“Biện pháp khai thác và sử dụng hợp lý hệ thống câu hỏi trong giảng
dạy phân môn tập đọc sách Tiếng Việt 5”.
1
PHẦN I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
1. Cơ sở lý luận :
Đổi mới phương pháp dạy học là một vấn đề đã và đangđược thực hiện ở hầu hết
tất cả các trường tiểu học hiện nay. Môn Tiếng Việt là một trong những môn học có
nhiềuđổi mới cả về nội dung và phương pháp dạy học nhằm thực hiện mục tiêuphát triển
kỹ năng sử dụng Tiếng Việt cho học sinh tiểu học, giúp các em làm chủ được công cụ
ngôn ngữ học tập, trong nhà trường và giao tiếp một cách đúng đắn, mạch lạc, tư nhiên
trong môi trường xã hội. Nguyên tắc giao tiếp được chọn làm định hướng cơ bản cho đổi
mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt. Đặc biệt đối với phân môn tập đọc,thông qua
hệ thống bài đọc theo các chủ điểm với các câu hỏi và bài tập khai thác nội dung ở mỗi
bài, nhiệm vụ của mỗi giáo viên là phải giúp học sinh có những hiểu biết về tự nhiên xã
hội, con người qua đó hình thành cho các em một vốn từ vốn diễn đạt và những hiểu biết
nhất định về các tác phẩm đó góp phần vào việc rèn luyện nhân cách cho các em. Không
những vậy phân môn tập đọc còn gợi mở cho học sinh cái hay cái đẹp của ngôn từ Tiếng
Việt và hiểu được phần nào cuộc sống sung quanh.Qua đó bồi dưỡng cho học sinh những
tình cảm chân chính, lành mạnh như: Tình cảm gia đình, tình thầy trò, tình bạn, tình yêu
quê hương đất nước, con người, đồng thời hình thành và phát triển ở học sinh phẩm chất
tốt đẹp.
Nhiệm vụ của việc dạy học tập đọc trong nhà trường Tiểu học là giúp học sinh
củng cố, phát triển kỹ năng đọc hơn, đọc thầm, dọc lướt để chọn thônh tin và bước đầu
biết đọc diễn cảm, đọc hiểu và nắm được nội dung bài, phát hiện ra những giá trị nội
dung cũng như nghệ thuật của bài. Để giải quyết được nhiệm vụ đó trong dạy học mỗi
giáo viên cần biết khai thác một cách hợp lý hệ thống câu hỏi và bài tập của mỗi bài.
2
Việc sử dụng hiệu quả hệ thống câu hỏi sẽ giúp giáo viên nâng cao chất lượng giảng dạy
một cách đáng kể. Thực tế cho thấy nếu giáo viên đặt được nhiều câu hỏi một cách hợp lý
phù hợp với nội dung bài học sẽ giúp học sinh hiểu bài sâu sắc hơn nhiều so với việc chỉ
giảng giải một cách đơn thần. Tuy dạy bài tập đọc, có nhiều câu hỏi cần phải giữ nguyên
nội dung câu hỏi trong sách giáo khoa nhưng cũng có những câu hỏi cần phải được giáo
viên khai thác bằng cách chẻ nhỏ, đôi khi cần phải thay thế một số câu hỏi khác nhằm
giúp học sinh sửa được nội dung bài. Mỗi câu hỏi sẽ giúp học sinh tìm ra được những chi
tiết cụ thể trong bài bằng những từ, ngữ, hình ảnh từ đó tìm được nôi dung bài. Mỗi giáo
viên có một cách khai thác câu hỏi riêng trước cùngmột câu hỏi có giáo viên yêu cầu học
sinh tìm ra nội dung câu trả lời rồi mới đi sâu vào phân tích nội dung câu trả lời. Dù ở
mức độ nào thì mục tiêu đặt ra cũng là giúp học sinh hiểu được nội dung bài. Dođó yêu
cầu đặt ra với mỗi giáo viên dạy Tiểu học nói chung và giáo viên dạy lớp 5 nói riêng khi
dạy tập đọc phải tạo ra hệ thống câu hỏi cần đảm bảo phát huy được tư duy học sinh.
Làm được điều đó là giáo viên đã nâng cao được hiệu quả trong việc dạy phân môn tập
đọc.
Nhưng sử dụng hệ thống câu hỏi trong khi dạy tập đọc như thế nào để đạt hiệu quả
cao cho học sinh lớp 5 đó là mục đích của sáng kiến này đặt ra.
2/ Cơ sở thực tiễn
Qua thực tế một năm dạy lớp 5 đã đổi mới chương trình thay sách giáo khoa bằng
cách sử dụng phiếu trắc nghiệm, dự giờ thăm lớp, dạy giao lưu các lớp trong tổ khối, qua
trao đổi, chuyện trò tâm sự, tham kháo ý kiến của bạn bè đồng nghiệp. Đặc biệt thông
qua chấm các bài kiểm tra định kỳ tôi thấy một số tồn tại, hạn chế trong việc khai thác và
sử dụng hệ thống câu hỏi khi dạy phân môn tập đọc sách Tiếng Việt 5.
3
* Thực trạng của giáo viên và học sinh .
a/ Thực trạng của giáo viên trong các nhà trường tiểu học hiện nay :
- Bênh cạnh đông đảo những đồng chí giáo viên đang say sưa nghiên cứu sáng tạo
tìm ra những biện pháp dạy học sinh, tìm hiểu những câu hỏi trong bài tập đọc sao cho
hiểu quả nhất thì còn một số giáo viên vẫn chưa hề động não, suy nghĩ nghiên cứu, đổi
mới phương pháp trong khi dạy phân môn này mà vẫn còn quan niệm “ Dạy tập đọc chủ
yếu cứ cho học sinh đọc to, rõ, đọc đúng tiếng là được” cho nên trong các giờ tập đọc
giáo viên chỉ cho học sinh luyện đọc sau đó đến phần tìm hiểu bài giáo viên chỉ nêu “
nguyên bản” những câu hỏi trong sách giáo khoa cho học sinh trả lời, còn học sinh chỉ
dựa vào sách giáo khoa đọc lại những ý liên quan đến nội dung câu hỏi. Giáo viên không
cần biết những câu hỏi đó có phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình hay không. Còn
những câu hỏi nàogiáo viên đưa ra học sinh không trả lời được giáo viên trả lời hộ luôn
cho nhanh để giờ học nhẹ nhàng nhanh chóng kết thúc cũng vừa đủ 40 phút ( ! ) .
Cũng có giáo viên chỉ lo “ luyện” cho học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm thỉ đọc “
chầm chậm” là được còn ý các đoạn và nội dung bài thì học sinh không nói đúng giáo
viên tự cho ghi và yêu cầu các em ghi nhớ máy móc hoặc học thuộc. Với cách dạy này thì
làm sao học sinh có thể hiểu được thấu đáo nội dung bài mà có cách đọc diễn cảm đúng,
cũng có giáo viên trong phần tìm hiểu bài chỉ “ ưu tiên” cho những học sinh khá trả lời
hoặc những học sinh hay trả lời. Nếu làm như vậy thì một số bộ phận học sinh trong lớp
sẽ không có cơ hội bày tỏ ý kiến của mình và sẽ không làm cho các bạn tự nhiên, tự tin
trong học tập.
Hoặc có giáo viên còn đưa ra những câu hỏi rườm rà, khó hiểu làm cho học sinh
lúng túng, không xác định đúng nội dung.
b/ Thực trạng của học sinh.
4
- Trong phần đọc hiểu, đọc thầm các em ngại suy nghĩ.
- Hiểu biết vốn từ còn ít ỏi nên nhiều khi hiểu sai nghĩa của từ dẫn đến hiểu sai
câu, đoạn và nội dung văn bản.
- Nhiều học sinh quen chỉ ỷ nại vào các bạn học khá phát biểu còn mình không
cần suy nghĩ ( bởi cô giáo cũng không gọi đến lượt mình).
- Nhiều học sinh chỉ đọc to, đọc trôi chảy hoặc chầm chầm đều đều hoặc không
đúng ngữ điệu, lời văn, giọng thơ không phù hợp với nội dung bài văn, bài thơ đó cần
diễn tả .....
- Sau khi học xong bài tập đọc nhiều học sinh không hiểu gì về nội dung ý các
đoạn và nội dung bài học.
Từ những thực trạng trên cho thấy việc tìm ra cách khai thác và sử dụng hệ thống
câu hỏi khi dạy về phân môn tập đọc lớp 5 sao cho hợp lý và có hiệu quả cao nhất là một
việc làm mà mỗi giáo viên tiểu học cần phải suy nghĩ nghiên cứu sao cho phù hợp với
nội dung bài .
3/ Lý do chọn đề tài .
II/ Nội dung sáng kiến .
Sau đây tôi xin trình bày cụ thể biện pháp khai thác và sử dụng hệ thống câu hỏi
trong các bài tập đọc ở sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 nhằm nâng cao hiệu quả cao
nhất.
1/ Một số cách hỏi thường được sử dụng trong giờ học tập đọc .
Có nhiều cách hỏi khác nhau đối với mỗi môn học, bài học hoặc nội dung cụ thể
trong mỗi bài. Mỗi cách hỏi đều đặt ra đích là những câu trả lời, hỏi như thế nào để học
5
sinh tìm ra câu trả lời một cách nhanh chóng, chính xác, đơn giản nhưng vẫn đủ ý là yêu
cầu đặt ra đối với mỗi giáo viên khi đặt câu hỏi. Sau đây là một số cách hỏi thương được
sử dụng trong giờ tập đọc.
a) Câu hỏi giúp học sinh thu thập thông tin :
Khi đọc một bài tập đọc học sinh phải thu thập được những thông tin có trong nội
dung bài để kiểm tra được điều đó giáo viên phải đặt ra những câu hỏi giúp học sinh quan
sát, liệt kê hay lựa chọn những thông tin chính xác có trong nội dung bài. Cách hỏi này
thường được sử dụng khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài.
- Quan sát để thu thập thông tin : Trong bài tập đọc, để minh họa cho những chi
tiết, hình ảnh có trong nội dung bài, giáo viên thường sử dụng các loại tranh, ảnh cho học
sinh quan sát. Mỗi khi quan sát, giáo viên lại đặt ra cho học sinh những câu hỏi để các
em tìm ra những chi tiết, hình ảnh liên quan đến nội dung bài.
Ví dụ : Khi dạy bài “ Quang cảnh làng mạc ngày mùa” (Tiết 2 - tuần 1) , giáo
viên có thể cho học sinh quan sát tranh vẽ sách giáo khoa đã được phóng to và hỏi :
Tranh vẽ cảnh gì ? Màu sắc trong tranh như thế nào ?
- Thu thập thông tin bằng cách liệt kê : Đó là dạng câu hỏi mà trong câu trả lời yêu
cầu học sinh phải liệt kê ra những chi tiết, hình ảnh trong câu hỏi đặt ra.
Ví dụ : Kể tên những sự vật trong bài có màu vàng và từ chỉ màu vàng đó
( câu hỏi 1 - trong bài “Quang cảnh làng mạc ngày mùa” ).
- Thu thập thông tin bằng cách lựa chọn : Khác biệt thu thập thông tin bằng cách
liệt kê thì thu thập thông tin bằng cách lựa chọn yêu cầu đặt ra ở đây là học sinh phải biết
lựa chọn những thông tin cần thiết đó là những hình ảnh, những chi tiết phù hợp với nội
dung câu hỏi.
6
Ví dụ : Dựa vào bảng thống kê số liệu trong bài em hãy cho biết : Triều đại nào tổ
chức nhiều khoa thi nhất, triều đại nào có nhiều tiến sĩ nhất ( Câu hỏi 2 trong bài “ Nghìn
năm văn hiến”- tiết 1 - tuần 2 ).
b/ Câu hỏi yêu cầu học sinh giải thích nghĩa cho nội dung thông tin.
Sau khi thu thập được những nội dung thông tin có trong bài, bước tiếp theo là cần
phải giúp các em biết xử lí các thông tin đó bằng cách giải thích nghĩa cho các thông tin
đó . Đó là việc làm yêu cầu học sinh trả lời những câu hỏi manh tính chất so sánh, phân
tích để giải thích nội dung các thông tin .
- Câu hỏi so sánh : Đó là những câu hỏi yêu cầu học sinh tìm ra sự giống, khác
nhau giữa hai hay một số đối tượng nào đó.
Ví dụ : Chiếc áo dài tân thời có gì khác so với chiếc áo dài cổ truyền?
( Câu hỏi 2 trong bài “ Tà áo dài Việt Nam” - Tiết 2 - tuần 30 ) .
- Câu hỏi phân tích : Đó là những câu hỏi tại sao ? Như thế nào ? .... nhằm giải
thích một số vấn đề nào đó cho nội dung thông tin.
Ví dụ : Vì sao rừng khộp được gọi là “ giang sơn vàng rợi” ? ( Bài “ Kỳ diệu rừng
xanh” - tiết 1 tuần 8) .
Người dân Cà Mau có tính cách như thế nào ? ( Câu hỏi 2 trong bài “ Đất Cà
Mau” - tiết 2 - tuần 9 ).
c/ Câu hỏi giúp học sinh đánh giá khái quát nội dung thông tin .
Mỗi bài tập đọc đều có nội dung cụ thể, thông qua hệ thống câu hỏi và bài tập,
giáo viên cần giúp học sinh đánh giá một cách khái quát nội dung của bài. Trong quá
trình tìm hiểu nội dung bài, giáo viên đặt ra những câu hỏi cho học sinh trả lời, trên câu
hỏi đó yêu cầu học sinh nêu nội dung của từng đoạn và nội dung của cả bài.
7
Những câu hỏi đánh giá, khái quát bao gồm các loại câu hỏi nhằm giúp học sinh
liên hệ thực tế, rút ra các bài học, giải quyết các tình huống .
- Câu hỏi liên hệ thực tế : Thông qua nội dung của một đoạn, một ý hay cả bài tập
đọc giáo viên thường đưa ra những câu hỏi giúp học sinh khái quát nội dung đoạn, ý hay
cả bài tập đọc bằng những câu hỏi để các em liên hệ với thực tế việc mình đã làm.
Ví dụ : Em đã thực hiện được những bổn phận gì, còn những bổn phận gì cần tiếp
tục cố gắng để thực hiện? ( Câu 4 - Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em- Tiết 1 ,
tuần 35) .
- Câu hỏi rút ra nội dung bài học : Thông qua nội dung bài tập đọc giáo viên cần
giúp học sinh đánh giá khái quát nội dung bài bằng những câu hỏi tổng quát nêu lên
những ý chính hay đại ý của bài.
Ví dụ : Qua câu chuyện này, em có suy nghĩ gì về quyền học tập của trẻ em? (
Câu 4 - Lớp học trên đường - Tiết 1, tuần 34).
- Câu hỏi giải quyết các tình huống : Đó là những câu hỏi đặt các em vào một tình
huống như đối với các nhân vật trong bài tập đọc để các em đưa ra những ý kiến, suy
nghĩ của mình trước các tình huống đó.
Ví dụ : Nếu được đứng trước tượng đài, em sẽ nói gì với Xa-da-cô ? ( Câu 4 Những con sếu bằng giấy - Tiết 1, tuần 4) .
2/ Một số chú ý khi sử dụng câu hỏi trong dạy học tập đọc .
Mỗi giáo viên đều có những cách hỏi riêng trong khi dạy học tuy nhiên để đạt hiệu
quả cao trong dạy học, giáo viên cần chú ý một số vấn đề sau :
- Cần linh hoạt xủ lí các câu hỏi tùy theo từng đối tượng học sinh, có thể biến đổi
các câu hỏi bằng cách tăng hay giảm độ khó sao cho phù hợp với trình độ học sinh để tiết
học trở nên sinh động và hấp dẫn hơn.
8
- Hệ thống câu hỏi cần được đặt ra theo một trình tự đảm bảo lo-gic, câu hỏi sau
cần cần tiếp nối ý của câu hỏi trước, bổ sung hoàn thiện cho câu hỏi trước. Các câu hỏi
cần móc nối với nhau để tạo ra một ý nghĩa trọn vẹn cho nội dung bài học.
- Câu hỏi đặt ra phải vừa sức đối với học sinh, không quá dễ để học sinh có thể trả
lời ngay được mà không cần phải tư duy suy nghĩ không phát triển được trí tuệ cho các
em, cũng không qúa khó đánh đố học sinh gây sự bế tắc làm cho học sinh chán nản
không có hứng thú trong học tập. Không hỏi học sinh những câu hỏi cụt lủn mà học sinh
chỉ cần trả lời có hoặc không. Những câu hỏi có nhiều đáp án học sinh có thể trả lời liều
vẫn đúng, nội dung câu trả lời không phù hợp với nội dung bài học, những câu hỏi mớm
lời, mách nước lộ liễu cho học sinh ... cũng không nên hỏi học sinh những câu hỏi lấp
lửng mập mờ làm cho các em khó xác định câu trả lời đúng, những câu hỏi có nhiều
nghĩa hoặc tối nghĩa làm cho học sinh bế tắc hoặc bối rối không tìm được câu trả lời....
khi đưa ra câu hỏi cần phải có đủ thời gian cho học sinh suy nghĩ và trả lời câu
hỏi, không yêu cầu học sinh trả lời ngay khi các em chưa kịp suy nghĩ, cũng không để
thời gian quá dài để các em lợi dụng gây mất trật tự lớp học. Phải tìm ra những ưu điểm
trong các câu trả lời của học sinh, đặc biệt không nên dè bỉu hoặc dèm pha những câu trả
lời chưa đúng hoặc không sát với nội dung câu hỏi làm các em tự ti lần sau không dám
phát biểu. Không nên lợi dụng các học sinh khá giỏi trong lớp mà thường xuyên gọi các
em trả lời câu hỏi, cần gọi những học sinh học kém hơn không hay phát biểu ý kiến trả
lời trước rồi mới gọi học sinh khá giỏi bổ sung câu trả lời như vậy mới phát hiện ra
những cái sai mà học sinh gặp phải, hơn thế nữa còn giúp cả lớp có không khí học tập sôi
nổi hơn. Với những câu hỏi khó cần cho học sinh tìm ra hết những phương án trả lời nếu
không có học sinh trả lời nữa lúc đó giáo viên mới đưa ra phương án trả lời tránh tình
9
trạng giáo viên nêu ra câu hỏi rồi lại trả lời ngay giúp học sinh như vậy sẽ không kích
thích tư duy các em phát triển.
- Khi hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi cần bám sát nội dung câu trả lời cũng như
nội dung bài học cần có những dự kiến với những câu trả lời sai của học sinh để ứng phó
với những tình huống có thể xảy ra. Không nên đặt ra nhiều câu hỏi đối với một học sinh
mà cần hướng câu trả lời cho cả lớp cùng tham gia tìm tòi đáp án.
3/ Một số hệ thống câu hỏi minh họa trong dạy học tập đọc ở lớp 5 .
Để nâng cao hiệu quả dạy học tập đọc, ngoài việc lựa chọn phương pháp phù hợp
giáo viên còn cần phải chú ý đến hệ thống câu hỏi để giúp học sinh tìm hiểu bài. Hệ
thống câu hỏi trong sách giáo khoa mặc dù đã được các tác giả chọn lọc và đưa ra tương
đối phù hợp ở mỗi bài xong khi dạy giáo viên cũng cần chú ý đến một số câu hỏi có nội
dung chưa thật phù hợp đối với học sinh do đó cần phải biết lựa chọn, thay thế hoặc biến
đổi các câu hỏi sao cho việc khai thác nội dung bài đọc được liền mạch và kích thích
được khả năng tư duy của học sinh. Sau đây là một số ví dụ minh họa cụ thể .
Ví dụ 1 : Bài “ Chuyện một khu vườn nhỏ” - Tiết 1, tuần 11 .
Nội dung bài nói về một cái ban công mà theo Thu thì đó là một khu vườn nhỏ của
nhà bạn với những loại cây khác nhau và có cả tiếng chim hót ríu rít nữa. Hệ thống câu
hỏi được sách giáo khoa đưa ra như sau :
Câu 1 : Bé Thu thích ra ban công để làm gì ?
Câu 2 : Mỗi loài cây trên ban công nhà bé Thu có những đặc điểm gì nổi bật ?
Câu 3 : Vì sao khi thấy chim về đậu ở ban công, Thu muốn báo ngay cho Hằng biết ?
Câu 4 : Em hiểu “ Đất lành chim đậu” là thế nào ?
10
Nhìn chunghệ thống câu hỏi đưa ra trong bài tương đối phù hợp với trìng độ học sinh
và bám sát nội dung bài đọc tuy nhiên để giúp học sinh hiểu rõ ràng và sâu sắc hơn nội dung
bài giáo viên có thể tham khảo hệ thống câu hỏi đã được thay đổi và bổ sung như sau:
Đối với câu hỏi 1, nếu hỏi như vậy thì đó là một câu hỏi tương đối dễ với học sinh và
câu trả lời chỉ giúp học sinh hiểu được việc làm của Thu khi ra ban công.Song để học sinh
hiểu được Thu thích ra ban công là được nghe ông nội rủ rỉ giảng cho nghe về từng loài cây
thì cần thay đổi câu hỏi đó bằng câu hỏi:Tại sao?(tại sao bé Thu thích ra ban công?)
Đối với câu hỏi 2, đây là một câu hỏi khái quát với nội dung khá dài do đó để giúp
học sinh nắm rõ được đặc điểm của từng loài cây ở đây, giáo viên có thể chẻ nhỏ thành các
câu hỏi như:
-Lá của cây Quỳnh có đặc điểm gì? (Lá của cây Quỳnh dày, giữ được nước).
-Cây hoa Ti gôn có đặc điểm gì? thân của nó thuộc loại thân gì ? (cây hoa Ti gôn
thích leo trèo, có những cái râu thò ra ngọ nguậy như những cái vòi voi bé síu, một cành của
nó quấn chặt vào cây hoa giấy. Thân của nó thuộc loại thân leo ).
- Búp của cây đa ấn Độ có đặc điểm gì ? (Búp của cây đa ấn độ đỏ hồng nhọn hoắt và
khi đủ lớn thì xòe thành chiếc lá nâu rõ to, ở trong lại hiện ra cái búp mới ...).
Nếu không chẻ nhỏ như trên thì học sinh khó có thể phân tích được đặc điểm nổi bật
của từng loại cây ở đây.
Đối với câu 3, đây là một câu hỏi tương đối khó với học sinh. Để tìm ra được nội
dung câu trả lời học sinh phải hiểu được điều Thu chưa vui là do cái Hằng ở nhà dưới cứ bảo
ban công nhà Thu không phải là vườn vì vậy khi thấy chim về đậu ở ban công Thu phải báo
ngay cho Hằng để chứng minh cho Hằng biết khu vườn nhà Thu đúng là vườn. Theo Thu thì
“ Ban công có chim về đậu tức là vườn rồi “. Việc làm đó quả thật rất khó đối với học sinh,
thay cho câu trả lời đúng chắc chắn sẽ có nhiều học sinh đọc lại toàn bộ “Một sớm chủ nhật
11
... tức là vườn rồi!” mà bỏ quyên mất điều cần nêu cho câu hỏi đó là “ Có điều Thu chưa vui
...Không phải là vườn!”.Vì vậy khi dậy giáo viên có thể biến đổi câu hỏi đó thành các câu
hỏi khác như sau:
Thu đã phát hiện ra điều gì khác tại ban công nhà mình ? (Thu đã phát hiện ra chú
chim lông xanh biếc xà xuống cành Lựu ...).
Điều đó đã giúp Thu chứng minh cho Hằng biết điều gì? (điều đó đã giúp THu chứng
minh cho Hằng biết ban công nhà Thu cũng là vườn bởi vì có chim về đậu).
Theo em thì Thu nói có đúng không, tại sao? (Đối với câu hỏi này giúp các em liên hệ
thực tế, sẽ có nhiều đáp án khác nhau tùy theo cách hiểu của mỗi học sin, giáo viên nên giúp
học sinh hiểu thế nào là vườn và cho các em biết ban công nhà Thu cũng là một khu vườn
nhỏ).
Đối với câu hỏi 4, việc giúp học sinh hiểu được nội dung câu thành ngữ đó không khó
nhưng để các em liên hệ được rằng ban công nhà Thu là một khu vườn tuyệt vời thì là một
việc không đễ chút nào,do đó sau khi học sinh trả lời câu hỏi giáo viên cần bổ sung thêm câu
hỏi có nội dung sau: “Em có nhận xét gì về câu nói của ông Thu.” Hoặc “ Câu nói của ông
Thu cho em biết ban công nhà Thu là một nơi như thế nào? “(Ban công của nhà Thu là một
nơi rất đẹp, rất tuyệt vời ...)
Ví dụ 2: Bài : Đất nước ( Tiết 2- Tuần 27)
Nội dung của bài đọc nổi lên niềm vui, niềm tự hào về đất nước tự do và tình yêu tha
thiết của tác giả đối với đất nước, đối với truyền thống bất khuất của dân tộc. Hệ thống câu
hỏi trong sách giáo khoa được đưa ra như sau:
Câu 1: “ Những ngày thu đã xa” được tả trong hai khổ thơ đầu đẹp mà buồn. Em hãy
tìm những từ ngữ nói lên điều đó.
12
Câu 2: Cảnh đất nước trong mùa thu mới được tả trong khổ thơ thứ ba đẹp như thế
nào?
Câu 3: Lòng tự hào về đất nước tự do và về truyền thông bất khuất của dân tộc được
thể hiện qua những từ ngữ, hình ảnh nào trong hai khổ thơ cuối?
Câu 4: Học thuộc lòng bài thơ.
Cũng như ở ví dụ 1, nhìn chung hệ thống câu hỏi đưa ra ở đây tương đối hoàn chỉnh
và phù hợp với trình độ học sinh. Tuy nhiên đây là một bài thơ hay nên nếu chỉ dừng lại ở
nội dung các câu hỏi trên thì có thể học sinh vẫn chưa cảm nhận được vẻ đẹp của đất nước
với những truyền thống vẻ vang của đất nước.
Ở câu1, trong câu hỏi đã nêu rõ “ Những ngày thu đã xa” Được tả trong hai khổ thơ
đầu đẹp mà buồn, do đó học sinh phải nêu rõ được những hình ảnh đẹp và những hình ảnh
buồn. Nếu không có thêm câu hỏi phụ, sẽ rất ít học sinh phân được điều đó ngược lại nếu
giáo cho học sinh trả lời tiếp các câu hỏi: Hình ảnh của “Những ngày thu đã xa “ Đẹp như
thế nào? và hình ảnh của “ Những ngày thu đã xa “ Buồn như thế nào ? sẽ giúp các em hiểu
sâu sắc hơn nội dung của hai khổ thơ với những hình ảnh “Sáng mát trong,gió thổi mùa thu,
hương cốm mới,” Thật là đẹp của mùa thu Hà Nội những năm kháng chiến, nhưng “ Những
ngày thu ấy” cũng thật buồn bởi đất nước vẫn còn chiến tranh và hình ảnh “ Sáng chớm lạnh,
những phố dài xao xác hơi may, thềm nắng lá rơi đầy, người ra đi đầu không ngoảnh lại” sẽ
giúp học sinh liên tưởng được nét buồn sâu lắng nhưng rất đỗi tự hào của dân tộc ta những
năm kháng chiến.
ở câu 2, tương tự như vậy để học sinh hiểu rõ hơn cảnh đẹp của đất nước trong mùa
thu mới giáo viên cần cho học sinh nắm được biện pháp tu từ mà tác giả đã sử dụnh trong
khổ thơ nhằm nói lên niềm vui phơi phới, rộn ràng của thiên nhiên đất nước trong mùa thu
thắng lợi. Do đó cần đưa ra câu hỏi bổ sung; tác giả đã sử dung biện pháp tu từ gì để tả cảnh
13
đẹp của thiên nhiên, đất nước trong mùa thu mới đó?( Đó là biện pháp tu từ nhân hóa “Rừng
tre phấp phới : “ Trời thu thay áo mới “: “Trong biếc nói cười thiết tha” )
ở câu 3, đây là một câu hỏi khá dài đối với học sinh và các em sẽ dễ đưa ra câu trả lời
bằng cách đọc lại toàn bộ cả hai khổ thơ. Để gíup học sinh hiểu một cách sâu sắc khi dạy
giáo viên cần tách thành các câu hỏi nhỏ như sau :
Trong khổ thơ thứ 3, những từ ngữ, hình ảnh nào nói lên lòng tự hào về đất nước tự
do của dân tộc ta ?
( Trời xanh đây, núi rừng đây, là của chúng ta, những cánh đồng thơm mát ...)
Cụm từ “ Là của chúng ta” Lặp lại nhằm mục dích gì? (nhấn mạnh niềm tự hào và
hạnh phúc của đất nước khi đã được độc lập tự do).
Lòng tự hào về truyền thống bất khuất của dân tộc được thể hiện qua những từ ngữ
nào trong khổ thơ cuối? ( Những người chưa bao giờ khuất, đêm đêm, rì rầm trong tiếng đất,
ngày xưa vọng nói về ).
Kết quả của việc thực hiện
Sau khi thực hiện biện pháp trên vào việc dạy phân môn tập dọc lớp 5 tôi thấy về mặc
chuyên môn tôi hiểu biết thêm nhiều và tự tin không còn lo học sinh mình “yếu quá “ Không
hiểu nội dung bài tập đọc như trước nữa. Tôi càng vui hơn khi thấy học sinh của mình tiến
bộ nhiều, nội dung kiến thức các bài văn bài thơ dã học các em nắm rất chắc: và đọc diễn
cảm tốt các bài văn bài thơ đó
Qua khảo sát kết quả cuối năm học 2006- 2007 của lớp tôi dạy đã thu được kết quả
như sau :
HS hiểu, nắm chắc nội dung bài.
HS hiểu bài
Sĩ số
Chưa hiểu bài
Đọc diễn cảm tốt
Số lượng
Số lượng
%
14
%
Số lượng
%
30
22
73%
8
27%
0
0
Điều đó chứng tỏ biện pháp khai thác và sử dụng hợp lý hệ thống câu hỏi trong bài
tập đọc lớp 5 của tôi đã có hiệu quả cao
Phần III; Kết luận và bài học kinh nghệm .
1. Kết luận :
Câu hỏi trong bài tập đọc thường được đặt ra trên cơ sở gắn với nhân vật tình tiết,
hình ảnh, ngôn ngữ, ý nghĩa ... của văn học, là cư sử quan trọng định hướng suy nghĩ, tìm tòi
giúp học sinh dễ dàng tiếp cận bài đọc có kết quả. Không có hệ thống câu hỏi hợp lý học
sinh không có chỗ dựa để hiểu biết đầy đủ từng bộ phận, từng nội dung văn bản đọc. Câu hỏi
có ý nghĩa giúp học sinh định hướng đúng quá trình tìm hiểu văn bản đọc. Câu hỏi giúp học
sinh phát triển được tư duy sáng tạo, độc lập từ thấp lên cao theo định hướng mục tiêu giáo
dục.
Do đó bồi dưỡng kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học Tiếng Việt nói chung và
phân môn tập đọc nói riêng là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa đối với mỗi giáo
viên tiếu học. Khai thác và hệ thống sử dụng câu hỏi trong sách giáo khoa hợp lý và hiệu quả
giáo viên sẽ giúp học sinh hiếu bài một cách sâu sắc và có hứng thú hơn trong học tập. để
làm được điều đó đòi hỏi ở mỗi giáo viên sự linh hoạt và sáng tạo trong mõi tiết dạy.
2. Bài học kinh nghiệm :
*Đối với giáo viên .
_Muốn khai thác và sử dụng hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa hợp lý và hiệu
quả thì điều trước tiên giáo viên phải đọc và hiểu rõ nội dung bài tập đọc từ đó lập kế hoạch
cho bài gảng ( Khi soạn giáo viên cần soạn chi tiết phần tìm hiểu bài trong giao án )
15
-Để giúp học sinh trả lời các câu hỏi trong bài tập đọc giáo viên nhất thiết phải hướng
dẫn các em nắm vững đặc trưng hệ thống câu hỏi trong từng loại văn bản khác nhau trước
khi yêu cầu các em trả lời. Nếu học sinh chưa nắm chắc được sự khác biệt giữa các lọai bài
đọc thì chất lượng trả lời sẽ không đạt yêu cầu mong muốn .
- Giáo viên cần bố trí thời gian phù hợp để các em đọc, hiểu văn bản, hiểu đầy đủ yêu
cầu của các câu hỏi. Giáo viên có thể nêu hoặc để học sinh xác định yêu cầu cụ thể của mỗi
câu hỏi học sinh mới có thể trả lời chính xác được. Giáo viên không nhất thiết nóng vội chạy
theo thời gian cho xong nội dung cần dạy. Chỉ có trên cơ sở học sinh nắm được câu hỏi và
trả lời câu hỏi thì kết quả đọc của học sinh mới đạt kết quả.
- Giáo viên thường xuyên dự giờ, học hỏi kinh nghiệm, nghiên cứu tài liệu, sách tham
khảo để trau dồi thêm kiến thức và phương pháp dạy học.
- Giáo viên luôn tạo hứng thú học tập và bồi dưỡng cảm thụ văn học cho học sinh.
*Đối với học sinh:
- Các em phải có ý thức tự học, tự rèn luyện, tự suy nghĩ và chăm chú nghe thầy cô
giảng và ý kến phát biểu của các bạn.
- Đăc biệt các em phải có lòng say mê học tập và yêu thích văn học
PHẦN IV
NHỮNG Ý KIẾN ĐỀ XUẤT.
1/ Đề nghị với tổ chuyên môn và nhà trường
- Tổ trưởng chuyên môn phải nghiên cứu, nắm chắc các phương pháp giảng dạy
của chương trình môn Tiếng Việt để bồi dưỡng chuyên môn cho đồng nghiệp và thống
nhất cách dạy từng phân môn trong tổ khối.
16
- Nhà trường quán triệt tinh thần trách nhiệm và lương tâm nhề nghiệp của giáo
viên trong dạy học.
2/ Đề xuất với phòng Giáo Dục:
- Đối với những sáng kiến của giáo viên trong ngành có giá trị áp dụng trong giảng
dạy, phòng Giáo dục cần in thành tập san để các trường học tập những kinh nghiệm quý
báu áp dụng vào giảng dạy.
- Có sự khuyến khích và động viên những sáng kiến hay
Trên đây là suy nghĩ của cá nhân tôi về kinh nghiệm: “Biện pháp khai thác và sử
dụng hợp lý hệ thống câu hỏi trong giảng dạy phân môn tập đọc sách Tiếng Việt 5”.
Viết sáng kiến này tôi muốn trao đổi và xin ý kiến góp ý chân thành của các bạn đồng
nghiệp.
Rất mong sự giúp đỡ của các đồng chí !
Ngày 19 tháng 11 năm 2007
17
- Xem thêm -