Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo GDCD-GDNGLL Skkn chủ nhiệm thpt công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ...

Tài liệu Skkn chủ nhiệm thpt công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông

.PDF
35
1030
105

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIA LAI TRƯỜNG THPT HOÀNG HOA THÁM TỔ NGOẠI NGỮ  ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SƯ PHẠM ỨNG DỤNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Họ và tên: Nguyễn Thị Thương Chức vụ: Phó Hiệu trưởng Năm học: 2012-2013 Gia Lai, tháng 3/2013 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó” và Người đã đưa ra nguyên lý về đạo đức: “Cây thì phải có gốc, sông thì phải có nguồn, là người thì phải có đạo đức. Nếu cây không có gốc thì cây chết, sông không có nguồn thì sông cạn, làm người mà không có đạo đức thì không phải là người”. Con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, là động lực của mọi sự phát triển xã hội. Con người càng có nhân cách cao đẹp thì sự tác động của con người đến xã hội đó càng to lớn. Do đó không thể xem nhẹ vai trò của giáo dục trong sự phát triển của xã hội. Trong các mặt giáo dục Đức, Trí, Thể, Mỹ và Lao động - Hướng nghiệp - Dạy nghề, giáo dục đạo đức bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu “Được xem là nền tảng, gốc rễ để tạo ra nội lực tiềm tàng vững chắc cho các mặt giáo dục khác”. Thời kì hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra những cơ hội to lớn cho đất nước, chúng ta đã đạt được những thành tựu rất đáng kể về Kinh tếVăn hóa- Xã hội. Song thách thức cũng không nhỏ, đó là mặt trái của nền kinh tế thị trường đã và đang tác động rất mạnh đến tư tưởng, lối sống của một bộ phận dân cư, trong đó không thể không kể đến một bộ phận lớn thanh niên, thiếu niên, học sinh, sinh viên sống thụ động, không có lý tưởng, không có mục đích rõ ràng, sống chạy theo các nhu cầu vật chất tầm thường, ngại cống hiến, ngại khó khăn, sống thích hưởng thụ - sống “nhờ”, sống không có niềm tin, hoang mang, buông thả... Đảng ta đã nhận định và đánh giá thực trạng này trong văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 2 khóa VIII: “Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lí tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai bản thân và đất 2 nước” và cũng đã nêu rõ: “Xây dựng những con người và thế hệ trẻ thiết tha, gắn bó với lí tưởng độc lập dân tộc và CNXH, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” Vì vậy công tác giáo dục đạo đức cho học sinh chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Để đáp ứng mục tiêu giáo dục theo xu hướng của thời đại, việc cần thiết và mang tính cấp bách hiện nay đó là việc nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường. Đối với trường THPT Hoàng Hoa Thám, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai trong những năm gần đây đang dần khởi sắc, đạt được những kết quả đáng khích lệ trong giáo dục toàn diện đó là nhờ vào kết quả của giáo dục kỷ cương, nề nếp đặc biệt là giáo dục đạo đức cho học sinh. Nhiều giải pháp thích hợp được áp dụng nhằm nâng cao giáo dục đạo đức học sinh góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường. Xuất phát từ những lý do khách quan và chủ quan như đã phân tích ở trên, tôi chọn đề tài: “Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học phổ thông” nhằm đưa ra những biện pháp trong quá trình làm công tác giáo dục học sinh tại trường THPT Hoàng Hoa Thám, Pleiku, Gia Lai. 2. Mục đích nghiên cứu: - Nghiên cứu thực trạng công tác giáo dục đạo đức học sinh ở trường THPT Hoàng Hoa Thám, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai. - Đề cập một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức ở trường THPT Hoàng Hoa Thám, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai nhằm đào tạo ra con người mới đáp ứng yêu cầu của quê hương đất nước trong giai đoạn phát triển hiện nay. 3. Đối tượng nghiên cứu: - Nghiên cứu thực tế ở đối tượng học sinh của trường THPT Hoàng Hoa Thám, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai. 3 - Từ thực trạng, đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh ở trường THPT Hoàng Hoa Thám, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Xác định cơ sở khoa học của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THPT. - Phân tích, đánh giá thực trạng đạo đức học sinh ở trường THPT Hoàng Hoa Thám, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai. - Nêu một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức ở trường THPT Hoàng Hoa Thám, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai. 5. Phương pháp nghiên cứu: - Nghiên cứu các tài liệu của Đảng về giáo dục-đào tạo, của Bộ Giáo dục và Đào tạo. - Nghiên cứu các giáo trình, tài liệu, các kinh nghiệm thực tiễn về giáo dục đạo đức học sinh. - Khảo sát thực tế, điều tra thực tế, so sánh, thống kê chất lượng giáo dục đạo đức trong 2 năm học gần đây 2010-2011, 2011-2012 của trường THPT Hoàng Hoa Thám, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai. 6. Phạm vi nghiên cứu: Trường THPT Hoàng Hoa Thám, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai. 4 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 Cơ sở khoa học của công tác giáo dục đạo đức học sinh THPT 1.1. Cơ sở lý luận của công tác giáo dục đạo đức học sinh trong trường THPT - Xét về góc độ tâm lý lứa tuổi: Theo tổ chức Y tế thế giới WHO độ tuổi vị thành niên từ 10 đến 19 tuổi. Ở Việt Nam quy định độ tuổi vị thành niên từ 10 đến 18 tuổi. Như vậy học sinh THPT ở lứa tuổi cuối lứa tuổi vị thành niên, là giai đoạn phát triển mạnh về thể chất và sinh lý. Ở thời kỳ chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn này, các em luôn có xu hướng khẳng định mình, có ý thức vươn lên làm chủ bản thân, muốn tìm tòi, phát hiện khám phá, tìm hiểu những điều chưa biết của cuộc sống, các em muốn có quyền tự quyết định trong các công việc và việc làm của mình và không muốn sự ràng buộc của gia đình, bố mẹ và người lớn tuổi. Ở giai đoạn phát triển này sự kiểm tra, giám sát, chỉ đạo của người lớn làm các em cảm thấy rất khó chịu, bực bội và rất dễ nổi nóng. - Xét về góc độ xã hội: Ở lứa tuổi này sự giao tiếp với bạn bè là nhu cầu rất lớn. Các em có xu hướng tụ tập thành từng nhóm có cùng sở thích, phù hợp tính tình để vui chơi, đùa nghịch, có những lúc, những nơi các em có hành động không đúng, không phù hợp với lứa tuổi của mình. Trong giai đoạn này quá trình phát triển sinh lí ảnh hưởng rất nhiều đến tính cách của các em, các em rất dễ bị xúc động khi có một tác động nào đó, lòng kiên trì và khả năng tự kiềm chế yếu, các em dễ bị lôi kéo kích động. Ở lứa tuổi này tính tình không ổn định, dễ nổi cáu, khi thì quá sôi nổi, nhiệt tình nhưng khi gặp khó khăn lại dễ buông xuôi, chán nản. Hơn nữa các em luôn ở hoặc trạng thái hiếu thắng hoặc tự ti vì thế dễ dàng dẫn đến những hành động thiếu suy 5 nghĩ chín chắn, nhiều lúc vi phạm nội quy học sinh (hoặc chuẩn mực đạo đức) mà vẫn không biết. Trong cuộc sống, các mối quan hệ con người với thiên nhiên, con người với xã hội, con người với con người, con người với chính bản thân vô cùng phong phú và phức tạp. Nếu cách ứng xử không phù hợp với lợi ích của xã hội thì các cá nhân, tổ chức sẽ bị lên án và coi là thiếu đạo đức. Vì vậy để chỉ đạo và quản lý tốt quá trình giáo dục đạo đức học sinh trong trường THPT, chúng ta cần phải nắm được Đạo đức là gì? Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm đạo đức. Tuy nhiên có thể hiểu khái niệm này dưới 2 góc độ: * Góc độ xã hội: Đạo đức là một hình thái xã hội đặc biệt được phản ánh dưới dạng nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực điều chỉnh (hoặc chi phối) hành vi của con người trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa con người với xã hội, giữa con người với nhau và với chính bản thân mình. * Góc độ cá nhân: Đạo đức chính là những sản phẩm, nhân cách của con người, phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng xử của họ trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, giữa bản thân họ với người khác và với chính bản thân mình. Quá trình hình thành và phát triển đạo đức của cá nhân, của con người là quá trình tác động qua lại giữa xã hội và cá nhân để chuyển hoá những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực, giá trị đạo đức - xã hội thành những phẩm chất đạo đức cá nhân, làm cho cá nhân đó trưởng thành về mặt đạo đức, công dân và đáp ứng các yêu cầu của xã hội. Quá trình giáo dục đạo đức là một hoạt động có tổ chức, có mục đích, có kế hoạch nhằm biến những nhu cầu, chuẩn mực, giá trị đạo đức theo yêu cầu của xã hội thành những phẩm chất, giá trị đạo đức của cá nhân, nhằm góp 6 phần phát triển nhân cách của mỗi cá nhân và thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của xã hội. Đặc điểm của quá trình giáo dục đạo đức - Có sự gắn kết chặt chẽ với quá trình dạy học trên lớp và dạy học giáo dục ngoài giờ lên lớp. - Có định hướng thống nhất các yêu cầu, mục đích giáo dục giữa các tổ chức giáo dục trong và ngoài nhà trường. - Tính biện chứng, phức tạp trong quá trình phát triển, biến đổi về nhân cách của học sinh về mặt đạo đức. - Tính lâu dài của quá trình hình thành, phát triển các phẩm chất đạo đức. - Tính đột biến và khả năng tự biến đổi. - Phát triển thông qua hoạt động và giao lưu tập thể. - Tính cá thể hoá cao. - Chứa nhiều mâu thuẫn. - Có sự tương tác hai chiều giữa nhà giáo dục và đối tượng được giáo dục. - Tính khó khăn trong việc đánh giá kết quả, sự phát triển đạo đức của cá nhân. Chức năng, nhiệm vụ của quá trình giáo dục đạo đức - Quá trình giáo dục đạo đức là một bộ phận cấu thành quá trình giáo dục trong trường THPT. Tạo ra nhịp cầu gắn kết giữa nhà trường và xã hội, con người với cuộc sống. - Giáo dục đạo đức được xem là nền tảng, gốc rễ tạo ra nội lực tiềm năng vững chắc cho các mặt giáo dục khác. - Giáo dục đạo đức phải làm cho học sinh thấm nhuần sâu sắc thế giới quan Mác - Lênin, tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh, tính 7 chân lý khách quan của các giá trị đạo đức, nhân văn, nhân bản của các tư tưởng đó, coi đó là kim chỉ nam cho hành động của mình. - Giáo dục đạo đức phải thấm nhuần các chủ trương, chính sách của Đảng, biết sống và làm việc theo pháp luật, sống có kỷ cương nền nếp, có văn hoá trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội và giữa con người. - Trên cơ sở thông qua việc tiếp cận với cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc và hoạt động của cá nhân để củng cố niềm tin và lẽ sống, lý tưởng sống, lối sống theo con đường CNXH. - Giáo dục đạo đức phải làm cho nhận thức ngày càng sâu sắc nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực và các giá trị đạo đức xã hội XHCN. Biến các giá trị đó thành ý thức, tình cảm, hành vi, thói quen và cách ứng xử trong đời sống hàng ngày. - Quá trình giáo dục đạo đức cần phải theo đặc điểm của từng loại đối tượng trong giáo dục. - Quá trình giáo dục đạo đức có nhiệm vụ: Phát triển nhu cầu đạo đức cá nhân; hình thành và phát triển ý thức đạo đức; rèn luyện ý chí, hành vi, hình thành thói quen ứng xử đạo đức; phát triển các giá trị đạo đức cá nhân theo những định hướng giá trị mang tính đặc thù dân tộc và thời đại. - Quá trình giáo dục đạo đức không chỉ định hướng cho các hoạt động giáo dục đạo đức mà còn định hướng cho hoạt động dạy học nói chung, dạy môn học đạo đức nói riêng (môn GDCD, một số môn học khác…). Với tư cách là người quản lý giáo dục, trước hết cần phải hiểu biết một cách sâu sắc những vấn đề chung của quá trình giáo dục đạo đức. Từ đó mới có những định hướng, mục tiêu sát thực, xây dựng được những chương trình, kế hoạch khả thi và có những biện pháp tổ chức chỉ đạo thích hợp để nâng cao chất lượng và hiệu quả của quản lý giáo dục nói chung, quá trình giáo dục đạo đức nói riêng. 8 Nội dung giáo dục đạo đức Trong giai đoạn hiện nay, ở nước ta đang diễn ra công cuộc đổi mới sâu sắc trong phạm vi toàn xã hội. Sự nghiệp giáo dục luôn được coi trọng, là "Quốc sách hàng đầu". Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cho học sinh cần được coi trọng và đặt lên vị trí hàng đầu. Giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức cần phải tăng cường giáo dục thế giới quan khoa học. Trên cơ sở tăng cường thế giới quan khoa học cần tăng cường giáo dục tư tưởng cách mạng XHCN cho học sinh. Qua giáo dục đạo đức phải nâng cao lòng yêu nước, tăng cường ý thức lao động và tự lao động (động cơ, thái độ đúng đắn, chăm chỉ, nỗ lực vươn lên làm chủ khoa học). Bên cạnh đó cũng phải đồng thời tăng cường giáo dục pháp luật, giáo dục lòng thương yêu con người và hành vi ứng xử có văn hoá (không ăn nói cục cằn, thô lỗ, thiếu văn hoá, thiếu tôn trọng người khác, biết ứng xử lễ phép tế nhị, lịch sự) Trong nhà trường phổ thông, các phẩm chất đạo đức cần trau dồi cho học sinh một cách liên tục, khoa học, hợp lý, và được phân thành từng nhóm theo từng mối quan hệ xã hội: quan hệ cá nhân với xã hội, cộng đồng (trung thành với lý tưởng CNXH và CNCS, yêu nước XHCN, yêu hoà bình, tự hào dân tộc, tin yêu Đảng và kính yêu Bác Hồ…); quan hệ cá nhân với lao động (chăm chỉ học tập, say mê khoa học kỹ thuật, quý trọng lao động); quan hệ cá nhân với bản thân, với người khác như ruột thịt, bạn bè, đồng chí; đồng thời cũng phải giáo dục đạo đức gia đình, quan hệ bạn bè, tình yêu. 1.2. Cơ sở pháp lý của công tác giáo dục đạo đức học sinh trong trường THPT Trong văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII đã nêu rõ: "Nhiệm vụ mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và 9 CNXH, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, CNH-HĐH đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có tính tổ chức kỷ luật cao là những con người kế thừa và xây dựng CNXH vừa hồng vừa chuyên". Luật Giáo dục năm 2005 (Điều 2, Chương I) nêu rõ: "Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Luật Giáo dục năm 2005 (Điều 23, mục 2, Chương II): "Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". - Điều lệ trường THCS, trường THPT, trường THPT có nhiều cấp học ban hành theo Thông tư số 12/2011/TT- BGDĐT (Điều 28, Chương III) quy định về việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học sinh và việc thông tin với phụ huynh học sinh. - Điều lệ trường THCS, trường THPT, trường THPT có nhiều cấp học (Điều 41, Chương V) quy định những điều cấm đối với học sinh. - Điều lệ trường THCS, trường THPT, trường THPT có nhiều cấp học (Điều 45, 46, 47 Chương VII) quy định về quan hệ giữa nhà trườnggia đình và xã hội. 10 1.3. Cơ sở thực tiễn của công tác giáo dục đạo đức học sinh trong trường THPT Hồ Chủ tịch đã dạy: “Công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường là một bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của công tác trong nhà trường XHCN. Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả đức lẫn tài, đức là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng” Trong sự nghiệp xây dựng CNXH của nước ta, đòi hỏi con người Việt Nam phát triển toàn diện đúng như định hướng của Đảng. Song trong thực tế không ít học sinh không xác định được hướng đi đúng đắn, nhận thức còn hạn chế, không có lí tưởng rõ ràng, không chịu phấn đấu rèn luyện, sống chỉ biết đòi hỏi quyền lợi mà không tự hỏi mình đã cống hiến gì cho xã hội và những người xung quanh. Giáo dục đạo đức học sinh phải được tiến hành bằng nhiều biện pháp, có mục tiêu phù hợp. Phải được xây dựng nội dung, kế hoạch cụ thể và được làm thường xuyên liên tục, phải có hệ thống mới đạt kết quả cao. Giáo dục đạo đức cho học sinh phải được tiến hành bằng nhiều hình thức phong phú, linh hoạt, phù hợp với lứa tuổi học sinh. Thông qua các hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường. Đồng thời phải biết kết hợp giáo dục giữa nhà trường - gia đình - xã hội để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Huy động mọi nguồn lực, mọi sự hỗ trợ của tất cả các tổ chức, các cơ quan ban ngành, các đoàn thể cùng phối hợp để thực hiện tốt xã hội hoá giáo dục, góp phần nâng cao đạo đức, chất lượng cho học sinh. 11 Chương 2 Thực trạng của công tác giáo dục đạo đức học sinh trường THPT Hoàng Hoa Thám 2.1. Khái quát đặc điểm kinh tế- xã hội của phường Yên Thế Phường Yên Thế nằm ở cửa ngõ phía Bắc của thành phố Pleiku, có vị trí chiến lược quan trọng về an ninh trật tự, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của thành phố. Diện tích tự nhiên 1,276,13 ha; dân số 4.067 hộ với 18.108 nhân khẩu, có 17 tổ dân phố với 4.051 hộ là dân tộc kinh- 18.076 nhân khẩu và 1 làng đồng bào dân tộc thiểu số Brukngol (Tày, Êđê, Chăm, Giao và Giẻ Triêng). Là phường vùng ven, đời sống kinh tế của đại bộ phận nhân dân chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ngày được cải thiện. Các ban ngành đoàn thể ngày được củng cố vững chắc, và hoạt động có hiệu quả cao. Về chính trị: Trong những năm qua, Đảng uỷ phường làm tốt công tác vận động quần chúng nêu cao tinh thần cảnh giác đấu tranh làm thất bại âm mưu diễn biến hoà bình của kẻ địch, giữ vững an ninh chính trị- trật tự an toàn xã hội trên địa bàn phường. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy, niềm tin của cán bộ đảng viên và nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng được nâng lên khá cao. Kinh tế phát triển hàng năm, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện. Áp dụng khoa học - kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, nhiều loại giống cây trồng mới đạt hiệu quả được nhân dân đưa vào đầu tư canh tác với diện tích lớn, tập trung chủ yếu là các loại cây ăn quả, cây công nghiệp như: cao su, cà phê, sầu riêng, bơ, ...; nhiều hộ gia đình mạnh dạn thành lập trang trại gia đình, mở doanh nghiệp tư nhân đáp ứng nhu cầu của người dân địa phương. Hạ tầng đường giao thông được đẩy mạnh đầu tư xây dựng. 12 Về văn hoá xã hội, các cuộc vận động xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ vì người nghèo, quỹ chăm sóc người cao tuổi, quỹ bảo trợ trẻ em đạt kết quả cao; cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” đã đi vào chiều sâu và có hiệu quả cao; các chính sách xã hội khác được quan tâm nhiều. 2.2. Một số nét về trường THPT Hoàng Hoa Thám Trường THPT Hoàng Hoa Thám nằm trên địa bàn phường Yên Thế, vùng ven thành phố Pleiku, được thành lập vào ngày 01 tháng 02 năm 1996 theo quyết định số 98/QĐUB của UBND tỉnh Gia Lai. Quá trình xây dựng và phát triển, đội ngũ giáo viên của nhà trường ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng; cơ sở vật chất được đầu tư xây dựng đáp ứng tương đối đầy đủ cho nhu cầu giảng dạy của thầy và học tập của trò, đặc biệt là chất lượng giáo dục học sinh. Nguồn học sinh được xét tuyển chủ yếu là con em thuộc các phường, xã lân cận của thành phố (xã An Phú và xã Biển Hồ) và một số xã của các huyện (xã Chư Đăng Ya- ChưPăh, xã IaDêr- Iagrai). Năm học 2012-2013, nhà trường có 37 lớp với tổng số học sinh là 1555 (Tính đến hết HKI). Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên gồm 92 đồng chí. Cơ cấu tổ chức của nhà trường như sau: - Chi bộ gồm 22 đồng chí đảng viên- Luôn đạt chi bộ TSVM. - Lãnh đạo nhà trường gồm 4 đồng chí được phân công nhiệm vụ cụ thể. - Tổ chức Công đoàn được kiện toàn và luôn đạt CĐCS vững mạnh xuất sắc. -Tổ chức Đoàn thanh niên có 38 chi đoàn, trong đó 37 chi đoàn học sinh và 1 chi đoàn giáo viên (CĐGV gồm 15 đồng chí). Luôn đạt đạt danh hiệu vững mạnh xuất sắc. 13 Kết quả giáo dục trong 2 năm gần đây như sau : Năm học Kết quả hạnh kiểm Số học Tốt Khá TB Yếu 753 347 374 08 50.8% 23.4% 25.2% 0.6% 689 369 290 03 51.0% 37.3% 21.5% 0.2% sinh 2010-2011 1482 2011-2012 1351 Kết quả học tập Số học Năm học sinh 2010-2011 1482 2011-2012 1351 HS đậu Giỏi Khá TB Yếu Kém 39 250 676 431 86 478/490 2.6% 16.9% 45.6% 29.1% 5.8% 97.55% 38 270 664 350 29 378/379 2.8% 20.0% 49.1% 25.9% 2.2% 99.73% đại học Qua bảng trên, chúng ta thấy rất rõ rằng kết quả giáo dục của năm học sau cao hơn năm học trước. Số học sinh vi phạm buộc phải xử lí kỷ luật cũng theo xu hướng giảm đi nhiều. Học sinh vi phạm bị xử lí kỷ luật ở các mức độ đuổi học, đuổi học 1 tuần, hoặc cảnh cáo cũng giảm nhiều. Học sinh khối 11, khối 12 có ý thức hơn nên ít vi phạm hơn học sinh khối 10. (phụ lục 1, 2) Đạt được kết quả trên đó là nhờ sự nỗ lực của đội ngũ quản lý, các tổ chức trong nhà trường, đặc biệt là tập thể hội đồng sư phạm nhà trường. 2.3. Những tồn tại, khó khăn Trong những năm công tác trước đây tại trường (từ năm 2010 trở về trước), tôi nhận thấy do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan làm cho chất lượng giáo dục chưa cao đó là kỷ cương nề nếp của học sinh chưa 14 thực sự được đưa lên hàng đầu, còn thiếu những giải pháp cụ thể trong việc nâng chất lượng chất lượng đạo đức cho học sinh. Việc kết hợp giữa giáo dục nhà trường - gia đình - xã hội còn chưa thật sự sâu sát. Nhiều trường hợp địa phương còn bao che, giải quyết chưa nhất quán. Nhiều phụ huynh phó mặc con em cho nhà trường vì mải đi kiếm sống xa nhà hoặc nuông chiều quá mức, bất lực trong giáo dục con cái. Một số giáo viên còn trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm trong xử lý tình huống sư phạm, thiếu kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp, đôi khi còn lúng túng, hoặc quá cứng nhắc, áp đặt, thiếu tính thuyết phục trong công tác giáo dục học sinh. Bên cạnh đó, chất lượng đầu vào còn thấp so với mặt bằng, năng lực tiếp thu kiến thức của học sinh còn hạn chế đã dẫn đến ở học sinh còn có những biểu hiện sa sút về mặt đạo đức như sau: - Một số em chưa xác định được mục tiêu học tập, có nhiều trường hợp coi việc học là do gia đình yêu cầu nên thiếu động cơ học tập. - Phần lớn các em là con nhà nông hoặc buôn bán nhỏ, một số học sinh ở trọ vì nhà xa, số khác phải tự lập ở nhà một mình vì bố mẹ đi làm lô rẫy xa nên trong giao tiếp các em còn vụng về, hay nói trống không hoặc nói năng còn cục cằn không suy nghĩ, nhiều lúc còn phát ngôn bừa bãi. - Một số em còn mải chơi, đua đòi, thiếu trung thực trong học tập, cúp học chơi games thậm chí có em còn gây bè phái đánh nhau làm mất trật tự trong nhà trường. 2.4. Nhiệm vụ đặt ra trong công tác quản lý nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh ở trường THPT Hoàng Hoa Thám Trên cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và phân tích cụ thể thực trạng công tác giáo dục đạo đức học sinh ở trường qua những năm học trước, từ năm học 2010-2011 lãnh đạo nhà trường đã chỉ đạo làm tốt công tác giáo dục đạo đức học sinh với nhiệm vụ cụ thể đó là: 15 a. Tăng cường sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng. b. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của đội ngũ giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục đạo đức và rèn luyện nhân cách cho học sinh (đặc biệt là GVCN). c. Phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của Đoàn thanh niên và Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam. d. Đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thống. e. Phát huy hoạt động tự quản của tập thể học sinh. f. Kết hợp giáo dục giữa nhà trường - xã hội - gia đình trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh. 16 Chương 3 Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh ở trường THPT Hoàng Hoa Thám trong những năm gần đây 3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng trong trường học Trong trường THPT vị trí của Chi bộ là trung tâm chính trị tập hợp các lực lượng quần chúng nhằm thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Chi bộ chỉ đạo các hoạt động của nhà trường, là hạt nhân, là nền tảng của sự đoàn kết, chính vì thế luôn quan tâm xây dựng chi bộ nhà trường trong sạch vững mạnh, thực hiện tốt vai trò của mình, thực hiện phương châm "Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý". Mỗi một đảng viên phải đầu tàu gương mẫu trong mọi hoạt động, đặc biệt là trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Thường xuyên cập nhật thông tin, quán triệt các quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng và các cấp chính quyền. Sinh hoạt định kỳ vào đầu tháng để đề ra chủ trương kế hoạch cụ thể, giao trách nhiệm cho các tổ chức trong nhà trường thực hiện. Thường xuyên quan tâm công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cho cán bộ, giáo viên, học sinh. Đặc biệt đề ra nghị quyết chuyên đề về giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường. Theo dõi kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn, sửa chữa những tư tưởng lệch lạc sai đường lối, chủ trương mà chi bộ đã đề ra. 3.2. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của đội ngũ giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục đạo đức và rèn luyện nhân cách cho học sinh 3.2.1. Đối với giáo viên bộ môn Đặc thù của người giáo viên vừa là nhà sư phạm, vừa là nhà tổ chức, vừa tham gia các hoạt động chính trị, xã hội. Phương tiện lao động của người giáo viên là phẩm chất nhân cách và trí tuệ của chính họ. Những 17 phẩm chất đó tạo nên sức mạnh, niềm tin và lý tưởng nó thấm nhuần vào bài giảng, từng hoạt động giáo dục của họ. Để giáo dục đạo đức cho học sinh trước hết cần chú ý bồi dưỡng lòng nhân ái sư phạm cho đội ngũ giáo viên. Lòng nhân ái tình yêu thương con người là cái gốc của đạo lý làm người, tình yêu thương học sinh là điểm xuất phát của sự sáng tạo sư phạm làm cho giáo viên có trách nhiệm cao với công việc của mình. Xukhômlinski đã nói "nhờ sức mạnh của tình yêu đó mà nhà sư phạm có tâm hồn cao thượng, tinh thần sảng khoái, trí tuệ sáng suốt, tình cảm nhạy bén và tinh tế …" . Tình yêu thương học sinh thể hiện trong các hoạt động dạy học và giáo dục đó cũng là cơ sở xuất phát của tình yêu nghề. Ý thức thái độ và tình yêu nghề thể hiện ở việc không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức để trở thành gương sáng, tạo niềm tin trước học sinh, trước nhân dân. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt yêu cầu đạo đức của người thầy lên hàng đầu, người đòi hỏi thầy giáo "không những phải có trí tuệ phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng chỉ vì quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức …". Đối với người giáo viên lòng yêu nghề, sự say sưa hứng khởi, sự kiên trì, khắc phục khó khăn trong học hỏi rèn luyện, toàn tâm toàn ý với sự nghiệp giáo dục, tất cả vì học sinh thân yêu là biểu hiện đạo đức cách mạng và lý tưởng nghề nghiệp. Chính vì vậy mà tập thể nhà trường đã xây dựng được phong trào tự học, tự rèn luyện, không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, tư tưởng cho cán bộ giáo viên (thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, họp hội đồng sư phạm, các buổi học tập chính trị); đẩy mạnh thực hiện tốt cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “Mỗi thầy giáo, cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” Từ đó giáo viên thấy được vai trò của mình và có ý thức tham gia vào hoạt động giáo dục đạo đức học sinh thông qua các bài học trên lớp. Thông qua các tiết dạy học hoặc các buổi sinh hoạt ngoại khóa, giáo viên bộ môn có thể đan xen, lồng ghép, tích hợp các kiến thức vào giáo dục đạo 18 đức học sinh như: Môn Ngữ văn bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, lòng yêu thương con người, biết phân biệt các việc nên làm, biết ghét cái xấu, biết làm theo điều thiện, biết giúp đỡ những con người hoạn nạn khó khăn. Với môn học Lịch sử giúp học sinh hiểu biết truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của ông cha ta, biết tự hào và trân trọng về những truyền thống đó mà thấy rõ trách nhiệm của mình với quê hương đất nước. Môn Địa lý qua các bài giảng giúp học sinh hiểu thêm về quê hương, đất nước những di sản thế giới, những danh lam thắng cảnh của đất nước từ đó các em tăng thêm lòng trân trọng và có ý thức bảo vệ các di sản, danh lam đó. Mặt khác giúp học sinh hiểu về môi trường và bảo vệ môi trường. Đối với các môn Khoa học tự nhiên giúp học sinh nhận thức, lựa chọn đánh giá đúng đắn các giá trị và tìm ra những hành vi, biện pháp hợp lý trong đời sống đạo đức của mình. Đặc biệt thông qua môn Giáo dục công dân giúp học sinh nắm được các khái niệm cơ bản về các phạm trù đạo đức trong việc ứng xử hàng ngày, nắm được các chuẩn mực đạo đức, các hành vi trong các hoạt động và các mối quan hệ; biết rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, lương tâm, đạo đức, kỹ năng sống để chuẩn bị bước vào cuộc sống mới. - Thường xuyên động viên, nhắc nhở các giáo viên bộ môn để họ hiểu trách nhiệm giáo dục đạo đức học sinh trong trường là một nhiệm vụ của mọi người, không của riêng ai. Từ đó trong các giờ lên lớp giáo viên sẽ chú ý hơn, quan tâm hơn để uốn nắn lời nói, tác phong, hành động của học sinh trong việc thực hiện những nội quy, quy chế nhà trường. Biện pháp này có tác động tích cực trong quá trình giáo dục đạo đức học sinh. Điều 31 chương IV khoản 1 điểm đ) - Điều lệ trường Trung học nêu rõ: "Giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo, gương mẫu trước học sinh; thương yêu, tôn trọng học sinh, đối xử công bằng với học sinh." Như vậy vai trò của giáo viên rất quan trọng trong việc giáo dục đạo đức học sinh. 19 3.2.2. Đối với giáo viên chủ nhiệm Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp quản lý học sinh, gần gũi, gắn bó dễ tìm hiểu được tâm tư, nguyện vọng và hoàn cảnh của học sinh, là người mà học sinh cảm thấy thân thiết như cha mẹ, như người thân ruột thịt của mình, muốn thổ lộ, giải bày. Vì thế việc phân công giáo viên chủ nhiệm lớp luôn được ưu tiên chú trọng, phải chọn trong các giáo viên vững vàng về lập trường chính trị tư tưởng, có phẩm chất tốt, có nhiều kinh nghiệm, yêu nghề, năng động, thương yêu học sinh, hết lòng vì sự nghiệp giáo dục. - Thường xuyên bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm để họ nắm vững được nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mình; lập kế hoạch, có biện pháp, phương pháp giáo dục cụ thể phù hợp từng đối tượng học sinh trong công tác chủ nhiệm. Đồng thời biết kết hợp với giáo viên bộ môn, ban cán sự lớp và ban đại diện phụ huynh để theo dõi, giúp đỡ để kịp thời uốn nắn, giáo dục học sinh, nhất là các học sinh có vấn đề về đạo đức, như trong Điều 31 chương IV khoản 2 điểm c)- Điều lệ trường Trung học quy định về nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm là: "Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các giáo viên bộ môn, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh… trong việc hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng nghiệp của học sinh”. - Thành lập khối tổ giáo viên chủ nhiệm, tổ chức hội nghị giáo viên chủ nhiệm để trao đổi và học tập kinh nghiệm lẫn nhau để nâng cao năng lực chủ nhiệm. - Giáo viên chủ nhiệm còn kết hợp chặt chẽ với Ban nề nếp, Ban chấp hành Đoàn trường để kịp thời uốn nắn và xử lý nghiêm minh đối với những học sinh vi phạm nội quy, quy định của trường như: đi muộn, trốn học, bỏ tiết, trang phục không đúng quy định… 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan