính hoặc nêu miệng thì được nhưng khi viết các em lại rất lung túng, làm sai, một số em làm đúng nhưng khi cô hỏi lại không biết để trả lời. Chứng tỏ các em chưa nắm được một cách chắc chắn cách giải bài toán có lời văn. Giáo viên phải mất rất nhiều công sức khi dạy đến phần này. III-Các biện pháp đã thực hiện: Để chuẩn bị tốt cho phần học bài toán có lời văn, tôi hướng dẫn học sinh thông qua các biện pháp sau đây: 1) Biện pháp: “Xây dựng những điều kiện giúp học sinh ham thích học toán” a) Họp phụ huynh thống nhất biện pháp giáo dục Chúng ta đều biết học sinh lớp 1 đến trường còn phụ thuộc hoàn toàn vào sự quan tâm, nhắc nhở của cha mẹ và thầy cô. Các em chưa có ý thức tự giác học tập, chính vì vậy giáo dục ý thức tích cực học tập cho các em là một yếu tố không kém phần quan trọng giúp các em học tốt hơn. Tôi đã mạnh dạn trao đổi với phụ huynh học sinh về chỉ tiêu phấn đấu của lớp và những yêu cầu cần thiết giúp các em học tập như: mua sắm đầy đủ sách vở, đồ dùng, cách hướng dẫn các em tự học ở nhà dành thời gian nhắc nhở, quan tâm cho các em học tập. Tôi hướng dẫn phụ huynh cách dạy các em tìm hiểu, phân tích các đề toán, cách đặt lời giải và trình bày bài giải,… b) Khích lệ học sinh, tạo hứng thú trong học tập Đặc điểm chung của học sinh tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế chê các em trong học tập, rèn luyện . Tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm lý từng học sinh mà cứ quá khen sẽ không có tác dụng kích thích. Đối với những em chậm tiến bộ, thường rụt rè, tự ti, vì vậy tôi luôn luôn chú ý nhắc nhở, gọi các em trả lời hoặc lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một “tiến bộ nhỏ” là tôi tuyên dương ngay, để từ đó trang4 các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn. Đối với những em học khá, giỏi phải có những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ rệt tôi mới khen. Chính sự khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học sinh trong lớp đã có tác dụng khích lệ học sinh trong học tâp. Ngoài ra, việc áp dụng các trò chơi học tập trong các tiết học cũng là một yếu tố không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học tập, mong muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn. Vì chúng ta đều biết học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp một nói riêng có trí thông minh khá nhạy bén, sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. Đó là tiền đề tốt cho việc phát triển tư duy toán học. Nhưng các em cũng rất dễ bị phân tán, rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng hay quá tải. Hơn nữa cơ thể của các em còn đang trong thời kì phát triển vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ không thể ngồi lâu trong giờ học cũng như làm một việc gì đó trong một thời gian dài. Vì vậy, muốn giờ học có hiệu quả thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học “ Lấy học sinh làm trung tâm.”. Trong mỗi tiết học, tôi thường dành khoảng 2-3 phút để cho các em nghỉ giải lao tại chỗ bằng cách chơi các trò chơi học tập vừa giúp các em thoải mái sau giờ học căng thẳng, vừa giúp các em có phản ứng nhanh nhẹn, ghi nhớ một số nội dung bài đã học. c) Rèn kĩ năng đọc hiểu yêu cầu bài toán cho học sinh thông qua môn Tiếng Việt Chúng ta đã biết, học sinh lớp một còn thụ động, rụt rè trong giao tiếp. Chính vì vậy, để các em mạnh dạn tự tin khi phát biểu, trả lời người giáo viên cần phải: luôn luôn gần gũi, khuyến khích các em giao tiếp, tổ chức các trò chơi học tập, được trao đổi, luyện nói nhiều trong các giờ Tiếng Việt giúp các em có vốn từ; trong các tiết học các em có thể nhận xét và trả lời tự nhiên, nhanh nhẹn mà không rụt rè, nhút nhát. Bên cạnh đó, người giáo viên cần phải chú ý nhiều đến kĩ năng đọc cho học sinh: đọc nhanh, đúng, tốc độ, ngắt nghỉ đúng chỗ giúp học sinh có kĩ năng nghe, hiểu được những yêu cầu mà các bài tập nêu ra. Tóm lại: Để giúp học sinh ham thích học giải toán có lời văn, tôi luôn luôn chú ý rèn luyện kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh trong các giờ học Tiếng Việt. Bởi trang5 vì học sinh đọc thông, viết thạo là yếu tố “đòn bẩy” giúp học sinh hiểu rõ đề và tìm cách giải toán một cách thành thạo. d)Tạo ấn tượng đầu tiên Để tạo không khí nhẹ nhàng phấn khởi trong tiết học toán, người giáo viên cần chuẩn bị kỹ càng những gì sẽ nói và làm trong những phút đầu tiên của tiết học. Một trong bảy nguyên tắc giảng dạy và học tập tích cực là “Ấn tượng đầu tiên và cuối cùng”; Nguyên tắc này nêu rõ “Học sinh có thể nhớ tốt những gì họ học đầu tiên và cuối cùng trong cả trình tự học”. Do vậy, tôi rất chú ý phần giới thiệu bài vừa ngắn gọn vừa gây sự chú ý tò mò cho học sinh, nhằm tạo sự hưng phấn ở học sinh trong những phút đầu tiên của tiết học. Các em bước vào tiết học với tâm trạng phấn khởi, nét mặt rạng ngời, ánh mắt long lanh chờ đợi, … Ví dụ : Dạy bài : “Xăng-ti-mét. Đo độ dài” Tôi giới thiệu : “Ở các tiết học trước, các em đã được học về đoạn thẳng, đã biết cách đo đoạn thẳng bằng gang tay, bằng sải tay, bằng bước chân. Ngoài các cách cô vừa nêu, để đo độ dài đoạn thẳng, chúng ta dùng dụng cụ và đơn vị gì để đo đoạn thẳng? Cô sẽ hướng dẫn các em qua bài Xăng-ti-mét. Đo độ dài.” e) Tạo mối quan hệ thầy trò thật tốt Như chúng ta đã biết, ở lức tuổi tiểu học, học sinh luôn xem giáo viên là thần tượng của mình, những điều thầy cô làm, những gì thầy cô nói đều đúng và các em sẽ tìm mọi cách bắt trước theo khả năng của mình (đây cũng là lợi thế lớn của các em mà người giáo viên phải biết tận dụng). Đồng thời các em cũng rất thích được khen ngợi (cả người lớn) dù rằng chỉ là một lời động viên. Do đó, trong các tiết học (không chỉ môn toán) tôi luôn chú ý động viên khích lệ là chính, nhất là những đối tượng học trung bình, yếu và hạn chế tối đa lời phê bình và khi phê bình dùng những từ ngữ nhẹ nhàng khuyên răng hơn là những lời quở trách nặng nề nhằm tạo mối quan hệ gần gũi giữa giáo viên và học sinh (những khi học sinh lo ra). Chính những lời động viên khuyến khích kịp thời sẽ giúp các em phấn chấn, tâm trạng thoải mái hơn, có như thế thì hiệu quả tiếp thu bài của các em tốt hơn và bầu không khí lớp học sinh động hơn, tiết học thành công hơn. trang6 Trong suốt quá trình tiết học, nét mặt cử chỉ của tôi luôn tươi vui, biểu hiện sự quan tâm đến tất cả các em trong lớp. Lời giảng giải không những rõ ràng dễ hiểu chính xác mà đôi lúc còn cần phải xen những lời so sánh, ví von; thậm chí lúc học sinh căng thẳng, mệt mỏi tôi cũng xen lời pha trò nhẹ nhàng thích hợp làm cho các em bật cười, lúc đó không khí lớp học giãn ra, các em cảm thấy thoải mái, gần gũi với tôi hơn; các em tỏ ra mạnh dạn, tự tin hơn trong phát biểu xây dựng bài cũng như làm bài; cả lớp tập trung vào bài học tích cực hợp tác với tôi làm cho tiết học đạt hiệu quả ngoài mong đợi. 2. Biện pháp “Cách dạy học sao cho tất cả các học sinh đều làm việc” Tôi nghĩ rằng dạy học sao cho tất cả các học sinh đều làm việc (hay dạy học theo kiểu tổ chức cách làm việc) là một trong những định hướng quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy toán ở Tiểu học. Đây là một cách dạy học tiến tiến, bám sát nguyên tắc : “Dạy học thông qua hoạt động bằng tay của bản thân từng trẻ em”. Ở đây, tôi xin nhấn mạnh chữ HOẠT ĐỘNG BẰNG TAY và chữ TỪNG nhằm huy động tất cả học sinh trong lớp tham gia vào hoạt động học tập: tìm hiểu kiến thức mới, luyện tập hay hoạt động củng cố đều có thể thực hiện được, và đạt hiệu quả cao. Với hoạt động tự tìm ra kiến thức, nắm vững kiến thức sẽ giúp học sinh hứng thú trong học tập. Ví dụ 1: Tôi muốn yêu cầu học sinh tìm những điều đã cho và những điều phải tìm trong trong một bài toán nào đó. Xin hãy so sánh hai cách dạy: *Cách 1: Đàm Thoại : Tôi hỏi cả lớp : “ Em hãy cho biết trong bài toán này đâu là cái đã cho, đâu là cái phải tìm ?”. Thế thì không có gì bảo đảm là cả lớp đều suy nghĩ để xác định đâu là cái đã cho, đâu là cái phải tìm ? bởi vì thường thì chỉ có 4, 5 thậm chí 1, 2 em giơ tay xin trả lời. Do đó, tôi khẳng định chắc chắn là trong lớp chỉ có 4, 5 hoặc 1, 2 em suy nghĩ. Nhưng thực tế, thì tôi chỉ gọi 1 em trả lời, do đó chỉ có 1 em thực sự làm việc. Để khắc phục nhược điểm này, tôi hướng dẫn học sinh làm theo hướng sau: *Cách 2 : Tổ chức làm việc: Tôi yêu cầu học sinh: - Giơ bút chì (cả lớp giơ bút chì) trang7 - Gạch dưới những điều đã cho trong bài toán... (cả lớp, nghĩa là mỗi học sinh đều phải chú ý đọc đề toán trong sách giáo khoa để tìm ra những cái đã cho rồi gạch dưới…) Trong lúc này, tôi đi xuống các học sinh để đôn đốc các em làm việc, giúp đỡ các em kém. Tôi có thể đưa mắt bao quát nhìn cả lớp, hễ thấy học sinh nào không cầm bút gạch thì nhắc nhở em đó làm việc. Nhờ có lệnh làm việc bằng tay này mà những học sinh không chịu làm việc sẽ lộ ra, do đó tôi sẽ kiểm soát được hoạt động của cả lớp giúp các em có thói quen tốt trong học tập, dần dần hình thành sự tự giác trong học tập. Ví dụ 2: Dạy bài : “Giải toán có lời văn (tt)” với bài toán : “Nhà An có 9 con gà, mẹ đem bán 3 con gà. Hỏi nhà An còn lại mấy con gà?” . Tôi tiến hành như sau: - Bài toán cho biết gì? Hãy dùng bút chì gạch chân những điều bài toán đã cho! (học sinh gạch chân: Nhà An có 9 con gà, mẹ đem bán 3 con gà). - Bài toán hỏi gì? Hãy dùng bút chì gạch chân những điều bài toán hỏi! (học sinh gạch chân: Hỏi nhà An còn lại mấy con gà?). - Để biết nhà An còn lại mấy con gà ta làm phép tính gì? Hãy viết phép tính vào vở nháp. (học sinh ghi phép tính vào vở nháp.)… - Nếu em nào không thực hiện, tôi quan sát sẽ phát hiện ngay và yêu cầu các em thực hiện. Trong 2 ví dụ tôi vừa nêu rõ ràng cách 1 chưa tốt vì chỉ có mình giáo viên hoạt động, trong khi cả lớp chỉ khoanh tay ngồi nhìn, một vài em trả lời. Cũng có thể có những em khoanh tay, nhưng không theo dõi thì giáo viên cũng khó biết, hoặc có em khoanh tay ngồi nhìn giáo viên nhưng đầu óc nghĩ đến chuyện khác như : chiều cha mẹ chở đi chơi ở đâu, chơi game,… thì giáo viên cũng khó biết. Còn trong cách dạy 2 thì 100% học sinh trực tiếp tích cực tham gia hoạt động. Em nào không làm tôi biết ngay và nhẹ nhàng nhắc nhở. Em nào làm sai ( ví dụ : ghi phép tính sai hoặc gạch chân chưa đúng theo yêu cầu,…) tôi uốn nắn kịp thời. Rõ ràng cách dạy 2 hiệu quả hơn cách dạy 1 mà tôi thường xuyên áp dụng cho lớp học tôi nhằm nâng cao chất lượng dạy học cũng như hứng thú học tập của các em. trang8 Tóm lại, muốn cho việc dạy học tác động đến 100% học sinh làm việc thì tôi luôn biến bài dạy của mình thành hệ thống các công việc mà học sinh có thể thực hiện được bằng tay nhằm nâng cao chất lượng dạy học cũng như hứng thú học tập của các em. 3. Biện pháp làm quen với giải toán có lời văn: Giai đoạn 1: Quan sát tranh, nêu phép tính thích hợp Được bắt đầu từ tiết 27 Luyện tập đến tiết 61 Luyện tập Ngay từ đầu học kỳ I các bài toán được giới thiệu ở mức độ nhìn hình vẽ , viết phép tính. Mục đích cho học sinh hiểu bài toán qua hình vẽ, suy nghĩ chọn phép tính thích hợp. Ở giai đoạn đầu tiên này học sinh được thường xuyên làm quen với dạng toán quan sát tranh nêu phép tính thích hợp. Tôi hiểu đó chính là yêu cầu, tập biểu thị tình huống trong tranh bằng 1 phép tính thích hợp. VD: Bài 5 tiết luyện tập trang 46 1 + 2 = 3 - Bài đầu tiên rất quan trọng nên tôi cho học sinh quan sát kĩ tranh để học sinh biết được” Có mấy quả bóng? Thêm mấy quả bóng? Hỏi có tất cả máy quả bóng?”.Sau đó tôi giúp học sinh nêu thành bài toán đơn với 1 phép tính cộng: trang9 “ Vinh có 1 quả bóng. Hoà có 2 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?”. Cho nhiều học sinh nêu lại bài toán theo ý hiểu của mình, không bắt buộc phải giống y nguyên bài toán mẫu của cô. - Tôi nhấn mạnh vào từ: “có, thêm, có tất cả” để học sinh dần hiểu được: “ thêm” có nghĩa là: “cộng” và cụm từ: “ có tất cả” để chắc chắn rằng chúng ta sẽ thực hiện viết phép tính cộng vào ô trống đó. Tôi cũng không áp đặt học sinh cứ phải nêu phép tính theo ý giáo viên mà có thể nêu: 1 + 2 = 3 hoặc 2 + 1 = 3 1 + 2 = 3 - Tôi đã hướng dẫn học sinh làm theo đúng mục tiêu của dạng bài tập này là: Giúp học sinh hình thành kĩ năng biểu thị một tình huống của bài toán bằng một phép tính tương ứng với mỗi tranh vẽ. VD: Bài 5( b) trang 50. Viết phép tính thích hợp. Cho học sinh xem tranh, nêu bài toán: Có 4 con chim đang đậu, 1 con nữa bay đến. Hỏi có tất cả mấy con chim? Học sinh có thể nêu: trang10 1. Có 4 con chim đang đậu, 1 con nữa bay đến. Hỏi có tất cả mấy con chim? Học sinh viết: 4+1=5 2. Có 1 con chim đang bay và 4 con chim đậu trên cành. Hỏi có tất cả mấy con chim? Học sinh viết phép tính: 1 + 4 = 5 3.Có 5 con chim, bay mất 1 con. hỏi còn lại mấy con? Học sinh viết phép tính: 5 - 1 = 4 3. Có tất cả 5 con chim, trong đó có 4 con đậu trên cành. Hỏi có mấy con đang bay? Học sinh viết phép tính: 5 - 4 =1 Có rất nhiều cách để nêu, giải bài, có nhiều kết quả đúng toán tôi thường xuyên khuyến khích học sinh làm như vậy. Nhưng với bức tranh của bài 5b trang 50. Tôi sẽ hướng dẫn để học sinh có thể viết: 1 + 4 = 5 ; để phép tính phù hợp với tình huống của bài toán nêu ra. - Tương tự như vậy cho đến hết tiết 61: Luyện tập trang 85. - Như vậy qua giai đoạn 1 học sinh của tôi đã hình thành tốt kĩ năng khi làm dạng bài tập như trên. Đó là: + Xem tranh vẽ trang11 + Nêu bài toán bằng lời + Nêu câu trả lời + Điền phép tính thích hợp với tình huống trong tranh. Giai đoạn 2: Làm quen với giải bài toán với tóm tắt bằng lời .Từ giai đoạn này, học sinh không quan sát tranh để nêu phép tính thích hợp nữa mà chuyển sang: “ Viết phép tính thích hợp” dựa vào tóm tắt bài toán. Ví dụ: Có : 10 quả bóng Cho : 3 quả bóng Còn :.... quả bóng? 10 - 3 = 7 Học sinh từng bước làm quen với lời thay cho hình vẽ, học sinh dần dần thoát ly khỏi hình ảnh trực quan từng bước tiếp cận đề bài toán. Yêu cầu học sinh phải đọc và hiểu được tóm tắt, biết diễn đạt đề bài và lời giải bài toán bằng lời, chọn phép tính thích hợp nhưng chưa cần viết lời giải. Tuy không yêu cầu cao, tránh tình trạng quá tải với học sinh, nhưng có thể động viên học sinh khá giỏi làm nhiều cách , có nhiều cách diễn đạt từ một hình vẽ hay một tình huống sách giáo khoa. Bài 3( b) trang 87: Có : 10 quả bóng Cho: 3 quả bóng Còn : . . . quả bóng Tương tự như ở giai đoạn 1.Tôi tiếp tục cho học sinh đọc nhiều lần tóm tắt bài toán rồi căn cứ vào thuật ngữ: : “Có, cho, còn” để tiếp tục hướng dẫn học sinh: “ cho” là bớt đi và từ “còn” là chúng ta phải thực hiện phép tính trừ vào ô trống. 10 Vậy - 3 = 7 ở giai đoạn này học sinh đã quen dần với cách nêu bài toán, câu trả lời bằng miệng. Rèn luyện thành thạo kĩ năng này sẽ rất thuận lợi khi học sinh bươc vào giai đoạn học: “ giải toán có lời văn” 4. Biện pháp giải toán có lời văn qua 4 bước: trang12 Từ tiết 84: bài toán có lời văn trang 115 đến cuối năm học sinh chính thức học, rèn luyện giải bài toán có lời văn. Giáo viên cần cho học sinh nắm vững đề toán, thông qua việc tóm tắt đề toán. Biết tóm tắt đề toán là yêu cầu đầu tiên dể giải bài toán có lời văn. Bài giải gồm 3 phần : câu lời giải, phép tính và đáp số. Chú ý rằng tóm tắt không nằm trong lời giải của bài toán, nhưng phần tóm tắt cần được luyện kỹ để học sinh nắm được bài toán đầy đủ, chính xác. Câu lời giải trong bài giải không yêu cầu mọi học sinh phải theo mẫu như nhau, tạo diều kiện cho HS diễn đạt câu trả lời theo ý hiểu của mình. Quy ước viết đơn vị của phép tính trong bài giải HS cần nhớ để thực hiện khi trình bày bài giải. Bài toán giải bằng phép tính trừ được giới thiệu khi HS đã thành thạo giải bài toán có lời văn bằng phép tính cộng. Tôi chỉ hướng dẫn cách làm tương tự, thay thế phép tính cho phù hợp với bài toán. Ở lớp Một, HS chỉ giải toán về thêm, bớt với 1 phép tính cộng hoặc trừ, mọi HS bình thường đều có thể hoàn thành nhiệm vụ học tập một cách nhẹ nhàng nếu được giáo viên hướng dẫn cụ thể. Khi giải bài toán có lời văn tôi lưu ý cho HS hiểu rõ những điều đã cho, yêu cầu phải tìm, biết chuyển dịch ngôn ngữ thông thường thành ngôn ngữ toán học, đó là phép tính thích hợp. Ví dụ: có một số quả bóng, khi được cho thêm hoặc mua thêm nghĩa là thêm vào, phải làm tính cộng; nếu đem cho hay đem bán thì phải làm tính trừ,... trang13 trang14 Tôi cho HS tập ra đề toán phù hợp với một phép tính đã cho,để các em tập tư duy ngược,tập phát triển ngôn ngữ,tập ứng dụng kiến thức vào các tình huống thực tiễn. Ví dụ:với phép tính 3 + 2 = 5.Có thể có các bài toán sau: - Bạn Lan có 5 viên kẹo,chị An cho Lan 3 viên kẹo. Hỏi bạn Lan có mấy viên kẹo? - Nhà Lan có 4 con gà mẹ Lan mua thêm 3 con gà. Hỏi nhà Na có tất cả mấy con gà? - Có 5 con vịt bơi dưới ao, có thêm 1 con vịt xuống ao. Hỏi có mấy con vịt dưới ao? - Lớp em có 5 bạn vẽ đẹp . Nay có thêm 7 bạn vẽ đẹp. Hỏi lớp em có mấy bạn vẽ đẹp? Có nhiều đề bài toán HS có thể nêu được từ một phép tính. Biết nêu đề bài toán từ một phép tính đã cho, HS sẽ hiểu vấn đề sâu sắc hơn,chắc chắn hơn,tư duy và ngôn ngữ của HS sẽ phát triển hơn. a- Nhận biết cấu tạo bài toán có lời văn Tiết 84: Bài toán có lời văn. Học sinh được học với đề toán chưa hoàn thiện. Tiếp tục sử dụng kĩ năng quan sát tranh, học sinh đã rất thành thạo ở giai đoạn 2 vậy nên hoàn thiện nốt đề bài toán là điều không khó đối với học sinh lớp tôi. Tiếp tục tôi giảng để học sinh nắm chắc một bài toán có lời văn ở lớp 1 gồm 2 phần. Phần cho biết, phần hỏi.( Phần cho biết gồm 2 ý: Có ....... cho thêm; Có.....và. bớt; Có.......bay đi;... Bài toán có lời văn còn thiếu số và câu hỏi: ( cái đã cho, cái cần tìm) Gồm 4 bài toán có yêu cầu khác nhau VD: Bài 1 trang 115 Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán Bài toán 1: Có …bạn, có thêm… bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn ? trang15 Bài toán 2: Có … con , có thêm … con thỏ đang chạy tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu con thỏ ? * Bài toán còn thiếu câu hỏi ( cái cần tìm) Bài 3 Viết tiếp câu hỏi để có bài toán. Bài toán 3 : Có 1 gà mẹ và có 7 gà con. Hỏi ………………………………………………….? trang16 * Bài toán còn thiếu cả số cả câu hỏi ( cái đã cho và cái cần tìm) Bài toán 4: Có … con chim đậu trên cành, có thêm….con chim bay đến. Hỏi ………………………………………………….? - Dạy dạng toán này tôi phải xác định làm thế nào giúp các em điền đủ được các dữ kiện (cái đã cho và cái cần tìm) còn thiếu của bài toán và bước đầu các em hiểu được bài toán có lời văn là phải đủ các dữ kiện; đâu là cái đã cho và đâu là cái cần tìm. Bước 1: GV đặt câu hỏi - HS trả lời và điền số còn thiếu vào chỗ chấm để có bài toán. Giáo viên kết hợp dùng phấn màu ghi số còn thiếu vào bài toán mẫu trên bảng lớp. Bước 2: Hướng dẫn các em xác định cái đã cho và cái cần tìm. (dữ kiện và yêu cầu bài toán). Dùng phấn màu gạch chân dữ kiện và từ quan trọng (tất cả) của bài toán. Sau khi hoàn thành 4 bài toán giáo viên nên cho các em đọc lại và xác định bài 1 và bài 2 thiếu cái đã cho; bài 3 thiếu cái cần tìm; bài 4 thiếu cả cái đã cho và cái cần tìm. Qua đó giúp các em hiều được đây là dạng toán có lời văn phải có đủ dữ kiện. b.Quy trình giải toán có lời văn. trang17 Dạy cho HS giải bài toán có lời văn cần thực hiện tốt các bước sau: - Đọc kĩ đề bài: Đề toán cho biết những gì? Đề toán yêu cầu gì? - Tóm tắt đề bài - Tìm được cách giải bài toán - Trình bày bài giải - Kiểm tra lời giải và đáp số Ví dụ: Dạy bài: Giải bài toán có lời văn Bài 1 trang 122: An có 4 quả bóng xanh vàcó 5 quả bóng đỏ. Hỏi An có tất cả mấy quả bóng ? Bước 1: Tìm hiểu đề bài: Tôi yêu cầu học sinh - Quan sát tranh minh hoạ trong SGK - Đọc bài toán. - Đặt câu hỏi tìm hiểu bài. + Bài toán cho biết gì? (An có 4 quả bóng xanh ) + Bài toán còn cho biết gì nữa? (và có 5 quả bóng đỏ) + Bài toán yêu cầu tìm gì? (An có tất cả mấy quả bóng?) Tôi gạch chân dữ kiện, yêu cầu của bài toán. Bước 2: Tóm tắt bài toán Tôi hướng dẫn để học sinh hoàn thiện tóm tắt của bài toán. Lúc này học sinh chỉ cần dựa vào bài toán cho biết gì và bài toán hỏi gì là đã hoàn thiện tóm tắt. An có: 4 quả bóng xanh. Có: 5 quả bóng đỏ. Có tất cả: . . . quả bóng? - Yêu cầu học sinh đọc lại tóm tắt Bước 3: Giải bài toán Có thể lồng câu lời giải vào trong tóm tắt để dựa vào đó học sinh dễ viết câu lời giải hơn chẳng hạn dựa vào dòng cuối tóm tắt học sinh có thể viết ngay câu lời giải với nhiều cách khác nhau chứ không bắt buộc học sinh phải viết theo một kiểu. Có thể hướng dẫn các em viết câu lời giải theo 1 số cách sau: trang18 Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi)và cuối (mấy quả bóng?) để có câu lời giải: “An có :” hoặc thêm từ là để có câu lời giải An có số quả bóng là:” Cách 2: Đưa từ “quả bóng” ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ “Hỏi” và thêm từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có “ Số quả bóng An có tất cả là:” Cách 3: Dựa vào dòng cuối cùng của câu tóm tắt coi đó là “từ khoá” của câu lời giải rồi thêm thắt chút ít. Vídụ: Từ dòng cuối của tóm tắt “Có mấy quả bóng?”. Học sinh viết câu lời giải:Có tất cả là:”. Cách 4: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: “Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?” để học sinh trả lời miệng: “ Cả hai bạn có là” rồi chèn phép tính vào để có cả bước giải (gồm câu lời giải và phép tính): Tất cả An có là: 4+ 5 = 9 (quả bóng) Cách 5: Sau khi học sinh tính xong: 4 + 5 = 9 (quả bóng). Giáo viên chỉ vào 9 rồi hỏi: “ 9 quả bóng này là của ai? ” ( số bóng của An có tất cả). Từ câu trả lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải: “Số bóng của An có tất cả là”…Vậy là có rất nhiều câu lời giải khác nhau. Tiếp tục hướng dẫn học sinh viết các phép tính. - Tôi nêu tiếp: “Muốn biết An có mấy quả bóng ta làm tính gì? (tính cộng); Mấy cộng với mấy? (4 + 5 = 9) hoặc 5 cộng 4 bằng mấy? (5 +4 = 9); Tiếp tục tôi gợi ý để học sinh nêu tiếp “9 này là 9 quả bóng) nên ta viết “quả bóng” vào dấu ngoặc đơn: 4 + 5 = 9 ( quả bóng). Để bài toán đầy đủ các bước giáo viên hướng dẫn các em viết đáp số. Bước 4: Kiểm tra lời giải và đáp số Đây là khâu cuối cùng nhưng vô cùng quan trọng, bạn phải rèn cho trẻ tính cẩn thận và tính chính xác trong bước này, Hãy đặt câu hỏi đáp số đã phù hợp đề bài chưa? Có phù hợp danh số không? Có gì phi thực tế không? Hãy kiểm tra lại các phép tính vừa làm. 5. Trình bày bài giải bài toán có lời văn. Học sinh chưa tự mình trình bày bài toán có lời văn bao giờ nên việc trình bày bài toán có lời văn cũng là một việc làm rất khó. Giáo viên phải hướng dẫn tỉ mỉ, cẩn thận. trang19 Tuy nhiên việc học sinh làm sai hoặc viết câu lời giải chưa đúng cũng là điều khó tránh khỏi. Đây là 1 số trường hợp học sinh hay mắc phải. Trường hợp 1: Bài giải 4 + 5 = 9 quả bóng Đáp số : 9 quả bóng. Học sinh chưa biết trình bày sao cho cân đối. Chưa biết viết câu lời giải Trường hợp 2: Bài giải 4 + 5 = 9 ( Quả bóng) Đáp số: 9 quả bóng. An có số quả bóng là: Học sinh không biết đưa câu lời giải lên trên phép tính Trường hợp 3: Bài giải An còn số quả bóng là: 4 + 5 = 9 ( quả bóng) Đáp số: 9 quả bóng. Học sinh không biết viết câu lời giải Trường hợp 4: Bài giải An có tất cả số quả bóng là: 4 + 5 = 9 ( quả bóng) Đáp số: 9 quả bóng.  Khi dạy học sinh lớp 1 giải bài toán có lời văn phương pháp luận để giải quyết bài toán như sau: - Đọc thật kỹ đề bài - Hiểu rõ câu hỏi - Tìm các yếu tố liên quan đến câu hỏi - Từ đó tìm ra phép tóan cần thiết (+, -, … ) để sử dụng - Làm toán và sau đó kiểm tra lại Để dạy học sinh lớp 1quen phương pháp luận như vậy cần dành thời gian giải các bài toán cùng trẻ theo từng bước như trên, sau một thời gian trẻ có thể tự làm, giải các bài toán có lời văn một cách thành thạo. 6. Quá trình nghiên cứu và thực nghiệm: a- Bài toán có lời văn Có ...bạn, có thêm ... bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn? trang20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan